Phạm
Đình Hưng
Được đăng ngày Thứ hai, 10 Tháng 11 2014 16:18
Được đăng ngày Thứ hai, 10 Tháng 11 2014 16:18
Đến ngày hôm nay, các công trình nghiên cứu sâu rộng, công phu và khách quan của nhiều tác giả ngoại quốc vẫn chưa trả lời được câu hỏi kể trên. Về mặt khoa học, chỉ có một cuộc khảo nghiệm DNA hài cốt của Hồ Chí Minh, cố Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đang được thờ phượng tại Ba Đình (Hà Nội) và cố Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc (thân phụ của Nguyễn Sinh Cung tức Nguyễn Tất Thành) đã được chôn cất tại Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp ngày nay. Nhưng nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội không muốn phơi bày bí ẩn lịch sử nầy, chọn lựa giữ im lặng khi phải đối đầu với một vấn đề khó khăn khả dĩ làm tổn thương đến uy tín của mình trước nhân dân Việt Nam và quốc tế. Hơn nửa, bộ máy tuyên truyền của Đảng Cộng sản Việt Nam không bao giờ tôn trọng sự thật lịch sử, luôn luôn đề cao sự sáng suốt của đảng và không chấp nhận đảng có sai lầm.
Căn
cứ vào các công trình nghiên cứu của các tác giả ngoại
quốc và một số dữ kiện lịch sử chính xác, tôi có
vài nhận xét về một bí ẩn lịch sử đã có tầm ảnh
hưởng vô cùng quan trọng đối với đất nước và dân
tộc Việt Nam từ thập niên 1940 đến nay. Bí ẩn đó là
: Hồ Chí Minh và Nguyễn Tất Thành là một người hay là
hai người khác nhau ?
Lý
lịch của Nguyễn Tất Thành
Nguyễn
Sinh Cung (tức Nguyễn Tất Thành) sanh tại Nghệ An năm
1890, con của Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Sau khi học hết
bậc Tiểu học, Nguyễn Tất Thành được nhận vào trường
Quốc Học ở Huế nhờ cha là quan lại của Nam triều. Bỏ
học và rời khỏi trường Quốc Học rất sớm, Nguyễn
Tất Thành đi vào Phan Thiết dạy học tại trường Dục
Anh rồi đi vào Sài Gòn làm phụ bếp dưới tàu Amiral
Latouche Tréville ( lấy tên Văn Ba) để xuất dương sang
Pháp tìm kế sinh nhai và danh vọng. Thất bại trong việc
xin vào học trường Thuộc địa của Pháp, Nguyễn Tất
Thành tiếp tục làm việc trên các tàu viễn dương rồi
qua London, Anh quốc, làm thợ nhồi bột cho một lò bánh
mì của người Pháp. Năm 1917, Nguyễn Tất Thành trở về
Paris theo lời gọi của trưởng thượng Phan Châu Trinh và
gia nhập Nhóm Ngũ Long gồm có Phó bảng Phan Châu Trinh,
Tiến sĩ Luật Phan văn Trường, Cử nhân Luật Nguyễn An
Ninh, Cử nhân Văn Chương Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn
Tất Thành. Sống kham khổ tại Paris với nghề thợ rửa
hình, Nguyễn Tất Thanh mắc bịnh lao phổi..Mặc dầu vậy,
Nguyễn Tất Thành vẫn ăn mặc rất chỉnh tề, luôn luôn
mặc áo vest và thắt cà vạt khi đi hội họp.
