Lê
Xuân Khoa
27/04/2020
Tháng Tư 1975, sau khi chiến thắng Việt Nam Cộng
Hòa và kết thúc cuộc nội chiến 20 năm, cộng sản miền Bắc đã mau chóng giải tán
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam và Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam,
đổi tên nước là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và áp đặt chế độ độc tài
toàn trị trên cả hai miền đất nước. Chính sách bóc lột và trả thù tàn ác của cộng
sản đối với nhân dân miền Nam là nguyên nhân chính đã khiến trên hai triệu dân
phải bỏ hết tài sản và sự nghiệp để chạy ra nước ngoài cũng trong 20 năm liên
tiếp với khoảng 300,000 người thiệt mạng trên đường mạo hiểm tìm kiếm tự do.
Theo các con số của Liên
Hiệp Quốc, cho tới khi quốc tế chính thức chấm dứt chương trình tị nạn Việt Nam
năm 1995, tổng số người ra đi lên tới 2,164,000 người, liệt kê theo từng loại
như dưới đây:
Đợt 1 (cuối tháng Tư
1975): 140,000
Đợt 2 (1975-1979): 327,000
Đợt 3 (1980-1989): 450,000
Đợt 4 (1990-1995): 63,000
Số người gốc Hoa bị đẩy về Trung Quốc: 260,000
Chương trình ODP (1979-1995): 624,000
Số người chết hay mất tích trên đường tị nạn: 300,000
Trong tổng số 2,164,000 kể
trên, ngoài 140,000 người được chính phủ Mỹ di tản trong đợt đầu và 624,000 đi
theo diện ODP, có khoảng 840,000 người đã vượt thoát bằng đường biển hay đường
bộ trong ba đợt sau tới các trại tạm trú ở Hong Kong và một số quốc gia Đông
Nam Á. Trong số này, 750,000 được nhận định cư tại Mỹ và các nước khác. Như vậy,
số người không được công nhận là tị nạn và bị kẹt lại ở các nước tạm dung
(first asylum countries) là 90,000, nhưng trên thực tế năm 1995 chỉ còn lại khoảng
40,000. Điều đó cho thấy là trong sáu năm từ Hội nghị quốc tế Geneva lần thứ 2
về tị nạn Đông Dương (1989) đến năm Liên Hiệp Quốc chính thức chấm dứt các
chương trình tị nạn (1995), đã có khoảng 50,000 người hồi hương do tình nguyện
hay bị cưỡng bách. Số 40,000 còn lại phải tiếp tục trở về nước, hầu hết bị cưỡng
bách hay không chống đối (non-objectors), trước khi trại tị nạn cuối cùng được
đóng cửa năm 1997.
So với các nhóm tị nạn và di dân tới Mỹ và các nước
khác trong thế kỷ 20, lịch sử người Việt gốc tị nạn (1) có ít nhất năm đặc điểm:
(1) Việt Nam có số dân tị nạn bỏ nước ra đi đông nhất và phải trải qua những tình trạng bi thảm nhất thế giới trong thế kỷ 20 với số người bỏ mình trên đường tìm tự do lên tới khoảng 300,000 người.
(2) Các chính sách và chương trình định cư tị nạn Việt Nam ở Mỹ phức tạp nhất gồm nhiều tên gọi khác nhau: Bốc Trẻ Mồ côi (baby lift), Trẻ em lai (Amerasians), Trẻ em Không Người đi kèm (unaccompanied minors), Ra đi Trật tự (ODP) gồm các diện: đoàn tụ gia đình, tù cải tạo (H.O và ROVR), nhân viên chính phủ Mỹ (U11), và nhân viên các hãng tư cùa Mỹ (V11).
(3) Chính nghĩa của người tị nạn, chỉ ít năm sau khi định cư ở nước ngoài, đã được chính các lãnh đạo Đảng và Nhà nước CSVN nhìn nhận và kêu gọi “khúc ruột xa ngàn dặm” trở về hợp tác thay vì lên án và nguyền rủa như trong những năm đầu.
(4) Người tị nạn có tiếng nói và vai trò ảnh hưởng tới các chính sách chấp nhận và định cư tị nạn, tham gia các hoạt động cứu vớt và bảo vệ thuyền nhân, và cuối cùng đã thật sự giúp cho Hoa Kỳ và quốc tế giải quyết vấn đề tị nạn được công bằng và nhân đạo.
(5) Khi trở thành công dân của quốc gia định cư, người cựu tị nạn lại có vai trò quan trọng trong các quan hệ giữa quê hương mới và quê hương gốc, trên cả hai bình diện chính quyền và dân sự.
Qua hàng trăm cuốn sách về tị nạn Việt Nam, hầu hết các tác giả Việt
Nam và ngoại quốc đã trình bày rất đầy đủ về những sai lầm và tội ác của cộng sản
và những cuộc vượt thoát gian nan bi thảm của người tị nạn. Mặt khác, lịch sử tị nạn cũng cho thấy khả
năng hội nhập mau chóng của người Việt Nam vào xã hội dòng chính và họ đã tạo
được nhiều thành tích đáng kể trên các lãnh vực kinh tế, khoa học, nghệ thuật
và ngay cả chính trị. Tuy nhiên, dường như chưa có tác giả nào làm nổi bật
chính nghĩa tị nạn như được nêu ra trong điểm số 3 trên đây, là đặc diểm then
chốt giúp cho người tị nạn chuyển bại thành thắng, khôi phục những giá trị của
tự do, dân chủ trước sự suy đồi của chủ nghĩa cộng sản. Cho đến nay, chính
nghĩa ấy mới chỉ được hàm ngụ gián tiếp trong những lời tố cáo những hành động
chiếm đoạt và trả thù tàn nhẫn của cộng sản đối với nhân dân miền Nam để giải
thích nguyên nhân tị nạn. Điểm số 4 cho thấy ảnh hưởng tích cực của công dân Mỹ
gốc tị nạn đối với các nhà làm chính sách trong những cuộc vận động cứu trợ và
định cư tị nạn. Đáng tiếc là giữa những tổ chức cộng đồng có những vụ công kích
nhau chỉ vì nghi ngờ hay ngộ nhận về cách làm việc khác nhau nhưng cùng chung mục
đích, tệ hại nhất là những trường hợp tung tin thất thiệt hay trình bày sự kiện
sai lạc chỉ cốt đạt được lợi ích cá nhân. Điểm số 5 liên quan đến tình hình
chính trị phức tạp ở Việt Nam về cả hai mặt đối nội và đối ngoại từ sau 1995 đến
nay, có ảnh hưởng tới quan hệ giữa người Việt Nam ở nước ngoai với chính quyền
và nhân dân trong nước. Lý do vì từ sau 1995, cộng đồng người Việt hải ngoại
không chỉ có thêm người tị nạn chính trị, do tự ý hay bị trục xuất, mà còn có số
đông là di dân trong đó có không ít thân nhân xa gần của đảng viên cộng sản cao
cấp hòa nhập vào cộng đồng cựu tị nạn nhưng cũng đang làm biến đổi các quan hệ
giữa trong và ngoài nước.
Trong phạm vi của một bài
viết nhân dịp kỷ niệm lần thứ 45 ngày 30/4/1975, tôi không thể viết về tất cả 5
đặc điểm trong lịch sử tị nạn Việt Nam. Do đó, tôi sẽ chỉ ôn lại đặc điểm số 3
(chính nghĩa của tị nạn) và số 4 (tiếng nói và vai trò của người tị nạn) vì đây
là hai điểm quan trọng chưa được chú ý đúng mức hay còn thiếu những thông tin cần
được ghi nhận như những sự kiện lịch sử. Chính nghĩa tị nạn đã tạo cơ hội cho
người tị nạn đóng góp đáng kể cho các chương trình cứu giúp, bảo vệ và định cư
tị nạn, vận động thành công cho sự ra đời các đạo luật ủng hộ tị nạn, và đặc biệt
là tham gia đắc lực vào các nỗ lực quốc tế giải quyết những cuộc khủng hoảng về
thuyền nhân tị nạn kéo dài 20 năm ở Hong Kong và các nước ĐNÁ. Ngày nay, những
công dân nước ngoài gốc Việt lại có vai trò đáng kể trong sự phát triển quan hệ
hợp tác giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, đặc biệt trước mối hiểm họa chung là Trung Cộng.
Đây cũng là những quan tâm lớn đối với tất cả những di dân và công dân ngoại quốc
gốc tị nạn Việt Nam.
CHÍNH NGHĨA CỦA TỊ
NẠN VIỆT NAM
Như trên đã nói, hàng
trăm ngàn trang sách, bài vở và vô số hình ảnh đã trình bày lịch sử tị nạn Việt
Nam như một tấn thảm kịch về chính sách cướp đoạt và trả thù độc ác của cộng sản
đối với nhân dân miền Nam, những cuộc vượt thoát vô cùng bi thảm của người tị nạn,
đời sống khổ cực của họ trong các trại tạm trú, nhất là phản ứng tuyệt vọng của
những người bị bác bỏ quyền tị nạn và bắt buộc phải hồi hương. Tấn thảm kịch 20
năm đó cần phải được ghi chép trung thực và đầy đủ để muôn đời sau còn lưu lại
tên tuổi của những kẻ chịu trách nhiệm gây nên thảm họa không từng thấy trong lịch
sử dân tộc.
