Tại cửa ra vào của Tòa Án
Trọng Tài Thường Trực (Permanent Court of Arbitration) đặt tại The Hague, Hòa
Lan, có treo nhiều hình ảnh lãnh đạo các quốc gia trên thế giới đã từng viếng
thăm tòa. Một trong những bức ảnh đó là Nguyễn Tấn Dũng với hàng chữ ghi chú
“Ông Nguyễn Tấn Dũng Thủ tướng Việt Nam, 2011, thăm Tòa Án Quốc Tế”. Người viết
ghé qua cách đây hai năm và chụp một bức ảnh để khi cần dùng cho những bài phân
tích sau này.
Việc thủ tướng CSVN đến
thăm tòa án Trọng Tài Thường Trực, bên cạnh các lý do xã giao, có thể còn là
cách đánh tiếng cho Trung Cộng (TC) biết Việt Nam có thể chọn cách giải quyết
xung đột Biển Đông bằng cách đưa TC ra tòa. Nhắc lại, tháng 8 năm 2011 Hàng
Không Mẫu Hạm USS George Washington thả neo trong hải phận Việt Nam.
Dù hăm he đánh tiếng,
chín năm trôi qua, quan hệ giữa hai nước có khi nóng khi lạnh nhưng chưa khi
nào dẫn tới một trận pháo “công hàm” như cuối tháng Ba, 2020.
Khác với những lần trước,
lần này ngoài việc phản đối bằng miệng, CSVN ngày 24 tháng 3, 2020 đã phản đối
bằng việc gởi công hàm đến Liên Hiệp Quốc với nội dung chính như sau: “Việt Nam
khẳng định Công ước của Liên Hiệp Quốc về luật Biển (UNCLOS) 1982 là cơ sở pháp
lý duy nhất, quy định toàn diện và triệt để về phạm vi quyền được hưởng vùng biển
giữa Việt Nam và Trung Quốc.”
Các phương pháp đấu tranh
trong bang giao quốc tế nhiều khi cũng không khác gì chuyện xảy ra trong làng
xã. Một người bị ăn hiếp, sức yếu thế cô không đủ khả năng làm chuyện lớn thì
làm ồn lên, làm lớn chuyện lên.
Việt Nam có hai chọn lựa
để làm ồn và làm lớn chuyện: (1) đưa TC ra trước Đại Hội Đồng LHQ để yêu cầu
LHQ thông qua một quyết nghị cảnh cáo hay khiển trách hành vi nước lớn của TC đối
với Việt Nam, và (2) kiện TC ra trước Tòa án Trọng tài Thường trực (Permanent
Court of Arbitration) như Philippines đã làm.
Thứ nhất, đưa TC
ra Đại Hội Đồng LHQ.
Quyết nghị của Đại Hội Đồng
LHQ (United Nations General Assembly Resolution) không có tính bắt buộc phải
thi hành (non-binding) nhưng có ý nghĩa tinh thần rất lớn. Vì không cưỡng bách
thi hành nên các quyết nghị của đại hội đồng dễ đạt được hơn là các quyết nghị
của Hội Đồng Bảo An. Việt Nam có một danh sách dài của hàng trăm bằng chứng tố
cáo tội ác TC đã ức hiếp và tàn sát ngư dân Việt Nam.
Mặc dù là một nước lớn và
chi một khối tiền khổng lồ cho chính sách sức mạnh mềm quốc tế để mua chuộc cảm
tình, không bao nhiêu quốc gia chính thức ủng hộ lập trường của TC trên Biển
Đông.
Trung Cộng khoác lác có
trên 60 quốc gia và tổ chức quốc tế ủng hộ quan điểm của Trung Cộng về Biển
Đông. Tuy nhiên, 60 quốc gia và tổ chức quốc tế đó đa số là đám con buôn Á Rập
như Emirate, Kuwait cộng thêm 39 con nợ nghèo Phi Châu và Đông Nam Á như Togo,
Sudan, Nigeria, Mozambique, Somalia, Lào, Cambodia. Chỉ có bốn nước (Nga,
Serbia, Montenegro, Belarus) trong số 44 nước thuộc Châu Âu ủng hộ Trung Cộng.
Chỉ ba nước nhỏ (Bolivaria, Grenada và Dominica) trong số 33 nước Nam Mỹ Châu
và Caribbean ủng hộ Trung Cộng trong lúc 30 quốc gia khác thuộc khối quốc gia
đang nổi (Emerging countries) không ủng hộ.
Tóm lại, đa số các nước
dân chủ Tây phương, các quốc gia thuộc khối đang phát triển mạnh (emerging
countries), các quốc gia Nam Mỹ chẳng những không ủng hộ mà còn phê phán quan
điểm nước lớn ức hiếp các nước nhỏ trong vùng của TC.