Ba
năm sau cuộc Cách Mạng 1917 của Nga, Nguyễn Tất Thành
gia nhập đảng Cộng Sản Pháp tại Hội nghị Tours để
bắt chước các người Bolsheviks Nga làm cách mạng vô sản
trên phạm vi toàn thế giới và xây dựng chủ nghĩa đại
đồng vô biên giới. Tại Hội nghị Tours, Nguyễn Tất
Thành đã nhờ một Đại biểu người Pháp tham dự hội
nghị nầy giải thích cho ông ta biết sự khác biệt giữa
Đệ tam và Đệ tứ Quốc tế Cộng sản. Năm 1924, Nguyễn
Tất Thành được Dmitry Manuilsky, cán bộ Đệ tam Quốc tế
Cộng sản (Komintern) tuyển dụng và đưa qua Moscowa huấn
luyện cấp tốc về kỹ thuật công tác của một cán bộ
cộng sản trước khi phái đến Quảng Châu trong tỉnh
Quảng Đông làm thông dịch viên dưới quyền của Trưởng
Phái bộ Liên xô Mikhail Borodin. Năm 1927, Thống chế Tưởng
Giới Thạch của Trung Hoa Quốc Dân đảng ra tay diệt trừ
cộng sản, Nguyễn Tất Thành chạy về Moscowa và đến
Thái Lan ẩn náu. Năm 1930, Nguyễn Tất Thành vâng lịnh
của Tổng Bí thư đảng Cộng Sản Liên Xô Josef Stalin đến
Hong Kong tham dự việc thành lập đảng Cộng Sản Việt
Nam ngày 3-2-1930 cùng với 3 người Việt và một người
Tàu tên Hồ Tập Chương (bí danh Hồ Quang), Đại biểu
của Đệ tam Quốc tế Cộng sản. Kể từ đó, Nguyễn
Tất Thành đã du nhập chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam
để gieo rắc tai họa cho đất nước và dân tộc Việt
Nam từ năm 1931 đến nay. Ở lại Hong Kong hoạt động với
bí danh Tống văn Sơ, Nguyễn Tất Thành bị nhà cầm quyền
Anh bắt giữ năm 1931 nhưng được cho nằm điều trị
trong một bịnh viện bài lao vì ông ta mắc bịnh lao trầm
trọng. Năm 1932, báo chí Hong Kong loan tin Tống văn Sơ (tức
Nguyễn Tất Thành) đã qua đời. Trong quyển sách "Hồ
Chí Minh Sinh Bình Khảo", giáo sư Sử học Hồ Tuấn
Hùng ở Đài Loan, cháu của Hồ Tập Chương, cũng ghi rõ
sự kiện nầy.
Nguyễn
Tất Thành mất tích
Kể
từ năm 1932 đến năm 1938, Nguyễn Tất Thành đã mất
tích một cách bí mật. Ông ta biến dạng trong cõi hư vô
và chỉ còn là một hình bóng phai mờ trước bọn đàn
em đang được Josef Stalin trọng dụng (Trần Phú, Hà Huy
Tập, Trần văn Giàu, Lê Hồng Phong, Nguyễn văn Cừ). Thậm
chí Nguyễn Ái Quốc (bí danh của Nguyễn Tất Thành) còn
không được tham dự chánh thức Đại hội 7 của Đệ
tam cộng sản quốc tế như hai đàn em Lê Hồng Phong và
Nguyễn thi Minh Khai. Người cộng sản Việt Nam đầu tiên
nầy bị Stalin nghi ngờ và thất sủng vì trong thời gian
lưu trú lần thứ hai tại Nga (1933-1938) ông ta biểu lộ
một vài nghi vấn về lý lịch :
-
Khi ghi danh học trường quốc tế Lenin, Nguyễn Ái Quốc
khai y sanh năm 1903 thay vì 1890. Một người trung niên có
học như Nguyễn Ái Quốc không thể quên năm sanh của
mình ! Sở dĩ có sự sai biệt về năm sanh là vì người
đội lốt Nguyễn Ái Quốc là Hồ Tập Chương, người
dân tộc Hẹ (Khách Gia) sanh tại Đài Loan năm 1901, nhỏ
hơn Nguyễn Ái Quốc 11 tuổi.
-
Trong tờ khai lý lịch, Nguyễn Ái Quốc (giả) mang bí danh
P.C.Lin chỉ khai một chút ít dữ kiện về lý lịch của
mình và ghi rằng y không có khả năng chuyên nghiệp gì
cả.
(Sophie
Quinn Judge, Ho
Chi Minh : The Missing Years,
University of California Press, 2002, - Hồ Tuấn Hùng, Hồ
Chí Minh Sinh Bình Khảo,
Đài Loan, 2008)
Không
những nghi ngờ Nguyễn Ái Quốc (giả), Stalin còn có ý
định giết chết y trong cuộc Đại Thanh trừng (Great
Purge) năm 1935 nếu không có sự can thiệp của Georgi
Dimitrov, Cố vấn của nhà độc tài Liên xô. Tha chết cho
Nguyễn Ái Quốc (giả) nhưng Stalin không giao bất cứ công
tác gì mà còn đặt ông ta trong tình trạng bị mật vụ
theo dõi.