Tuy nhiên, tị nạn Việt
Nam không chỉ là một chuỗi dài bi kịch trong những ngày cuối cùng của Việt Nam
Cộng Hòa và những câu chuyện thương tâm trong những cuộc hành trình gian khổ của
người tị nạn. Đây cũng là lịch sử một cuộc ra đi có chính nghĩa của hàng triệu
người Việt Nam phải rời bỏ quê hương, tài sản và sự nghiệp chỉ vì muốn thoát khỏi
chế độ hà khắc của độc tài cộng sản. Chính nghĩa của cuộc ra đi không tiền
khoáng hậu này đã được chứng tỏ bằng những khoản ngoại tệ (hay kiều hối) được
chuyển về nước giúp cho thân nhân, bằng hữu hay đầu tư kinh doanh, những chương
trình giúp đỡ nhân đạo và cải thiện xã hội đang thực hiện khắp nước của các tổ
chức phi chính phủ, không kể số lượng nhân tài chưa thể trở về giúp cho Việt
Nam mau chóng trở thành một quốc gia phát triển hàng đầu trong khu vực.
Đáng ghi nhớ là chính
nghĩa này đã được chính các nhà lãnh đạo cộng sản công khai thừa nhận từ giữa
thập kỷ 1980 khi họ bừng tỉnh trước tình hình suy sụp mau chóng của các nước cộng
sản Đông Âu, do đó đã quyết định “đổi mới hay là chết”. Nhân dân miền Nam không
còn bị lên án là “ngụy” hay “phản động” và người tị nạn cũng hết bị nguyền rủa
là “ma cô, đĩ điếm”. Một chính sách mới về “Việt kiều” được thiết lập, xoay 180
độ sang ca ngợi cộng đồng người Việt hải ngoại bằng những cụm từ hoa mỹ như
“khúc ruột ngàn dặm”, “nguồn nội lực quan trọng” hay “bộ phận không thể tách rời”
của dân tộc. Về điểm này, tác giả bài này đã nhấn mạnh trong lời kết bài thuyết
trình tại Đại học Columbia, New York, nhân dịp kỷ niệm 20 năm tị nạn Việt
Nam: “Hai mươi năm
trước, chúng ta là những kẻ thất trận trong thời chiến. Ngày nay, năm 1995,
chúng ta đã vươn lên thành những người thắng cuộc trong thời bình.” (2) Đặc
biệt hơn nữa là gần 20 năm sau, nhà báo Huy Đức nổi tiếng ở trong nước cũng thẳng
thắn phát biểu trong lời mở đầu cuốn sách Bên Thắng Cuộc : “Nhiều người thận trọng nhìn lại
suốt hơn ba mươi năm, giật mình với cảm giác bên được giải phóng hóa ra lại là
miền Bắc.” (3)
Buổi ăn trưa tại Bộ
Ngoại giao do ông Funseth khoãn đãi phái đoàn Văn Bút VN hải ngoại trước ngày
lên đường đi VN ký thỏa hiệp định cư tù cải tạo. Dãy bên phải: nhà thơ Viên Linh, ông Funseth,
nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn, GS Lê Xuân Khoa. Dãy bên trái: nhà văn Trà Lũ, cố nhà báo Chử
Bá Anh (thứ 3). Nhửng người Mỹ còn lại là thành viên phái đoàn Funseth.
(Hình: Tác giả cung cấp)
Chính nghĩa tị nạn 1975
càng sáng tỏ hơn sau khi hai quốc gia Việt, Mỹ thiết lập quan hệ bình thường
năm 1995. Do sự tan rã của các nước cộng sản Đông Âu và Liên Bang Xô-viết, cộng
sản Việt Nam phải quay về núp bóng cộng sản Trung Quốc để duy trì chế độ nhưng
không khỏi lo sợ nguy cơ đất nước bị Trung Quốc chiếm đoạt. Bởi vậy, Việt Nam
cũng quyết định trông cậy vào sức mạnh kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ để có thể
tồn tại độc lập và trở thành một quốc gia giàu mạnh và phát triển. Sự chuyển hướng
chiến lược này đương nhiên nhìn nhận vai trò quan trọng của cộng đồng công dân
Mỹ gốc Việt trong quan hệ hợp tác giữa hai nước. Điều này đã được những lãnh đạo cao cấp nhất ở Việt Nam
long trọng xác nhận trong cả hai cuộc họp thượng đỉnh tại thủ đô Washington,
DC, giữa Tổng thống Obama với Chủ tịch Trương Tấn Sang năm 2013 và với Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng năm 2015.
Ngày 25.7.2013, trong cuộc họp báo công bố bản Tuyên bố Chung, khi TT Obama khẳng định
“nguồn sức mạnh giữa hai quốc gia là những công dân Mỹ gốc Việt sống ở Mỹ nhưng
có nhiều ràng buộc chặt chẽ với Việt Nam, và những quan hệ giữa người dân trong
và ngoài nước chính là chất keo sơn gắn bó sự hợp tác mạnh mẽ giữa hai nước.”
CT Trương Tấn Sang “cám ơn Hoa Kỳ đã giang tay đón nhận người Việt Nam tới định
cư và nay họ đã trở thành công dân Mỹ đang đóng góp vào công cuộc phát triển
chung của nước Mỹ.”
Ngày 7.7.2015, sau cuộc họp với TBT Nguyễn Phú Trọng, TT Obama lại cho giới truyền
thông hay là khi đề cập đến những hoạt động hợp tác giữa người dân hai bên với
nhau, TBT Trọng đã nhận định rằng “nước Mỹ có nhiều công dân gốc Việt và Việt
kiều hơn bất cứ nước nào khác trên thế giới và họ đã đóng góp lớn lao cho xứ sở
này. Chúng tôi muốn mở rộng những trao đổi như vậy gồm cả những chương trình
thông qua đại học Fulbright đã được chấp thuận và sắp sửa khai mạc.” Tiếp theo,
ông Trọng ngỏ lời chào mừng và thăm hỏi thân tình cộng đồng người Việt ở Mỹ, hi
vọng rằng mối quan hệ giữa hai nước sẽ gia tăng hơn nữa.
Trong chuyến đi Mỹ lần
này, TBT Nguyễn Phú Trọng đã đề cao vai trò quan trọng của người Mỹ gốc Việt
nhiều hơn CT Trương Tấn Sang hai năm trước. Ngoài phát biểu trong bản Tuyên Bố
Chung, lần đầu tiên “nhìn nhận sự thành công của người Việt Nam tại Hoa Kỳ và
nhiều đóng góp của họ đối với sự phát triển của Việt Nam và Hoa Kỳ”, TBT Trọng
còn có bài diễn văn tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS),
trong đó ông đã dùng những từ “đặc biệt” và “hết sức quan trọng” để nói về “cộng
đồng đông đảo người Việt Nam tại Hoa Kỳ” mà ông định nghĩa chính xác và thân
thiện là “công dân Hoa Kỳ và cũng là đồng bào của chúng tôi”. Dù lãnh đạo cộng sản nổi tiếng về
nói dối và lợi dụng cơ hội, những lời phát biểu chính thức này cho thấy họ
không phủ nhận được chính nghĩa yêu nước của người tị nạn.
Cũng cần nói thêm rằng
chính nghĩa của người tị nạn không chỉ được chứng tỏ bằng tinh thần yêu chuộng
dân chủ và nhân quyền mà các lãnh đạo cộng sản đã phải nhìn nhận, dù miễn cưỡng,
như một sự khác biệt cần được tôn trọng. Chính nghĩa đó còn được thể hiện như một
thông điệp của người tị nạn nhắc nhở Hoa Kỳ về trách nhiệm đối với Việt Nam Cộng
Hòa, một cựu đồng minh đã phải hy sinh quá lớn về tài sản và nhân mạng trong
vai trò “tiền đồn của thế giới tự do” trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương.
Thông điệp này được gửi đi trong bản điều trần của IRAC trước Thượng Viện Mỹ
ngày 22.9.1981. Khi đó, tác giả bài này đang là Phó Giám đốc Trung tâm Tác vụ về
Tị nạn Đông Dương (Indochina Refugee Action Center, IRAC) (4) lần đầu tiên ra
điều trần trước Ủy ban Tư pháp Thượng viện Hoa Kỳ. Đó cũng là lúc đang có một
luồng dư luận trong giới chính trị gia bảo thủ cho rằng tị nạn Việt Nam chỉ là
di dân kinh tế và nước Mỹ đã mệt mỏi tình thương (compassion fatigue). Bản điều trần của IRAC kịch liệt
phản bác luận điệu sai lầm này, nhấn mạnh rằng trong suốt hai ngàn năm lịch sử,
đất nước Việt Nam đã trải qua nhiều thời kỳ đói kém hay loạn lạc, nhưng chưa
bao giờ nhân dân Việt Nam rời bỏ quê hương ra sinh sống tại nước ngoài cho đến
khi bị cai trị bởi chế độ độc tài cộng sản. Sau khi chứng minh chính
nghĩa của tị nạn Việt Nam và triển vọng đóng góp cho xã hội Hoa Kỳ, tác giả kết
luận bài điều trần bằng một sự kiện đau thương nhằm thức tỉnh lương tâm các nhà
lãnh đạo Mỹ: “Xin đừng để các dân tộc trên thế giới
phải đồng tình với cố thủ tướng Cam-bốt Sirik Matak khi ổng viết những dòng chữ
cuối cùng cho Đại sứ Mỹ, từ chối sang Mỹ tị nạn và chấp nhận bị Khmer Đỏ sát hại.
Ông viết: ‘Lỗi lầm duy nhất của chúng tôi là đã đặt niềm tin vào nước Mỹ’.
Xin hãy tiếp tục duy trì truyền thống bày tỏ tình đoàn kết và lòng quảng đại của
nước Mỹ đối với những nạn nhân của chế độ bạo tàn. Là một quốc gia và một nền
kinh tế thịnh vượng, Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ không bao giờ phải hối tiếc về sự mở
vòng tay đón nhận “những người đang khao khát được hít thở không khí tự do.”