Phân tích để thấy, vận động
một quyết nghị LHQ cảnh cáo chính sách nước lớn của TC trên Biển Đông có triển
vọng thành công khá cao. Cho dù không đạt được trên 50% đi nữa, đưa TC ra trước
Đại Hội Đồng LHQ cũng tạo được tiếng vang, giành được nhiều cảm tình quốc tế,
nhất là cho TC thấy họ phải thận trọng hơn trong hành xử.
Thứ hai, kiện TC
ra trước Tòa Án Trọng Tài Thường Trực.
Vấn đề này đã được mổ xẻ
từ giới hàn lâm, học thuật cho tới các diễn đàn xã hội từ nhiều năm nay. Dù
tranh luận hay phân tích sâu đến đâu, không ai có thể phán quyết thay cho các
quan tòa trong Tòa Án Trọng Tài Thường Trực.
Nhưng vấn đề không phải
là CSVN có thắng kiện hay không mà là có dám đưa TC ra trước LHQ hay trước Tòa
Án Trọng Tài Thường Trực không?
Trong quan điểm của người
viết, câu trả lời là không. Quốc gia nào trong vòng tranh chấp chủ quyền trên
Biển Đông đều có thể kiện TC và đều nắm chắc phần thắng ngoại trừ Việt Nam.
Cho đến nay TC dựa vào một
lý luận cùn gọi “quyền lịch sử” để biện minh cho quan điểm “chủ quyền Hoàng Sa,
Trường Sa không thể tranh cãi của Trung Cộng và đã được chứng minh qua hai ngàn
năm lịch sử”. Vụ kiện của Philippines cho thấy lý luận rỗng đó không thể dùng
làm bằng chứng tranh luận trước tòa án quốc tế.
Lý luận “quyền lịch sử”
mà người viết trước đây gọi là “quyền ăn cướp” của TC chỉ có tác dụng tuyên
truyền kích động trong đầu đám sinh viên cực đoan ở Bắc Kinh hay mấy ông bà
nông dân khờ khạo ở Tứ Xuyên. Lý luận của Tập Cận Bình giống hệt như lý luận của
Hitler biện minh cho việc tấn công Ba Lan là để tạo một “không gian sinh tồn” cần
thiết cho Đức.
Nhưng khác với Philippines, CSVN không dám đụng tới TC vì những lý do
sau:
1) Phụ thuộc về kinh tế. Mậu dịch giữa TC và Việt Nam chỉ 9.6 tỉ đô
la năm 2006 đã nhảy vọt 50 tỉ đô la vào 2013 và đang tiếp tục tăng. Sự phụ thuộc
theo cách đã diễn ra trong thời chiến không còn nữa, nhưng phụ thuộc kinh tế
qua quan hệ mậu dịch quá lớn, giữa Việt Nam và TC trong thời bình đã ảnh hưởng
mọi chính sách và thái độ của Việt Nam trước hành vi gây hấn của TC.
2) Lệ thuộc về lý luận tư tưởng. Duy trì quyền cai trị đất nước là ưu tiên số
một của đảng CSVN. Dù trên mặt nhà nước, CSVN và TC có khi nóng khi lạnh nhưng
giữa hai đảng vẫn có một mối quan hệ rất hữu cơ. Ban Tuyên giáo Trung ương CSVN
hợp tác chặt chẽ, viếng thăm và học tập hàng năm với Ban Tuyên truyền Trung
ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Các chương trình huấn luyện, tuyên truyền, “chống
diễn biến”, “chống phản động”, “chống thế lực thù địch” vẫn được trao đổi thường
xuyên giữa hai nước như đã và đang làm suốt 90 năm qua.
3) CSVN cô thế. Trước 1978, Liên Sô là đỡ đầu của Ai Cập, một thành trì chống Mỹ chiến
lược tại Trung Đông. Chỉ riêng tiền mặt, Liên Sô viện trợ cho Ai Cập 1.2 tỉ đô
la. Ngoài ra, Liên Sô còn chịu trách nhiệm phần lớn chi phí các đề án kinh tế
khác của Ai Cập. Anwar Sadat bắt tay với Do Thái, lạnh lùng bỏ Liên Sô ra đi vì
Sadat biết sau lưng Do Thái là Mỹ. CSVN đơn độc, không có chỗ dựa nào khác. Không tin ai và cũng chẳng được
ai tin.
