Diễm
Thi, RFA
24/04/2020
Những người theo dõi truyền
hình cho biết liên tiếp những ngày qua, cơ quan truyền thông Nhà Nước Việt Nam
lên tiếng phản đối Trung Quốc như một cách kêu gọi lòng yêu nước và tinh thần
dân tộc của người dân.
Ông Đức Minh, một cựu sĩ quan quân đội từ Sài Gòn nói với RFA:
“Tôi thấy đó là một hiện tượng lạ. Tôi đang phân vân
không biết có phải giới cầm quyền Việt Nam thay đổi quan điểm về ngoại giao với
Trung Quốc hay không, nhưng bản thân lại không tin lắm vào việc họ thay đổi...
Nhiều người dân trong nước vẫn bị an ninh sách nhiễu
về việc đeo khẩu trang có dòng chữ No-U”.
Ông Minh liên tục phản đối
Trung Quốc trên facebook cá nhân của mình và kêu gọi nhà cầm quyền Việt Nam đừng
quá nhu nhược. Bản thân ông cho biết dù không còn trẻ nhưng ông sẵn sàng tái
ngũ, cầm súng đánh giặc khi tổ quốc cần.
Còn cô Lê Thị Tuyết, một công nhân ở Tây Ninh thì nêu suy nghĩ đơn
giản của mình khi trò chuyện cùng RFA:
“Mất nước là do lỗi của những ông lớn, những lãnh đạo
đã để Trung Quốc xâm lấn. Em là một người dân mà em có biết gì đâu. Chuyện
đó để Nhà nước lo thôi. Mình ở Việt Nam mà, họ làm như thế nào mình cũng phải
chịu thôi."
Theo ghi nhận của RFA, chỉ
một số ít người dân tin vào báo chí và truyền thông nhà nước. Đa số họ chỉ lấy
thông tin từ chính quyền để tham khảo rồi tìm hiểu thêm trên mạng xã hội, từ
nguồn đáng tin cậy.
Anh Trần Trọng Nhân từ Buôn Mê Thuột nói với RFA rằng, có hai góc
nhìn từ người dân. Một góc nhìn từ những người dân bàng quan với thời cuộc và
góc nhìn từ những người dân trăn trở với hiện tình đất nước. Là một người luôn
quan tâm đến thời cuộc, anh Nhân cho biết bản thân anh biết tin tức về biển đảo
qua nhiều nguồn, nhưng trên mạng xã hội là chính. Nguồn chính thống từ trong nước
thì anh ít theo dõi, chỉ coi một vài chương trình coi họ nói gì, họ phản ứng
như thế nào thôi.
Anh nói:
“Với lòng yêu quê hương đất nước em rất thao thức với
hiện tình biển đảo, nhưng nếu bây giờ kêu em xuống đường chống Trung Quốc như
trước thì em sẽ không đi. Em đã nhiều lần xuống đường và lần nào cũng bị chính
quyền đàn áp. Lúc nào họ cũng nói với em rằng, các anh không phải lo. Có đảng
và nhà nước lo rồi.
Lâu nay dân lên tiếng, mọi người lên tiếng
Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam thì bị bắt bỏ tù. Bây giờ trước tình hình nguy
cấp hơn bao giờ hết, đảng và nhà nước tự lo đi.”
Anh Nhân nói thêm rằng, với
những người dân khác, khi mà báo đài lên tiếng mấy hôm nay thì họ cũng có lòng
căm ghét Trung Quốc nhưng họ chỉ dừng lại ở đó, không có hành động cụ thể gì cả.
Anh Nguyễn Văn Khánh từ Hà Nội, người theo dõi rất kỹ những diễn biến
từ hôm 30 tháng 3 đến hôm nay, nói với RFA:
“Từ lâu rồi em không coi TV, không đọc báo trong nước mà chỉ nghe và đọc
BBC, CNN, RFA…Tin tức trong nước cũng chỉ đọc online thôi.
Về Hoàng Sa thì thực sự Việt Nam đã hoàn toàn mất
quyền kiểm soát từ năm 1974 rồi. Còn Trường Sa thì hiện có hơn 20 thực thể có
quân đồn trú của Việt Nam.”
Hoàng Sa bị Trung Quốc cưỡng
chiếm toàn bộ từ tháng giêng năm 1974 và gọi quần đảo này là Tây Sa. Từ ngày 30 tháng 3 đến 10 tháng
4, Việt Nam đã liên tục gửi 3 công hàm đến Liên Hiệp Quốc để phản đối những đòi
hỏi về chủ quyền phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông.