(5)
Chủ tọa buổi điều trần là
Thượng nghị sĩ Alan K. Simpson (R-Wyoming) lập tức nhận định rằng đây là “một
bài thuyết trình đầy sức mạnh” (a very powerful presentation) (6). Từ đó, ông
có thái độ cởi mở hơn đối với người tị nạn từ ba nước Đông Dương.
TIẾNG NÓI VÀ VAI
TRÒ CỦA NGƯỜI TỊ NẠN
Ngoài việc thể hiện chính
nghĩa yêu nước theo lý tưởng quốc gia, chống lại chủ nghĩa và chế độ độc tài cộng
sản, những người tị nạn may mắn định cư ở những nước dân chủ đã sớm góp phần
đáng kể vào các nỗ lực quốc tế cứu vớt người vượt biển, chống nạn hải tặc, giúp
đỡ tị nạn còn kẹt trong các trại tạm trú. Khi thuyền tị nạn bị đẩy ra khơi, họ
đã lên tiếng vận động các nước giải quyết những cuộc khủng hoảng về tình trạng
tị nạn tạm trú và được chấp thuận định cư. Vì không đủ thông tin và dữ kiện về
tình hình tị nạn ở các nước, tác giả sẽ chỉ viết về lịch sử người Việt tị nạn ở
Hoa Kỳ với giả định là vấn đề tị nạn Việt Nam trên thế giới về cơ bản có nhiều
điểm giống nhau mà Hoa Kỳ là điển hình về mọi mặt. Ngoài ra, do những điều kiện
thuận lợi của cá nhân và tổ chức do mình chịu trách nhiệm, đã đến lúc người viết
phải nhắc đến những kinh nghiệm bản thân trong các nỗ lực chung của nhiều cá
nhân và tổ chức trong cộng đồng người Việt ở Mỹ. Nhờ được đào tạo về sư phạm và
nghiên cứu, người viết luôn cố gắng giữ thái độ khách quan, khoa học, tường thuật
và nhận định trong tinh thần tôn trọng sự kiện có thật hay có nguồn dẫn chứng cụ
thể. Lịch sử tị nạn là một phần của lịch sử Việt Nam, của Hoa Kỳ và các nước
định cư, do đó cần phải được ghi chép chính xác và đầy đủ hầu tránh được những
thiếu sót hay ngộ nhận, nhất là những sự kiện quan trọng đã bị vô tình hay cố ý
trình bày sai sự thật về các hoạt động bảo vệ người tị nạn đã diễn ra mấy chục
năm về trước.
Cuộc tị nạn bi thảm nhất
thế kỷ 20 của thuyền nhân Việt Nam đã gây chấn động thế giới và Tổng Thư Ký
Liên Hiệp Quốc đã hai lần phải triệu tập hội nghị quốc tế tại Geneva, lần đầu để
giải quyết cuộc khủng hoảng về tị nạn tạm trú khi thuyền nhân Việt Nam bị các
nước ĐNÁ xua đuổi (1979), và lần thứ hai để tìm kiếm giải pháp tốt nhất có thể chấm
dứt những cuộc ra đi cực kỳ nguy hiểm (1989). Như trên đã nói, người tị nạn và
công dân Mỹ gốc Việt đã có tiếng nói và vai trò đáng kể trong cuộc vận động Hoa
Kỳ và quốc tế ngay từ sau hội nghị Geneva lần đầu, sôi nổi nhất là những hoạt động
trong thập kỷ 1980 dẫn tới hội nghị Geneva lần thứ hai, và cuối cùng đã giúp quốc
tế khai thông được tình trạng bế tắc của Kế hoạch Hành động Toàn diện (CPA). Điều
này cũng cho thấy giải pháp thật sự cho vấn đề tị nạn Việt Nam là giải pháp
chính trị, tức là thỏa hiệp bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ và
Việt Nam năm 1995. Sau đó, cộng đồng Mỹ gốc Việt vẫn không ngừng vận động định
cư cho những người tị nạn còn sót lại ở Hong Kong và Phi-líp-pin, và những người
đối kháng chế độ bỏ chạy sang Thái Lan.
Những hoạt động của người
Mỹ gốc Việt tị nạn, từ công tác cứu giúp và bảo vệ thuyền nhân, cung cấp các dịch
vụ định cư đến những cuộc vận động chính phủ Hoa Kỳ, Liên Hiệp Quốc và các quốc
gia tạm dung trong mấy chục năm qua rất đa dạng và đem lại nhiều kinh nghiệm thực
tế cho những nhà làm chính sách trước những đợt di dân và tị nạn càng ngày càng
gia tăng trên thế giới. Rất nhiều đóng góp của người gốc tị nạn trước và sau
1995, như Ủy ban Báo nguy Giúp Người Vượt Biển (BPSOS) của GS Nguyễn Hữu
Xương ở San Diego (7) hợp tác với các con tàu nhân đạo quốc tế cứu vớt và
giúp định cư được trên 3,000 thuyền nhân, cuộc vận động định cư tù cải tạo rất
thành công của Hội Gia đình Tù nhân Chính trị và các Hội Cựu Tù nhân Chính
trị, Hội nghị 14 quốc gia về Khủng hoảng Tị nạn Tạm trú do IRAC tổ chức tại
Washington DC năm 1988 dọn đường cho Hội nghị quốc tế Geneva lần thứ hai, cuộc
vận động của VOICE giúp cho 2,000 người tị nạn còn sót lại ở Phi-líp-pin
trong tình trạng không hoàn toàn hợp pháp được định cư Mỹ, 300 tại Canada (phối
hợp với Liên Hội người Việt Canada), và 200 người tại Na Uy. Tất cả những
đóng góp này cùng nhiều hoạt động đáng kể khác là những dấu mốc lịch sử trên chặng
đường dài cứu trợ, bảo vệ và tìm kiếm giải pháp nhân đạo cho thảm kịch tị nạn
Việt Nam (1979-1995). Trong khung cảnh giới hạn của một bài báo, tác giả chỉ có
thể chú trọng vào một số trường hợp điển hình trong đó có những thông tin ít được
biết đến hoặc đương thời không thể đưa ra công khai, do đó có sự kiện đã gây dư
luận nghi ngờ hay chống đối vì ngộ nhận. Trong giới hạn đó, tác giả rút ra một
phần nội dung của bản thảo cuốn sách chưa hoàn tất, thu gọn thành một bài viết
có chủ đề riêng để làm sáng tỏ những sự kiện lịch sử mà đáng lẽ phải viết ra từ
lâu.
Dưới đây là bốn dấu mốc điển hình cho sự tham gia đắc
lực của người tị nạn vào việc giải quyết các vấn đề tị nạn:
1. Phái đoàn tị nạn đi thăm
các trại tạm trú
Tại hội nghị Geneva lần đầu
năm 1979, nhờ Hoa Kỳ và các nước định cư quyết định gia tăng số tị nạn Việt Nam
được chấp thuận định cư, các nước tạm dung ở Đông Nam Á đồng ý ngưng các biện
pháp xua đuổi thuyền nhân và tiếp tục cho phép họ cập bến và nhập trại tạm trú.
Tuy nhiên, sang thập kỷ 1980, số người tị nạn đường biển và đường bộ tới các trại
tị nạn tăng lên gấp bội so với số người được đưa đi các nước định cư, do đó cuộc
khủng hoảng tạm trú (first asylum crisis) lại bùng phát trầm trọng hơn lần trước,
nhất là tại Hong Kong là nơi có nhiều người tị nạn từ Bắc Việt. Các nước cho tị
nạn tạm trú ra tuyên bố chung chống thuyền nhân tị nạn. Nhiều con thuyền mong
manh chở đầy người tị nạn bị đẩy ra khơi làm nhiều người chết chìm trong khi những
người ở các trại tạm trú bị đối xử cực kỳ vô nhân đạo để làm nản lòng những người
muốn ra đi.
Trước tình hình nguy hiểm
ấy, Trung tâm IRAC lập một phái đoàn cựu tị nạn đi thăm tận nơi các trại tị nạn
tạm trú ở Hong Kong và Đông Nam Á để tìm cách giúp giải quyết cuộc khủng hoảng.
Chuyến đi này là bước đầu cần thiết để các đại diện tị nạn có cơ hội trực tiếp
vận động những nhà làm chính sách ở các nước tạm dung, gây được sự nể trọng và
tin cậy của họ. Được sự can thiệp của Bộ Ngoại giao và Quốc hội Mỹ, lần đầu
tiên một phái đoàn tị nạn được đại diện các quốc gia tạm dung chính thức tiếp
đón, cho phép đi thăm các trại và phỏng vấn người tị nạn, sau hết là trao đổi ý
kiến về những điều mà các bên liên quan, kể cả cộng đồng người Việt hải ngoại,
có thể thực hiện để cải thiện đời sống trong các trại tạm trú, giảm bớt gánh nặng
cho các nước tạm dung và góp phần giải quyết cuộc khủng hoảng tị nạn. Khi trở về
Washington DC, phái đoàn IRAC đã mở một cuộc họp báo tại Thượng viện Hoa Kỳ do
hai Thượng nghị sĩ Mark Hatfield (CH, Oregon) và Claiborne Pell (DC, Rhode
Island) đồng bảo trợ. Ngoài việc báo cáo tình hình khổ cực và thiếu an ninh của
người tị nạn, và đề nghị các biện pháp cải thiện cuộc sống trong các trại, phái
đoàn kêu gọi LHQ triệu tập khẩn cấp hội nghị quốc tế lần thứ hai để giải quyết
toàn diện các vấn đề trước mắt và lâu dài. Đại diện báo giới quốc tế, nhất là
các nước cho tị nạn tạm trú, đều có mặt vả gừi bài về trong nước của họ. Có lẽ
bài tường thuật rành mạch và đầy đủ nhất là bài của nhà báo kỳ cựu Don
Oberdorfer trên tờ Washington Post ngày 3/3/1987 nhấn mạnh lời tuyên bố của trưởng
đoàn IRAC: “Chúng tôi (người tị nạn) vẫn bị coi là một vấn đề cần giải
quyết. Nay chúng tôi nhất định sẽ góp phần vào giải pháp.”