Sự
xuất hiện của Hồ Quang (Hồ Tập Chương)
Mãi
đến năm 1938, một nhân vật tên Hồ Quang (bí danh của
Hồ Tập Chương) từ Liên Xô đến đột nhiên xuất hiện
tại Diên An, căn cứ địa của Cộng sản Tàu trong giai
đoạn 1935-1948 thuộc tỉnh Thiểm Tây, và có tư cách đảng
viên đảng Cộng sản của nước Tàu. Gia nhập Bát lộ
quân năm 1939, Hồ Quang đã phục vụ quân đội Tàu cộng
với cấp bậc Thiếu tá. Sau một thời gian công tác tại
Hoa Nam, Hồ Quang được đặc phái qua Việt Nam năm 1940
với sứ mạng liên tục gây ra chiến tranh để giết chết
vô số nhân tài và sinh mạng, tiêu hao sinh lực của nước
Việt, chuẩn bị việc thôn tính bán đảo Đông Dương và
Đông Nam Á theo kế hoạch của Mao Trạch Đông. Ẩn trốn
trong hang Pác Bó (Cao Bằng) dưới sự bảo vệ của cán
binh Tàu cộng và bọn người dân tộc Tày của Chu văn
Tấn, Hồ Quang thường xuyên qua lại biên giới Hoa Việt.
Năm 1943, từ Quảng Tây trở về hang Pác Bó, Hồ Quang
mang một tên mới : Hồ Chí Minh. Sự cực kỳ độc ác
của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đối với
dân tộc Việt đã khiến cho rất nhiều người nghĩ rằng
Hồ Chí Minh thật sự là Hồ Tập Chương, một người
Tàu Đài Loan dân tộc Hẹ (Hakka) đúng theo sự xác quyết
của giáo sư Sử học Hồ Tuấn Hùng, một người cháu
trong gia tộc của Hồ Tập Chương không có ân oán gì
trong cuộc Chiến Tranh Việt Nam. Mới đây, sau khi Trung
Cộng công khai hóa một số bí mật về Hồ Chí Minh tức
Thiếu tá Hồ Quang của Quân đội Nhân Dân Giải Phóng,
tính thuyết phục của quyển sách "Hồ Chí Minh Sinh
Bình Khảo" càng tăng thêm. Ngoài các quyển sách của
giáo sư Đài Loan Hồ Tuấn Hùng, giáo sư William J.Duiker và
sử gia Sophie Quinn Judge còn có vài nguồn tin chính xác
khác và một số sự kiện cụ thể liên quan đến Hồ
Chí Minh.
Hồ
Chí Minh thật sự là ai ?
1-
Ngô Trọc Lưu, người được xem là người cha của nền
văn nghệ Đài Loan, đã xuất bản tại Đài Loan năm 1947
một quyển sách tựa đề "Hồ Chí Minh" viết
bằng Nhật ngữ. Thân cận với Hồ Tập Chương và các
người em của nhân vật kỳ bí nầy, Ngô Trọc Lưu xác
quyết Hồ Chí Minh là Hồ Tập Chương, người thuộc sắc
tộc Hẹ tức Khách Gia (Hakka) sanh tại Huyện Miêu Lật,
Địa khu Đông La, Đài Loan
2.
Ký giả cộng sản Trần Đĩnh, một nhân vật thân cận
của Hồ Chí Minh, đã hé lộ một chị tiết đáng kể về
lý lịch của người "cha già dân tộc" của cộng
sản Việt Nam.
Trong
quyển "Đèn Cù", ký giả Trần Đĩnh tiết lộ đã
nghe Hồ Chí Minh nói tiếng Hẹ của dân tộc Hakka rất
lưu loát, thấy "Bác"rất thich thú đi dạo chơi
thành phố Móng Cái và biết rất rõ thành phố nầy mặc
dầu mới đến đây lần đầu tiên năm 1960. Ký giả Trần
Đĩnh nghĩ rằng "Bác Hồ" đã có ở trong thành
phố Móng Cáy khá lâu. Suy nghĩ nầy phù hợp với một
vài chị tiết trong lý lịch của Hố Tập Chương : Năm
1931, Hồ Tập Chương bị bắt tại Quảng Châu cùng một
thời gian với Nguyễn Ái Quốc (bí danh Tống văn Sơ) đang
bị giam giữ tại Hong Kong. Sau khi được cộng sản Tàu
giải cứu, Hồ Tập Chương đã đến vùng rừng núi Quảng
Tây khai thác hầm mõ từ năm 1932 đến 1933. Kể từ đó,
ông ta không còn liên lạc với gia đình. Khi ở Quảng
Tây, Hồ Tập Chương có nhiều điều kiện thuận lợi để
đi qua Móng Cáy hoạt động cùng cô Bí thư một Chi bộ
cộng sản tại thị trấn biên giới nầy.
3.