Anh Lê Văn Tài từ Vĩnh Long chia sẻ với RFA:
“Tin tức biển đảo thì tôi coi trên internet từ những
nguồn khả tín. Báo chí nhà nước thì họ cho nghe cái gì mình biết cái đó thôi.
Chỉ coi để tham khảo và suy đoán. Không thể là thông tin chính thống mà tin tưởng
được. Tôi coi những đài như VOA, RFA, BBC…Gần đây có những trang mạng dẫn link
tiếng Anh.
Với tư cách là một người dân, tôi thấy chuyện biển đảo
đã ‘xong’ từ lâu rồi. Mất rồi không còn hy vọng gì nữa. Không có lối thoát. Bao
nhiêu năm nay chính phủ có làm được gì đâu ngoài phản đối lấy lệ!”
Công hàm 1958
Trung Quốc vừa qua đã
dùng công hàm 1958 gửi lên LHQ về Trường Sa và Hoàng Sa như là một bằng chứng
cho lập luận của mình.
Đây không phải lần đầu
tiên Trung Quốc dùng công hàm này để ‘bắt chẹt’ Việt Nam. Năm 2014, khi Trung
Quốc đưa ra Công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958 để biện luận cho những hành động của
họ tại Biển Đông. Bộ Ngoại giao Việt Nam đã họp báo phản đối cho rằng công hàm
đó vô hiệu.
Lúc bấy giờ Thạc sĩ
Hoàng Việt lên tiếng với RFA về vấn đề này:
“Không có ông nào ở miền
Bắc lúc đó có quyền nói về công nhận Hoàng Sa Trường Sa được cả. Bởi vì lúc đó
theo Hiệp định Geneve 1954 chia đôi hai miền Nam Bắc, rõ ràng là một bên từ vĩ
tuyến 17 trở ra là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa; một bên từ vĩ tuyến 17 trở vào là
Việt Nam Cộng Hòa. Rõ ràng hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về Việt Nam Cộng
Hòa còn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thì có tư cách gì mà nói đến.”
Với những người dân bình
thường thì họ nghĩ gì trong thời điểm hiện nay?
Anh Lê Văn Tài từ Vĩnh Long khẳng định công hàm 1958 rõ ràng là đã ‘bán nước’ bởi nó
đã công nhận quyết định chủ quyền biển đảo Trung Quốc đưa ra trước đó. Theo anh
Tài thì ngoài công hàm này còn nhiều thứ ở bên trong mà có thể người dân chưa
biết. Trung Quốc dùng công hàm này để đe dọa Việt Nam, nếu phản ứng nó sẽ 'xì'
thêm nhiều chuyện kinh thiên động địa nữa.
Anh Nguyễn Văn Khánh nêu ý kiến :
“Công hàm của ông Phạm Văn Đồng gửi ông Chu Ân Lai
năm 1958 em cho rằng đó thực sự là một công văn bán nước, không thể biện bạch.
Với vai trò là một ông Thủ tướng, trên là ông Hồ thì không thể nói câu lúc đó
không quản lý vùng lãnh hải ấy mà do VNCH quản lý, nên tuyên bố của ông Đồng là
vô giá trị.
Em cho rằng truyền thống đánh giặc và truyền thống
yêu nước của người dân Việt Nam có từ hàng ngàn năm nay. Khi tinh thần của người
Việt Nam đã trỗi dậy thì không một ai có thể cản trở.”
Trong khi đó, anh Trần
Trọng Nhân lại cho rằng Trung Quốc sử dụng công hàm này để khẳng định chủ
quyền biển đảo là không hợp lý. Người cộng sản Việt Nam bị cài bẫy từ thời đó rồi.
Anh giải thích:
“Năm 1958 Hoàng Sa, Trường Sa không thuộc quyền quản
lý của cộng sản Bắc việt mà thuộc quản lý của Việt Nam Cộng Hòa.
Đối với cộng sản Việt Nam bây giờ, nếu họ phủ nhận
công hàm này, không công nhận công hàm này thì họ phải công nhận tính chính
danh của thể chế Việt Nam Cộng Hòa.”
Điều này từng được Tiến
sĩ Nguyễn Nhã nói đến từ năm 2017 với báo chí trong nước rằng, về pháp lý
quốc tế cũng như về mặt lịch sử, Việt Nam Cộng Hòa là một thực thể chính trị rất
hiển nhiên không thể chối cãi.
---------------
Tin, bài liên quan
No comments:
Post a Comment