Chỉ vài tháng sau, TNS
Hatfield (CH, Oregon) trình dự luật S.814 tại Thượng viện mang tên “Luật 1987 về
Giúp đỡ và Bảo vệ Tị nạn Đông Dương” và DB Chet Atkins (DC, Massachussets) đưa
dự luật tương tự H.R. 1940 ra Hạ viện. Một chiến dịch đại vận động các nghị sĩ
và dân biểu Quốc Hội do IRAC cùng với các hội đoàn tị nạn thực hiện đồng loạt
trên khắp các tiểu bang. Kết quả là Dự luật Hatfield-Atkins được lưỡng viện quốc
hội thông qua và Tổng thống Reagan hoàn toàn đồng ý và ký lệnh ban hành ngày
22.11.1987. Trong một lá thư gửi Giám đốc IRAC, TNS Hatfield cám ơn cuộc vận động
thành công của người Mỹ gốc Việt và xác nhận chuyến đi thăm các trại tị nạn của
phái đoàn IRAC hồi đầu năm đã gây ấn tượng tốt và tạo được đồng thuận giữa
Chính phủ và Quốc Hội.
2, Tham dự Hội
nghị Quốc tế Geneva 1989
Đáp lời kêu gọi của phái
đoàn tị nạn sau chuyến đi thăm các trại tạm trú năm 1987 và được dọn đường bởi
hội nghị 14 quốc gia do IRAC tổ chức tại Washington DC năm 1988, Tổng Thư Ký
LHQ chỉ thị cho UNHCR xúc tiến chuẩn bị Hội nghị Quốc tế về Tị nạn Đông Dương lần
II tại Geneva vào tháng Sáu 1989. Một Nhóm Công tác Liên Chính phủ
(Intergovernmental Working Group) được thành lập để soạn thảo Kế hoạch Hành động
Toàn diện (Comprehensive Plan of Action, CPA) nhằm giải quyết trọn vẹn vấn đề tị
nạn Việt Nam trong vòng ba năm. Dù không phải là thành viên của Nhóm Công tác,
IRAC được UNHCR chia sẻ các tài liệu làm việc của Nhóm để tham khảo ý kiến
trong suốt thời gian chuẩn bị hội nghị. Những nhận định và đề nghị của IRAC được
Sergio Vieira de Mello, Giám đốc Phối trí Nhóm Công tác Liên Chính phủ đánh giá
rất cao trong thư gửi cho Chủ tịch IRAC ngày 11 tháng 4, 1988, vì đã “chú trọng
vảo nhiều lãnh vực then chốt được UNHCR đặc biệt quan tâm và nỗ lực làm cho Kế
hoạch Hành động Toàn diện thể hiện mọi quyền của người xin tạm trú và tị nạn.”
Tháng Chín 1988, IRAC cử luật sư cố vấn Janelle Diller sang Hong Kong tìm hiểu
tình hình các trại tị nạn và hoàn tất bản báo cáo 150 trang về tình trạng thanh
lọc, điều kiện sinh sống của người tị nạn và đưa ra những đề nghị cải thiện
thích hợp (8). IRAC đúc kết các ý kiến thành một bản nhận định và đề nghị toàn
diện về chế đô thanh lọc, ra đi trật tự, hồi hương tình nguyện và định cư tị nạn.
Bản nhận định 25 trang này, sau khi hoàn chỉnh với sự góp ý của nhiều hội đoàn,
được in thành tài liệu chính thức mang tên “Tiến đến những Giải pháp Nhân đạo
và Lâu bền cho vấn đề Tị nạn Đông Dương” (Towards Humane and Durable Solutions
to the Indochinese Refugee Problem) gửi cho Ủy ban Phối hợp Hôi nghị Quốc tế tại
Geneva xem xét trong những phiên họp chuẩn bị cuối cùng 22-26 tháng Năm, 1988.
Tài liệu này có chữ ký của trên 200 hội đoàn tị nạn Đông Dương từ Hoa Kỳ,
Canada, Pháp và Úc.
Hội nghị Geneva diễn ra
trong hai ngày 13-14 tháng Sáu 1988 với sự tham dự của đại diện 76 quốc gia. Chủ
tịch IRAC được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ mời tham gia phái đoàn chính phủ Mỹ nhưng
quyết định dự hội nghị với tư cách một NGO để có thể tự do nói lên quan điểm của
người tị nạn. Tuy nhiên, Hội đồng quản trị của IRAC vẫn có một đại diện người
Hmong trong phái đoàn Hoa Kỳ.
Ngay trong ngày đầu hội
nghị, phái viên đài truyền hình BBC đã phỏng vấn chủ tịch IRAC trong khuôn viên
trụ sở LHQ. IRAC cũng phối hợp với một số đại diện hội đoàn người Việt ở Thụy
Sĩ và Pháp để phân phát cho các tham dự viên quốc tế bàn Tuyên bố 1 trang của
IRAC nhan đề “Tiếng nói của Tị nạn tại Hội nghị Quốc tế” kèm theo bản nhận
định 25 trang đã gửi tới Geneva từ tháng trước. Bản Tuyên bố bày tỏ sự quan tâm
đặc biệt về hai vấn đề thanh lọc và hồi hương và nhấn mạnh vào nhu cầu giải quyết
tận gốc vấn đề bỏ nước ra đi của người tị nạn.
Trước khi chấp thuận và
công bố “Kế hoạch Hành động Toàn diện” (CPA), Đại hội đã nghe bài phát biểu của
37 trưởng phái đoàn trong số 76 quốc gia tham dự. Hầu hết đều xác nhận Việt Nam
là nguyên nhân gây khủng hoảng tị nạn. Lớn tiếng nhất là đại diện Trung Quốc, tố
cáo “Việt Nam không chỉ gây ra thảm họa tị nạn của nhân dân Việt Nam mà luôn cả
nhân dân Cam-bốt và Lào.” Ngoại trưởng Anh yêu cầu Việt Nam ngưng “xuất cảng
dân chúng sang các nước khác” và phải “đồng ý--mau chóng đồng ý--nhận hồi hương
tất cả những người không được nhìn nhận là tị nạn qua chương trình thanh lọc của
các nước cho tị nạn tạm trú.” Trưởng đoàn Hoa Kỳ Jonathan Moore cùng chung với
quan điểm của IRAC là “chừng nào Việt Nam còn duy trì những điều kiện khiến
nhân dân phải bỏ nước ra đi, và cho đến khi nào trong nước có những cải thiện
căn bản về kinh tế, xã hội và chính trị, Hoa Kỳ vẫn cương quyết chông lại việc
cưỡng bách người tị nạn tam trú phải hồi hương.” Phó Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng
Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch thì tuyên bố dứt khoát “Chúng tôi kiên quyết bác bỏ mọi
hình thức áp đặt vì áp đặt là vi phạm bản Tuyên ngôn về Nhân quyền và sẽ dẫn đến
những hậu quả khôn lường.” Như đã dự liệu, Kế hoạch CPA gặp nhiều trở ngại
trong việc thưc hiện do vấn đề thanh lọc bất công và biện pháp cưỡng bách hồi
hương của các nước tạm dung, nhất là tại Hong Kong. Ngày 16/10/1989, IRAC gửi
cho Ủy ban Điều hành CPA bản “Xét lại Kế hoạch CPA và Đề nghị Thi hành có Hiệu
quả”. Ngày 17/11/1989, IRAC gửi thư cho Thủ tướng Anh Margaret Thatcher trước
cuộc họp của Bà với Tổng thống George W.H. Bush tại Camp David ngày 24, thỉnh cầu
trì hoãn quyết định hồi hương cưỡng bách tị nạn để cho UNHCR, các NGO quốc tế
và cộng đồng người Việt hải ngoại cùng hoạch định chương trình hồi hương tình
nguyện. Bà Thatcher không chấp thuận và ngày 11/12/1989, Hong Kong dùng bạo lực
tống xuất 51 người về Việt Nam. Lập tức, cộng đồng Mỹ gốc Việt phan ứng bằng một
chuỗi hoạt động tập trung vào việc chống cưỡng bách hồi hương:
·
13/12/1989, IRAC phối hợp
với Nghị hội Người Việt ở Hoa Kỳ, Ủy ban Liên Tôn Bảo vệ Tị nạn và BPSOS huy động
một cuộc biểu tình khổng lồ trước Đại sứ quán Anh phản đối chính sách phi nhân
đạo của chính phủ Hoàng gia Anh quốc. Trong buổi sáng cùng ngày, phóng viên
James Naughtie của đài BBC đã phỏng vấn chủ tịch IRAC về vấn đề tị nạn ở Hong
Kong.