Sau Hội Nghị Thành Đô,
CSVN theo lịnh TC đã áp dụng chính sách quốc phòng “ba không” (không tham gia
các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không
cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để
chống nước kia.) Chính sách “ba không” tương tự như chính sách mà Phần Lan đã
áp dụng để thỏa mãn đòi hỏi của Stalin sau Thế Chiến Thứ Hai. Khác chăng, Phần
Lan chịu nhún nhường Stalin để duy trì chế độ Cộng Hòa, trong khi đảng CSVN
nhún nhường Tập để duy trì chế độ CS. Vì phải thỏa mãn yêu sách của TC, CSVN trở
thành cô thế, không có một đồng minh nào tin cậy trong vùng. Ngay cả Lào và
Cambodia cũng bỏ rơi CSVN. Với ngân sách 5.1 tỉ đô la dành cho quốc phòng, CSVN
không phải là đối thủ của TC về kỹ thuật chiến tranh cũng như về quân đội.
4) Cái xương gà “Công Hàm Phạm Văn Đồng”. Phản ứng Trung Cộng, ngoài việc dẫn chứng
các “tài liệu lịch sử” riêng của mình, họ còn dựa vào Công hàm Phạm Văn Đồng để
cho rằng Việt Nam chính thức thừa nhận hai quần đảo là của Trung Cộng từ năm
1958. Trung Cộng còn cho biết ngay trong các sách giáo khoa địa lý bậc trung học
trước năm 1975 tại miền bắc Việt Nam cũng đã xác định Hoàng Sa Trường Sa là của
Trung Cộng, và ngoài ra, thứ trưởng ngoại giao Việt Nam Ung Văn Khiêm cũng lập
lại điều này khi tiếp tham vụ tòa đại sứ Trung Cộng Li Zhimin.
Người viết đã viết nhiều
bài về vấn đề này, chỉ xin nhắc lại “Công hàm Phạm Văn Đồng” là cái xương gà nuốt
không vô mà nhả không ra của đảng CSVN. Kiện TC ra tòa án quốc tế là một nước cờ
mà CSVN chần chừ bao nhiêu năm nhưng không dám đi.
Dưới mắt một số người Việt, “Công hàm Phạm Văn Đồng” có thể chỉ là tờ
giấy lộn nhưng với tòa án quốc tế đó có thể là một văn kiện ngoại giao chính
thức của Thủ tướng, Ủy Viên Bộ Chính Trị, chấp hành lịnh của Chủ tịch Đảng và
Chủ Tịch Nước Hồ Chí Minh để ký, gởi đi và đã đăng trên báo Nhân Dân cho toàn
dân biết.
Với bốn lý do nêu trên,
CSVN đừng nói chi là đương đầu hay thoát ra mà ngày càng lún sâu vào quỹ đạo của
TC để trở thành một nước chư hầu trong thời đại toàn cầu hóa.
Dù ở trong nước hay hải
ngoại, chắc chắn vẫn còn rất nhiều người hằng đêm canh cánh vì tiền đồ đất nước
và mong muốn dân tộc Việt Nam thật sự được “thoát Trung”.
“Thoát Trung” để nhìn thấy
bầu trời Biển Đông không còn bị chắn che bởi những đảo nhân tạo, những căn cứ
quân sự, những phi trường, quân cảng cắm cờ TC.
“Thoát Trung” để được sống
như những con người độc lập trong một đất nước độc lập, không còn bị ảnh hưởng
bởi tư tưởng nô lệ, ngoại lai, độc tài, vong bản.
“Thoát Trung” để xây dựng
một đất nước Việt Nam thật sự tự do, dân chủ, nhân bản, công bằng và bác ái cho
những người Việt Nam còn sống hôm nay hay sẽ sinh ra và lớn lên trên dải đất
hình cong chữ S thân yêu ngày mai.
Nhưng mục đích nào cũng
có những tiền đề phải thỏa mãn và những thách thức phải vượt qua. Một người
không thể thắng kẻ thù nếu không thắng được chính mình. Tương tự, Việt Nam như
một dân tộc không thể thắng TC nếu trước hết không giải quyết được những chướng
ngại đang tồn đọng trong đất nước mình, không tổng hợp được sức mạnh của cả nước,
không vận dụng được hướng đi của thời đại để phục vụ cho mục tiêu phục hưng và
thăng tiến Việt Nam như Nhật Bản, Đức, Nam Hàn, Thổ Nhĩ Kỳ đã làm. Chướng ngại lớn nhất của Việt
Nam là cơ chế chính trị độc tài độc đảng CS hiện nay.
Nói vắn tắt, ngày nào chế độ CS còn tồn
tại, mọi mơ ước “thoát Trung” chỉ là ảo tưởng.
Trần Trung Đạo
No comments:
Post a Comment