Tập thơ "Ngục Trung Nhật Ký" của Hồ Chí Minh
(tự nhận là tác giả) có thể cung cấp một thông tin
hữu ích về nguồn gốc địa phương của tác giả :
trong tập thơ nầy có một số từ ngữ đặc thù và lối
chơi chữ chỉ có người dân tộc Hẹ (Hakka) mới biết
dùng. Cần lưu ý : Nguyễn Tất Thành chỉ có trình độ
sơ cấp về Hán văn và chỉ biết nói tiếng Quảng Đông
nhờ hoạt động tại Quảng Châu từ 1924 đến 1927 và ăn
ở với Tăng Tuyết Minh, người vợ xẩm có cưới hỏi
năm 1925 qua mai mối của Thái Sướng và Đặng Dĩnh Siêu
(vợ Chu Ân Lai)
4-
Trước khi qua đời ngày 2/9/1969, Hồ Chí Minh muốn được
nghe một bài hát của Tàu do một cô xẩm hát. Tại sao
một nhà lãnh đạo người Việt lại muốn nghe một bài
hát của Tàu trước khi chết, nhứt là do một cô xẩm
hát ?
5-
Giáo sư William J. Duiker trong quyển sách "Ho Chi Minh : A
Life" có nhận xét một sự khác biệt về thói quen
giữa Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh : Nguyễn Ái Quốc
ăn mặc rất chải chuốt và luôn luôn thắt cà vạt còn
trang phục của Hồ Chí Minh thì rất lượm thượm, ông
ta không bao giờ thắt cà vạt, trông rất quê mùa (William
J.Duiker, Ho
Chi Minh : A Life,
New York Hiperion, 2001)
6-
Năm 1931, trong khi Nguyễn Ái Quốc bị giam giữ tại Hong
Kong, Hồ Tập Chương bị bắt tại Quảng Châu. Nhờ một
nữ cán bộ cộng sản tên Lâm Y Lan giải cứu đưa đến
Hạ Môn, một thành phố cảng nằm ở phía Đông Nam tỉnh
Phước Kiến, Hồ Tập Chương đã có một mối tình thắm
thiết với cô gái Quảng Đông nầy trong thập niên 1930.
Sau nầy, Chủ tịch Hồ Chí Minh của miền Bắc cộng sản
nhờ Đào Chú, một cán bộ cao cấp Đảng Cộng sản
Trung Quốc và Chủ tịch Mao Trạch Đông tác hợp với Lâm
Y Lan nhưng bị Lê Duẫn, Bí thư thứ nhứt Đảng Cộng
sản Việt Nam, chống đối nên không thành. Năm 1968, Lâm
Y Lan chết ở Quảng Đông, Hồ Chí Minh buồn rầu đi theo
người yêu xuống tuyền đài năm sau (1969). Cần ghi nhận
Hồ Chí Minh không hề muốn gặp lại Tăng Tuyết Minh,
người nữ cán bộ cộng sản ở Quảng Châu đã chánh
thức kết hôn với Nguyễn Ái Quốc năm 1925. Thái Sướng
và Đặng Dĩnh Siêu (vợ Chu Ân Lai) cũng như Đảng Cộng
sản Trung Quốc cũng không muốn đưa Tăng Tuyết Minh qua
Hà Nội tái hợp với Hồ Chí Minh vì sợ lộ thân phận
của ông Chủ tịch Đảng Cộng sản Việt Nam.
7-
Lúc ông Cả Khiêm tức Nguyễn Sinh Khiêm (anh cả của
Nguyễn Tất Thành) và bà Nguyễn Thị Thanh (chị của
Nguyễn Tất Thành) còn sống ở Nghệ An, Chủ tịch Hồ
Chí Minh không hề về quê nhà để thăm hai anh, chị ruột.
Thậm chí khi hai người nầy qua đời, Hồ Chí Minh cũng
không về Nghệ An để phúng điếu. Năm 1945, bà Nguyễn
Thị Thanh đã lặn lội từ Nghệ An ra Hà Nội thăm em xa
cách gia đình mấy chục năm cũng không được Chủ tịch
Hồ Chí Minh tiếp. Dường như, Hồ Chí Minh cố ý tránh
gặp ông Cả Khiêm và bà chị Nguyễn Thị Thanh để khỏi
bị phát giác sự khác biệt giữa Nguyễn Tất Thành và
Hồ Chí Minh. Khác hẵn quảng đại quần chúng Việt Nam,
Hồ Chí Minh không có tình cảm anh chị em ruột thịt và
tình tự quê hương xứ sở. Ông ta rất xa lạ đối với
người anh cả và người chị ruột.
Nói
tóm lại, các tài liệu viết của người ngoại quốc và
các sự kiện cụ thể kể trên giúp cho tôi có một cơ
sở vững chắc để phán đoán và kết luận: Nguyễn Sinh
Cung tức Nguyễn Tất Thành và Hồ Chí Minh là hai người
khác nhau.
Mùa
Thu California, 2014Thẩm
phán Phạm Đình Hưng
Nguồn: bacaytruc.com
Nguồn: bacaytruc.com
No comments:
Post a Comment