·
14/12/1989, chương
trình Nightline của đài truyền hình ABC tổ chức một buổi tranh
luận trưc tuyến qua vệ tinh giữa chủ tịch IRAC Lê Xuân Khoa và Thống đốc Hong
Kong Sir David Wilson về chính sách cưỡng bách hồi hương. Trước đó, GS Khoa đã
có dịp gặp Thống đốc Wilson do sự giới thiệu của Bà Tuyết Nguyệt Markbreiter,
công dân Anh và chủ nhiệm tạp chí Arts of Asia. Cuộc tranh luận do
nhà điều khiển chương trình Forrest Sawyer làm điều hợp viên. Thống đốc Wilson
gọi tị nạn Việt Nam là di dân kinh tế giống như dân nghèo Nam Mỹ tìm cách vượt
qua biên giới để kiếm cơ hội sinh sống tốt hơn, bị GS Khoa bác bỏ khi ông chứng
minh lập luận đó sai lầm vì thiếu hiểu biết. Thống Đốc Wilson đồng ý với giải
thích của GS Khoa và quay sang chỉ trích chính phủ Mỹ hành động thiếu trách nhiệm
trong việc thu nhận người tị nạn Việt Nam.
·
16/12/1989, nhật
báo The Washington Post đăng bài “Forcible Repatriation: No
Remedy” (Cưỡng bách hồi hương không phải là giải pháp) của Chủ tịch IRAC, với
câu mở đầu mạnh mẽ: “Shame on British Prime Minister Margaret Thatcher!”
Trước những phản ứng quyết
liệt của cộng đồng người Việt và dư luận chỉ trích của thế giới, Bà Thatcher phải
hoãn cưỡng bách hồi hương một tháng cho tới phiên họp sau của Ủy ban Điều hành
CPA vào tháng Giêng 1990. Trong khi đó, Hà nội đồng ý với quyết định của Hong
Kong và Anh quốc trả US$620 chi phí hồi hương trên mỗi đầu người cộng với
US$360 của UNHCR trợ cấp cho mỗi người hồi hương trong một chương trình mới được
đặt tên là “Hồi Hương Trật Tự” (Orderly Return Program, ORP). Hoa Kỳ không phản
dối chương trình này vì nó tương tự như sáng kiến “hồi hương không chống đối”
(non-objection) của ngoại trưởng Mỹ James Baker. Việc hồi hương, cưỡng bách hay
không chống đối, chỉ còn là vấn đề thời gian trước mắt, và việc thi hành kế hoạch
CPA vẫn còn là một thử thách lớn cho tất cả các bên liên quan.
3. Chương trình định cư
tù cải tạo (H.O)
Năm 1977, một cựu nhân
viên Sứ quán Việt Nam Cộng Hòa tại Phi-líp-pin là Khúc Minh Thơ có chồng đi trại
cải tạo và hai con còn kẹt ở Việt Nam sang Mỹ định cư. Bà Thơ cùng với một số bạn
đồng cảnh ngộ thành lập Hội Gia đình Tù nhân Chính trị Việt Nam
(HGĐTNCT) để vận động chính phủ Mỹ can thiệp cho chồng con được thả và cho phép
sang Mỹ đoàn tụ gia đình. Những nỗ lực vận động ấy được sự giúp đỡ của ông bà
Shep và Hiệp Lowman, một cựu viên chức ngoại giao Mỹ tại Việt Nam, sau có thêm
sự ủng hộ của hai Thượng nghị sĩ John McCain và Edward Kennedy, nhưng những cuộc
thăm dò từ phía Mỹ không được Việt Nam quan tâm. Năm 1978, chồng bà Thơ được thả
nhưng bệnh tật, hai năm sau thi mất. Bà Thơ vẫn tiếp tục vận động cho việc định
cư cựu tù nhân chính trị.
Năm 1982, Bộ trưởng Ngoại
giao Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch tuyên bố Việt Nam sẵn sàng thả hết tù nhân cải tạo
nếu Hoa Kỳ chấp thuận cho họ sang Mỹ định cư. Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ chỉ định
ông Robert L. Funseth, Phụ tá Thứ trưởng, khởi sự các cuộc thương thuyết ở hậu
trường. Đây là lúc bà Khúc Minh Thơ và Hội GĐTNCT liên lạc với ông Funseth và
chuẩn bi lập danh sách và hồ sơ tù cải tạo. Sau hai năm không có tiến bộ, Ngoại
trưởng Mỹ George Schultz thông báo công khai vào tháng Chín 1984 là Hoa Kỳ sẵn
sàng đáp ứng đề nghị của Việt Nam bắt đầu bằng việc chấp thuận 10,000 tù nhân cải
tạo và gia đình của họ. Dù mong muốn xây dựng quan hệ kinh tế và ngoại giao với
Mỹ, Hà Nội vẫn gây nhiều khó dễ cho vấn đề định cư tù cải tạo. Năm 1985, một
phái đoàn do cựu thống đốc tiểu bang Iowa cầm đầu sang Việt Nam dể thăm dò khả
năng quan hệ song phương, khi nhắc đến đề nghị của ngoại trưởng Schultz thì ngoại
trưởng Thạch dứt khoát từ chối. Ông Thạch cho phía Mỹ biết rằng Việt Nam chỉ muốn
tiếp tục thảo luận về vấn đề tìm kiếm tù nhân chiến tranh và ngươi Mỹ mất tích
(POW-MIA) vì đây mới là quan tâm chính của chính phủ Mỹ cần ưu tiên giải quyết
để đôi bên có thể đạt được mục tiêu toàn diện là chấm dứt vĩnh viễn cuộc khủng
hoảng tị nạn Đông Dương, bãi bỏ cấm vận và bình thường hóa quan hệ ngoại giao
giữa hai nước. Một năm sau, Việt Nam công bố chủ trương “đổi mới” và hai bên gặp
nhau nhiều hơn và có triển vọng tiến hành khả quan hơn.
Năm 1987, để hậu thuẫn
cho những cuộc thương thuyết toàn diện với Việt Nam sớm có hiệu quả, Tổng Thống
Reagan chỉ định Đại Tướng hồi hưu John W. Vessey, nguyên Chủ tịch các Chỉ huy
trưởng Liên quân, làm Đặc Sứ (special emissary) của Tổng thống phụ trách đối
thoại với Việt Nam. Bà Khúc Minh Thơ và Hội GĐTNCT cũng liên lạc với Đai Tướng
Vessey để vận động thêm cho tù nhân cải tạo, Vào thời điểm này, một số cựu tù cải
tạo sau khi được thả đã vượt biển tới các trại tị nạn và được Mỹ chấp thuận cho
vào Mỹ định cư, một số khác đi theo diện đoàn tụ gia đình. Họ tìm đến nhau và
thành lập các hội cựu tù nhân cải tạo để giúp đỡ và vận động định cư cho những
người bạn tù còn ở lại Việt Nam hay còn kẹt trong các trại tị nạn tạm trú.
IRAC bắt đầu quan tâm đến
vấn đề vận động định cư tù cải tạo năm 1982 khi Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch
tuyên bố sẵn sàng thả hết tù cải tạo nếu Mỹ chấp nhận cho tất cả được sang Mỹ định
cư. IRAC ủng hộ cuộc vận động của Hội GĐTNCT và các hội khác. Mỗi khi nhận được
danh sách và hồ sơ từ các hội cựu tù cải tạo hay từ các trại tị nạn, IRAC đều
chuyển đến Hội GĐTNCT ở Virginia là nơi gần Bộ Ngoại giao và có nhiều hội viên
tới giúp lập hồ sơ vận động. Chủ tịch IRAC chỉ chính thức quan hệ với ông
Funseth từ 1984 để theo dõi tin tức sau khi Ngoại trưởng Schultz công bố chấp
thuận đề nghị của Ngoại trưởng Thạch. Đồng thời, IRAC cũng liên lạc chặt chẽ với
văn phòng TNS John McCain, lập hồ sơ của một số nhà văn, nhà báo tên tuổi bị cầm
tù để nhờ ông can thiệp với chính phủ Việt Nam. Năm 1986, sau khi tham dự Hội
nghị Toàn quốc Lãnh đạo Cộng đồng Đông Dương do IRAC triệu tập tại Đại học
Georgetown, Washington DC, ông Funseth mới thật sự có những cuộc tham khảo với
chủ tịch IRAC về vấn đề tù cải tạo và triển vọng thương thuyết với Việt Nam.
Trước mỗi lần gặp, IRAC đều có soạn talking points và tài liệu liên quan để ông
Funseth tùy nghi sử dụng.
Khi ông Funseth chuẩn bị vòng đàm phán chung kết vào tháng Bảy 1989, chủ tịch
IRAC đã thu xếp một cuộc gặp gỡ tại Bộ Ngoại giao giữa ông Funseth và phái đoàn
đại diện Trung tâm Văn Bút Việt Nam Hải ngoại khi đó do nhà văn Nguyễn Ngọc
Ngạn làm chủ tịch và nhà thơ Viên Linh, tổng thư ký. Ngoài ông Ngạn
đến từ Canada và Viên Linh từ California còn có hai hội viên là nhà văn Trà
Lũ (Canada) và nhà báo Chử Bá Anh (Virginia). Trước đó, IRAC
đã yêu cầu hội Văn Bút tổng hợp một danh sách đầy đủ các nhà văn, nhà báo đã và
chưa được thả để ông Funseth trao cho nhà câm quyền Việt Nam trong ngày ký kết
bản thỏa thuận định cư tù cải tạo. Sau 30 phút trao đổi tin tức và ý kiến, cuộc
đàm đạo được tiếp tục trong bữa ăn trưa được ông Funseth khoản đãi tại phòng ăn
riêng của Bộ Ngoại giao.
Một trong những bức
thư tướng Vessey gởi ông Lê Xuân Khoa. (Hình: tác giả cung cấp)
Khi được tin Tổng thống
Reagan chỉ định Đại Tướng John Vessey làm Đặc Sứ đối thoại với Việt Nam, chủ tịch
IRAC đã viết thư cho Đại Tướng trước ngày ông lên đường qua Việt Nam, thông báo
về cuộc vận động của IRAC về các vấn đề tị nạn liên quan tới việc giải quyết vấn
đề POW-MIA và thả tù nhân chính trị như những điều kiện tiến đến quan hệ bình
thường giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Chủ tịch IRAC thỉnh cầu Đại Tướng đưa những vấn
đề này vào nghị trình thảo luận với các lãnh đạo Việt Nam.
Khi trở về Mỹ, trong thư
gửi chủ tịch IRAC ngày 12/8/1987, Tướng Vessey cám ơn ông đã cung cấp những
thông tin và tài liệu cơ bản giúp cho phái đoàn Mỹ có thể nêu lên các vấn đề tù
nhân chính trị, trẻ em lai Mỹ và chương trình ODP với Việt Nam. Ông cho hay
“chúng tôi đã nêu lên những vấn đề này, một cách riêng tư, trong cuộc thảo luận.”
Kết quả là “Việt Nam tái xác nhận ý định của họ là xúc tiến chương trình Ra đi
Trật tự (ODP) và tin tưởng sẽ có tiến bộ về vấn đề trẻ em lai, nhưng họ không tỏ
ra tích cực về những vấn đề tù nhân chính trị. Các nhà thương thuyết của họ duy
trì quan điểm là vấn đề này không phải là một vấn đề nhân đạo.” Vị Đặc Sứ của Tổng
thống Mỹ thông báo cho phía đối thoại biết rằng chính phủ và quốc hội Mỹ đều
quan tâm đến vấn đề định cư tù chính trị và vấn đề này vẫn sẽ được nêu ra trong
những lần gặp gỡ sau.
Chủ tịch IRAC tiếp tục
góp ý với Tướng Vessey, trực tiếp hay qua văn thư, và được vị Phụ tá của Đại Tướng
Vessey là Thiếu Tướng Stephen B. Crocker cập nhật tin tức đối thoại với Việt
Nam. Như ta đã thấy, cuộc thương thuyết chính thức về vấn đề định cư tù nhân cải
tạo do ông Robert Funseth đảm trách, được sự hỗ trợ của Tổng thống Reagan qua
những cuộc đối thoại của Đặc sứ John Vessey, rốt cuộc đã thay đổi được thái độ
cứng rắn của cộng sản Việt Nam, dẫn đến việc ký kết thỏa hiệp định cư tù cải tạo Funseth-Vũ Khoan ngảy
30/7/1989. Đại tướng Vessey tiếp tục thúc đẩy Việt Nam hợp tác nhiều
hơn về vấn đề POW-MIA và chính phủ Mỹ đã tỏ ra hài lòng về những tiến bộ đạt được
trong chuyến thăm Washington DC vào tháng 10, 1990 của ngoại trưởng Nguyễn Cơ
Thạch sau phiên họp Đại Hội đồng LHQ tại New York. Mặc dù do áp lực của Trung
Quốc, ngoại trưởng Thạch phải từ chức năm 1991 và các cuộc hội đàm Mỹ-Việt bị
chậm lại, vấn đề POW-MIA vẫn tiến hành khả quan. Mỹ
quyết định bãi bỏ cấm vận năm 1994 và bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt
Nam năm 1995.
Một trong những bức thư tướng Vessey gởi ông Lê Xuân
Khoa. (Hình: tác giả cung cấp)
Cũng trong dịp Ngoại trưởng
Nguyễn Cơ Thạch tham dự Đại Hội đồng LHQ, Thượng Nghị sĩ Mark Hatfield đã thu xếp
một buổi gặp không chính thức giữa ngoại trưởng Thạch và chủ tịch IRAC “để thảo
luận về những chương trình nhân đạo. (9)” Thật ra, các vấn đề được đề cập trong
cuộc gặp là tiếng nói của công dân Mỹ gốc Việt đối với các nhà làm chính sách của
Mỹ về những vấn đề liên quan đến Việt Nam, vấn đề POW-MIA và bang giao Mỹ-Việt,
và triển vọng đóng góp chất xám của nhân tài hải ngoại có thể giúp Việt Nam trở
thành một quốc gia phát triển ở Á châu. Ông Thạch bắt đầu hâm nóng không khí buổi
họp bằng việc bày tỏ sự vui mừng có cơ hội đàm đạo với anh em trí thức người Việt
Nam ở nước ngoài về những vấn đề quan tâm chung của đất nước. Ông nói ngay đến
sự sai lầm của chính sách “học tập cải tạo” khiến bộ máy chính quyền thiếu nhân
sự chuyên môn đủ mọi ngành. Nhiều người tài giỏi bị giam giữ, nhiều nhà khoa học
và chuyên gia bỏ nước ra đi gây hậu quả là nhân dân bị nghèo đói và đất nước trở
thành tụt hậu. Đáng chú ý là lời ông tự phê bình: “Chúng tôi đánh nhau thì giỏi
nhưng quản trị thì quá tồi, không có khả năng phát triển đất nước.” Ông kêu gọi
trí thức, chuyên gia ở nước ngoài hãy bỏ qua hận thù quá khứ, “let bygones be
bygones” (sic) và trở về giúp nước vì “chúng tôi đã quyết định đổi mới, không
chỉ về kinh tế mà cả về chính trị”. Ông nhấn mạnh rằng đây là nguyên văn câu
tuyên bố của ông trước Đại hội đồng LHQ vài tuần trước.
Chủ tịch IRAC trả lời rằng
đa số trí thức hải ngoại sẵn sàng đóng góp khả năng vào những dự án phát triển
đất nước nhưng chỉ làm được việc này khi thấy trong nước thật sự thực hiện một
lộ trình dân chủ hóa cụ thể, bắt đầu bằng việc trả tự do cho những ngưởi yêu nước
bất bạo động còn bị giam giữ. Nhưng mục đích của IRAC gặp Ngoại trưởng Thạch
không chỉ để nói lên quan điểm về hòa giải dân tộc mà còn để góp ý về triển vọng
bình thường hóa quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Vấn đề POW-MIA không phải là vấn
đề riêng của chính phủ Mỹ mà là mối quan tâm chính của nhân dân Mỹ có thân nhân
xa gần, bằng hữu hay đồng bào đã hi sinh hay mất tích trong cuộc chiến. Vì vậy,
nhân dân Mỹ, qua các đại diện của họ trong lưỡng viện Quốc hội, sẽ chấp thuận
hay ngăn chặn việc chính phủ thiết lập quan hệ bình thường với Việt Nam tùy
theo thái độ cư xử của Việt Nam. IRAC khuyến cáo Việt Nam không nên dùng
POW-MIA như một lá bài chính trị để mặc cả trong những cuộc thương thuyết mà
nên chứng tỏ cho nhân dân Mỹ thấy rằng Việt Nam coi POW-MIA là một vấn đề nhân
đạo và thật lòng hợp tác.
Cuộc trao đổi IRAC-Nguyễn
Cơ Thạch bao gồm một số chuyện bên lề với những chi tiết riêng tư như khi ông
Thạch, người có trình độ học vấn cao nhất trong Bộ Chính trị, kể chuyện trước
khi sang Ấn độ nhận chức Tổng lãnh sự, ông đã phải học các nghi thức văn minh
như chào hỏi xã giao hay cả đến cách sử dụng dao, nỉa trên bàn ăn. Luật sư Trần
Danh San, trong đoàn IRAC, kể chuyện bị bắt đi cải tạo sau khi đứng trước nhà
thờ Đức Bà ở Saigon đọc bản tuyên ngôn nhân quyền giống như Hiến chương 77 của
Vaclav Havel bên Tiệp Khắc. Có một lúc ông San kéo ống quần lên để ông Thạch thấy
vết sẹo lớn ở cổ chân kỷ niệm những ngày bị cùm biệt giam. Khi được thả, ông vượt
biển, được tàu buôn Nhật cứu, sau được ông Funseth giúp cho sang Mỹ định cư qua
sự vận động của IRAC.
Trở lại
chương trình định cư tù chính trị được Việt Nam gọi là chương trình nhân đạo
(humanitarian operation), do đó tên tắt H.O trở thành thông dụng. Ngày 31/01/1990, cơ quan định cư tị nạn liên
bang ORR tổ chức một buổi hội thảo về chương trình định cư cựu tù nhân chính trị.
Trong bài phát biểu của chủ tịch IRAC, ông nói đến tính chất đặc biệt của
chương trình này đối với chính phủ, các tổ chức định cư tị nạn và cộng đồng người
Việt ở Hoa Kỳ, phân tích những trở ngại tinh thần và thể chất của những người
đã bị hành hạ nhiều năm trong các trại tập trung của cộng sản, do đó họ có những
nhu cầu đặc biệt cần được đáp ứng thích hợp. Tất cả cựu tù nhân chính trị phải
được coi là tị nạn chứ không phải di dân. Chủ tịch IRAC cũng nhấn mạnh rằng
các cựu tù cải tạo từng vượt qua được mọi cực hình và thử thách lớn nhất trong
nhà tù cộng sản, nhất là những người trong lớp tuổi tử ngoài 30 đến ngoài 50,
chắc chắn sẽ trở thành những phần tử đóng góp cho xã hội Mỹ. Họ chính là “tích
sản” (assets) chứ không phải là “tiêu sản” (liabilities) của xứ sở định cư. Ông
yêu cầu chính phủ Hoa Kỳ phải cò ngân sách dành riêng cho chương trình định cư
tù chính trị vì đây là thành phần thuộc trách nhiệm lớn nhất của chính phủ và
là đối tượng quan trọng đươc thêm vào chương trình ODP hiện hữu.
4. Từ Sáng kiến”Khu vực
Xám” đến Chương trình ROVR
Vì chính sách thanh lọc
(screening) tại các nước tạm dung, nhất là ở Hong Kong, bị nhân viên di trú thi
hành khắc nghiệt và có nhiều sai phạm trầm trọng gây hậu quả là những cuộc bạo
động và xung đột đổ máu giữa những người tị nạn và lực lượng an ninh của chính
phủ. Tiếp theo là một chương trình hồi hương mới có tên là “Hồi hương Trật tự”
(Orderly Repatriation Program, ORP) được ký kết giữa Việt Nam-Anh quốc/Hong
Kong và Việt Nam-Nam Dương. Chương trình này được Hoa Kỳ đồng ý và UNHCR lặng lẽ
thực hiện. Điều đó có nghĩa là một phần quan trọng của Kế hoạch Hành động Toàn
diện quốc tế (CPA) thất bại vì tất cả các nước tạm dung đều cương quyết không
chịu kéo dài thời gian cho tị nạn tạm trú và tất cả những người bị rớt thanh lọc
(screened-out) phải hồi hương bằng cách này hay cách khác nếu không muốn bị trục
xuất bằng vũ lực. Việt Nam không còn chống đối cưỡng bách hồi hương vì họ thừa
biết rằng những người trở về không phải là lực lượng đe dọa sự tồn tại của chế
độ, và họ thấy đã đến lúc cần phải hợp tác với Hoa Kỳ và quốc tế để đón nhận
các dự án viện trợ, đẩu tư kinh doanh và phát triển công nghệ. Hoa Kỳ cũng muốn
bình thường hóa quan hệ với Việt Nam vì không thể để cho Việt Nam bị lọt vào quỹ
đạo Trung Quốc (khi đó mật ước Thành Đô vừa được ký kết). Trong tình thế chờ đợi
ấy, Kế hoạch CPA chỉ có thể tránh khỏi sụp đổ nếu tìm được giải pháp thỏa đáng
cho vấn đề hồi hương tất cả người tị nạn từ các trại tạm trú.
Để có thể góp phần tích cực
vào giải pháp cho vấn đề tị nạn như đã tuyên bố sau chuyến đi thăm các trại tạm
trú năm 1987, IRAC nhận rõ vấn đề then chốt phải giải quyết là sự chống đối quyết
liệt của những người đủ diều kiện tị nạn nhưng bị loại bỏ trong cuộc thanh lọc.
Họ phẫn uất đến độ sẵn sàng đổ máu chống lại những biện pháp cưỡng bách hồi
hương của lực lượng an ninh như đã từng xảy ra ở một số trại tại Hong Kong. Như
vậy, giải pháp hợp lý, công bằng và khả thi nhất là tập trung việc cứu xét định
cư cho thành phần tị nạn bị thanh lọc bất công này. IRAC mệnh danh thành phần
này là “khu vực xám” (grey area) và bắt đầu chuyển hướng vận động cho đối tượng
này được định cư. Mặt khác, cần có chương trình theo dõi và giúp đỡ những người
đã hồi hương có thể trở lại cuộc sống bình thường ở Việt Nam. Chương trình này
sẽ giúp cho những người tự biết mình không đủ điều kiện tị nạn có thể được yên
tâm và sẵn sàng tham gia chương trình hồi hương tình nguyện hay không chống đối.
Cuộc vận động cho Khu vực
Xám bắt đầu từ 1990 qua một chuỗi hoạt động kéo dài tới cuối năm 1995 sau khi
được khai triển thành một dự án quy mô có tên là Lộ trình II vào giữa
năm 1993 và cuối cùng được cả hai chính phủ Mỹ và Việt Nam chấp thuận thành một
chương trình đặc biệt với danh xưng chính thức là “Cơ hội Định cư cho người Việt
hồi hương” (Resettlement Opportunity for Vietnamese Returnees, ROVR).
Quá trình vận động diễn
ra như sau:
(1) Ngày 14/9/1990, Chủ tịch
IRAC được sinh viên Việt Nam Đại học Stanford mời thuyết trình về tình trạng
thi hành Kế hoạch quốc tế CPA và giải pháp lâu dài cho vấn đề tị nạn Việt Nam.
Đề tài thuyết trình là “Giải pháp Chính trị cho Vấn đề Tị nạn và Triển vọng
Bình thường hóa Quan hệ Mỹ-Việt” Trong dịp này, sáng kiến Khu vực Xám mới chỉ
được đề cập sơ lược như một phương cách hữu hiệu để tránh khỏi nạn cưỡng bách hồi
hương đang thực hiện ở Hong Kong và các nước ĐNÁ.
(2) Sáng kiến Khu vực Xám được khai triển và trình bày tại Hội nghị khu vực về thuyền nhân Việt Nam do Đại học Ateneo de Manila, Quezon City, Phi-líp-pin, tổ chức tháng 11 năm 1992. Chủ tịch IRAC báo động nguy cơ bạo loạn do chính sách cưỡng hách hồi hương gây ra và nhấn mạnh sự cần thiết tái cứu xét trường hợp những người tị nạn chân chính đã bị loại bỏ trong cuộc thanh lọc.
(3) Cơ hội vận động tốt hơn cả là “Hội nghị Bàn tròn về Vấn đề Tị Nạn” do Phái bộ Quan sát Thường trực của Tòa Thánh Vatican triêu tập tại trụ sở chính của Liên Hiệp Quốc, thành phố New York, ngày 9-10 tháng Ba 1993. Chủ tịch IRAC trình bày trước các đại diện quốc tế dự án 4 điểm về Định cư Khu vực Xám (10), đúng vào thời điểm Hoa Kỳ và Việt Nam đang tiến gần đến bình thường hóa quan hệ ngoại giao. Cần phải khai thông Kế hoạch CPA bằng cách giải quyết hòa bình vấn đề tạm trú và hồi hương của mấy chục ngàn người đang bị kẹt trong các trại tị nạn.
(4) Đề nghị của IRAC lập tức được tổ chức InerAction, một liên minh của gần 200 NGOs Mỹ hoạt động toàn cầu, nhiệt tình ủng hộ. Một Ban Đặc nhiệm về CPA (CPA Task Force) của InterAction được thành lập với nhiệm vụ vận động Bộ Ngoại giao định cư thành phần Khu vực Xám. Hai hội viên InterAction được bầu làm đồng chủ tịch Ban Đặc nhiệm là Lê Xuân Khoa (IRAC) và Lionel Rosenblatt (Refugees International). Ngoài một số hội viên khác của InterAction, hai đại diện tổ chức bên ngoài cũng được mời tham gia CPA Task Force là Nguyễn Đình Thắng (BPSOS) và Lê Thị Mỹ Nga (LAVAS).
(5) Trong giai đoạn đầu, Văn Phòng Đặc trách Chương trình Tị nạn (Bureau for Refugee Programs, BRP) tại Bộ Ngoại giao chỉ đồng ý xem xét những trường hợp quá hiển nhiên (egregious cases) căn cứ vào những thông tin và bằng chứng do các nhân viên NGO quốc tế làm việc trong các trại tị nạn cung cấp. Những trường hợp được Bộ Ngoại giao chấp thuận sẽ được chuyển tới UNHCR làm thủ tục xuất trại sang Mỹ định cư. Chỉ sau vài tháng, BPSOS rút ra khỏi CPA Task Force vì TS Nguyễn Đình Thắng không đồng ý với chủ trương định cư Khu Vực Xám.
(6) Đông thời với việc lập hồ sơ “egregious cases”, ban Đặc nhiệm CPA yêu cầu ba thành viên nổi tiếng bảo vệ tị nạn là Shep Lowman, Lionel Rosenblatt và Dan Wolf khai triển sáng kiến định cư Khu Vực Xám thành một dự án quy mô đặt tên là Lộ trình II (Track II, hàm ý Lộ trình I là thanh lọc) để chuyển sang cho Bộ Ngoại giao xem xét chấp thuận.
(7) Dự án Track II được Bộ
Ngoại giao và Hội dồng An ninh Quốc gia quan tâm xem xét và sau nhiều phiên họp
với CPA Task Force để hoàn chỉnh nôi dung, dự án được Hoa Kỳ chuyển sang cho Việt
Nam đề nghị chấp thuận. Sau những phản ứng chống đối ban đầu, nhất là việc cho
phép các nhân viên di trú (INS) của Mỹ phỏng vấn các ứng viên ROVR tại Việt Nam
sau khi hồi hương, Việt Nam hoàn toàn chấp thuận chương trình ROVR vào đầu năm
1996. Khi đó hai bên đã có Đại sứ quán, có nhiều chuyện quan trọng hơn cần được
giải quyết.
(8) Chương trình ROVR thành công ngoài dự liệu. Tỉ lệ chấp thuận trung bình lên tới 85 phần trăm vì các nhân viên sở di trú Mỹ đều đồng ý đây là chuyến tàu vét cần có thái độ rộng rãi trong việc phỏng vấn các ứng viên xin tị nạn. Theo các con số do Văn phòng đặc trách Tị nạn (BRP) của Bộ Ngoại giao cung cấp, từ giữa năm 1996 đến 19/01/1999, có 14,448 ứng viên ROVR được chấp thuận định cư tại Mỹ. Tổng số chấp thuận vào cuối năm 2000 sẽ tăng thêm mấy ngàn nữa.
Tóm lại, chương trình
ROVR, bắt đầu từ sáng kiến “Khu vực Xám”, đã khai thông được tình trạng bế tắc
của Kế hoạch CPA và giúp quốc tế giải quyết vấn đề tị nạn được thật sự công bằng
và nhân đạo. Nếu không bị chống đối ngay từ đầu bởi một số người tranh đấu thiếu
hiểu biết và tinh thần trách nhiệm trong cộng đồng người Việt hải ngoại, số ứng
viên nộp đơn vào chương trình ROVR và được chấp thuận cho định cư chắc chắn sẽ
đông hơn. Những thông tin gửi vào các trại tị nạn gây ảo tưởng được định cư cho
tất cả những người bị rớt thanh lọc đã là nguyên nhân của những vụ bạo loạn
trong các trại tạm trú giữa người tị nạn với lực lượng an ninh, gây thương vong
cho nhiều người ở cả đôi bên, Chỉ đến khi chính phủ Mỹ thông báo về chương
trình ROVR và điều kiện nộp đơn thì những người tự biết mình không đủ điều kiện
mới tham gia chương trình hồi hương tình nguyện hay không chống đối. Nhiều thiệt
hại vô ích đã xảy ra cho các chính phủ và người tị nạn. UNHCR giảm bớt tiền trợ
cấp hồi hương từ $360 xuống $240 cho mỗi người làm cho nhiều gia đình hồi hương
trễ bị thiệt thòi.
***
Chọn dịp kỷ niệm 30 tháng
Tư năm nay để ôn lại vài đặc điểm trong lịch sử tị nạn Việt Nam là việc làm
thích hợp vì vừa làm sáng tỏ chính nghĩa của phe bại trận vừa cho thấy người tị
nạn đã thực hiện được quyết tâm góp phần đáng kể vào giải pháp công bằng và bền
vững cho vấn đề tị nạn, đúng như lời tuyên bố của chủ tịch IRAC trong buổi họp
báo tại Thượng viện ngày 1 tháng Ba 1987. Giải pháp công bằng và lâu dài đó
cũng chính là giải pháp chính trị, tức là thỏa hiệp bình thường hóa quan hệ ngoại
giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Giải pháp chính trị này cũng đã được chủ tịch
IRAC nêu lên làm chủ đề của bài nói chuyện ở Đại học Stanford ngày14/9/1990
trong đó manh nha sáng kiến “khu vực xám” như một bước đầu hình thành chương
trình ROVR. Hai mươi lăm năm sau, cuộc khủng hoảng tị nạn đã lui vào quá khứ,
nhưng quan hệ bình thường giũa hai nước vẫn tồn tại như một thử thách lớn cho
Việt Nam khi Hà Nội càng ngày càng lún sâu vào vòng lệ thuộc Bắc Kinh vì đặt lợi
ích của Đảng trên lợi ích quốc gia.
Trong thời gian gần đây,
khi có những dấu hiệu cho thấy Việt Nam dường như muốn cưỡng lại những hành động
lấn chiếm ngang ngược của Trung Cộng tại Biển Đông, thử thách lớn ấy lại hiện
ra như một cơ hội không chỉ riêng cho lãnh đạo Đảng CSVN mà cũng cho tất cả mọi
người Việt Nam yêu nước ở trong và ngoài nước. Đây cũng là cơ hội thuận lợi nhất
cho Việt Nam thoát Trung, gìn giữ được độc lập và toàn vẹn giang sơn của tổ
tiên, đồng thời bảo vệ được dòng giống Việt trước nguy cơ Hán hóa. Đại dịch
Virus Vũ Hán đã thức tỉnh toàn thể thế giới về mưu đồ hiểm độc của Trung Cộng
giành ngôi bá chủ toàn cầu và sẽ hợp lực đánh tan “Giấc Mơ Trung Quốc” của Tâp
Cận Bình. Lãnh đạo Việt Nam sẽ phạm trọng tội nếu bỏ lỡ cơ hội lịch sử này.
Những người viết sử cầu mong sẽ được chứng kiến những hành động có phối hợp, hoặc
riêng biệt nhưng đồng quy, từ cả ba phía: chính quyền, trí thức và nhân dân
trong nước, và cộng đồng gốc Việt ở nước ngoài. Không ai muốn sẽ phải đánh giá
thái độ tiêu cực hay hành động sai lầm của những người có trách nhiệm.
(28/4/2020)
Kỷ niệm đúng ngày này 45 năm trước, tác giả và vợ
con lên một trong những chuyến bay cá hộp cuối cùng của quân đội Mỹ cất cánh từ
phi trường Tân Sơn Nhất sang Guam, Philippines.
---------------------
Ghi chú:
(1) Con số 2,164,000 trừ
đi 300,000 mất tích, còn lại 1,864,000 gồm những người tị nạn tới Mỹ và các nước
khác tính đến 1995. Theo Wikipedia: Người Mỹ gốc Việt, tổng số người Việt ở Mỹ
được ước tính hơn 2,200,000 trong năm 2017. Tổng số này gồm tị nạn, di dân và
người sinh tại Mỹ.
(2) Lê Xuân Khoa, “Cộng đồng
người Việt hải ngoại và Việt Nam ngày nay” tại cuộc hội thảo ngày 2 tháng Ba
1995 kỷ niệm 20 năm chấm dứt chiến tranh do Đại học Columbia và US-Vietnam
Forum đồng bảo trợ. Bản gốc tiếng Anh: “The Overseas Vietnamese and Vietnam Today”,
in The Bridge, a quarterly publication by IRAC, vol. 11, No. 4
, Winter 1994-1995, pp. 1, 11, 28.
(3) Huy Đức, Bên
Thắng Cuộc, tập I: “Giải Phóng”, OSINBook, California 2012, trang xiii.
(4) IRAC do một nhóm trí
thức thiện chí người Mỹ thành lập tại Washington, D.C. năm 1979 nhằm giúp chính
phủ hoàn thiện chính sách, chương trình định cư tị nạn và hệ thống điều hành
sau khi Mỹ quyết định gia tăng số tị nạn được thâu nhận từ các trại tạm trú ĐNÁ
tại Hội nghị quốc tế Geneva tháng Sáu 1979. Năm 1993, tổ chức IRAC đổi tên là
Southeast Asia Resource Action Center (SEARAC) để tránh mang dấu vết thời thuộc
địa trong danh xưng French Indochina (tiếng Pháp là Indochine Francaise) tức
Đông Dương thuộc Pháp. Tên SEARAC đến nay vẫn được giữ nguyên dù các lãnh đạo mới
có sửa đổi mục tiêu của tổ chức, hướng về xây dựng sức mạnh của những cộng đồng
người Mỹ gốc Việt, Cam-bốt và Lào tại Hoa Kỳ.
(5) Trích từ bài thơ của
Emma Lazarus ghi trên bệ bức tượng Nữ Thần Tự Do ở cửa biển thành phố New York:
“Give me your tired, your poor, Your huddled masses yearning to breathe
free..." (Hãy đem đến cho ta những con người mệt mỏi, nghèo khổ, những đám
người co ro đang khao khát được hít thở không khí tự do…)
(6) Hearing before the Committee on the Judiciary,
U.S. Senate, 97th Congress,
September 22, 1981, chaired by Senator Alan K. Simpson, Chairman, Subcommittee
on Immigration and Refugee Policy. U.S. Government Printing Office, 90-542 O,
Washington 1982. Testimony by Le Xuan Khoa, pp. 249-276.
(7) Cần phân biệt hai
tổ chức BPSOS khác nhau: BPSOS (Ủy ban Báo nguy Giúp Người Vượt Biển) thành
lập năm 1980 do GS Nguyễn Hữu Xương làm Chủ tịch và nhà văn Phan Lạc Tiếp là
Giám đốc điều hành, kêu gọi các nước cứu giúp thuyền nhân tị nạn, và từ 1985 hợp
tác với các con tàu nhân đạo quốc tế cứu người vượt biển. Năm 1990, BPSOS San
Diego ngưng hoạt động vì không còn nước nào cho phép tàu cứu người tị nạn được
cặp bến. BPSOS được chuyển sang chi nhánh ở Virginia do nhà văn Trương Anh Thụy
làm Chủ tịch và TS Nguyễn Đình Thắng làm Giám đốc. BPSOS Virginia tiếp tục vận
động định cư tị nạn tới 1995 thì chủ yếu tranh đấu cho nhân quyền ở Việt Nam, bắt
đầu có những hoạt động gây tranh cãi về ảnh hưởng và quản trị, thậm chí bị kiện
cáo trong cộng đồng.
(8) Janelle M.
Diller: In Search of Asylum: Vietnamese Boat People in Hong Kong,
published by IRAC, Washington DC, November 1988.
(9) Trên đường đi Geneva
dự hội nghị tị nạn 1989, chủ tịch IRAC ghé Paris gặp GS Vũ Quốc Thúc, được ông
đưa tới gặp cựu Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ, trưởng phái đoàn Quốc gia Việt Nam tại
Hội nghị Geneva 1954. Ngoại trưởng Đỗ khuyên GS Khoa nên gặp trưởng đoàn CSVN để
nói chuyện về giải pháp Việt Nam cho vấn đề tị nạn. Tại Geneva, GS Khoa nhờ
phái đoàn Mỹ thu xếp cuộc gặp nhưng ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch từ chối với lý
do là ông không muốn gặp đại diện tị nạn “vì họ là những kẻ phản động”. Khi trở
về Mỹ, GS Khoa kể lại chuyện này cho TNS Hatfield và cho hay IRAC sẽ mở chiến dịch
vận động chống lại việc bang giao Mỹ-Việt. TNS Hatfield viết thư cho ngoại trưởng
Thạch, do đó có buổi gặp gỡ giữa ông Thạch và các đai diện IRAC ở New York ngày
16/10/1990. Chuyện này đã được tác giả Lê Xuân Khoa tường thuật trong mấy bài
viết trước đây.
(10) Statement by Le Xuan
Khoa, in Refugees: A Challenge to Solidarity, Proceedings of
the International Round Table on the Question of Refugees sponsored by the
Permanent Observer Mission of the Holy See to the United Nations, published by
Center for Migration Studies, , New York 1994, pp. 265-267.
No comments:
Post a Comment