November
28, 2014 4:53 PM
Hơn
bốn trăm năm trước vùng Bắc Mỹ là nơi mà những người
cùng khổ khắp năm Châu đến tìm vàng, hy vọng thoát
khỏi những khó khăn về kinh tế hay chạy trốn vì lý do
tôn giáo. Miền đất hứa của những người lao động
nhọc nhằn, đầy dẫy những hiểm nguy, bất công, bóc
lột, kỳ thị… Họ phải chiến đấu để bảo vệ sự
sống còn và vượt qua nhiều gian khổ để thành lập
Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ là quốc gia độc lập, dân chủ
và giàu mạnh nhất thế giới.
Hàng năm Canada và Hoa Kỳ có lễ Tạ ơn Thanksgiving để nhớ lại nguồn gốc tổ tiên. Lễ Thanksgiving có ý nghĩa thật sâu xa, con người có thể khác nhau về chủng tộc, màu da, đức tin tôn giáo hay vô thần. Trong đời chúng ta không ít thì nhiều mình từng nhận ơn của người khác giúp cho mình và ngược lại.
Thanksgiving là dịp để nhắc nhở mình nhớ lại những hạnh phúc lớn nhỏ đã nhận trong đời mà Thượng Đế ban cho. Tạ ơn Trời theo truyền thống của mỗi dân tộc, thời xa xưa người ta tin các vị thần linh làm cho mùa màng được tươi tốt, gia súc sinh sản nhiều đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Người Việt Nam vùng nông thôn tổ chức tế lễ Kỳ Yên, cúng Thần Hoàng, đầu mùa gặt thì cúng cơm lúa mới…“lạy trời mưa xuống lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày“.
Triều đình Huế qua các triều đại hàng năm có tục tế lễ Nam Giao để tạ ơn Trời Đất, nhờ mưa thuận gió hòa đem lại no cơm, ấm áo cho toàn dân.[1] Thanksgiving là ngày tạ ơn Trời vừa tạ ơn Đời, ơn Người. Tục ngữ, ca dao VN nói lên lòng biết ơn người:
Ơn ai một chút chớ quên
Một miếng khi đói bằng một gói khi no
Uống nước, nhớ nguồn
Ăn quả nhớ kẻ trồng cây,
Ăn khoai nhớ kẻ cho dây mà trồng…
Năm 1879 Quốc Hội Canada chọn ngày 6 tháng 11 làm Thanksgiving. Tới 1957 Canada căn cứ vào lịch sử ấn định ngày thứ Hai thứ nhì của tháng 10 là ngày lễ Thanksgiving.[2] Người Mỹ chọn lễ Tạ Ơn vào thứ Năm cuối tháng 11 nghỉ bắt cầu ngày thứ Sáu cho đến cuối tuần, đây là thời gian họp mặt đại gia đình, quây quần trong bữa tiệc lễ Tạ ơn. Nguồn gốc lễ Tạ ơn gắn liền với các “Lễ hội ngày mùa hay Lễ hội thu hoạch” được tổ chức ở Âu Châu từ hai ngàn năm trước. Riêng tại Đức mùa Thu về gió lạnh với mưa sa cây lá xanh đổi màu vàng úa rơi rụng, nông dân lo thu hoạch mùa màng, theo truyền thống hàng năm vào ngày Chúa Nhật đầu tiên của tháng Mười, họ tổ chức lễ tạ ơn Thiên Chúa nhân từ ban phước lành “mưa thuận gió hoà” gặt hái thành công tốt đẹp.
Theo tài liệu thì những người Âu Châu di cư đầu tiên đến Bắc Mỹ và nhóm Thám hiểm Frobisher năm 1578 tổ chức lễ tạ ơn ở Newfoundland. Một lễ hội khác được tổ chức vào ngày 4.12.1619 khi 38 người khai hoang từ giáo khu Berkeley xuống thuyền tại Virginia. Trước đó ngày 23.5.1541 tại Texas cũng có buổi tiệc tạ ơn tổ chức bởi Francisco Vásquez de Coronado cùng với nhóm người da đỏ Teya, ăn mừng việc họ tìm ra lương thực. Một phần tư thế kỷ sau vào ngày 8.9.1565 tại St. Augustine, Florida sự kiện tương tự xảy ra khi Pedro Menéndez de Avilés gặp đất liền, ông và những người trên thuyền đã tổ chức bữa tiệc tạ ơn có gà Tây nướng trộn đậu que, bí đỏ với người bản xứ.
The
First Thanksgiving 1621, oil on canvas by Jean Leon Gerome Ferris
(1899)
Ngày
16 tháng 9 năm 1620 tàu buồm Mayflower[3]
khởi hành từ Plymouth với 101 người Anh di cư do thuyền
trưởng Christopher Jones (1570-†1622) cùng với thuỷ thủ
đoàn 34 người đàn ông, 31 trẻ em. Trong đoàn có 35 người
bị vua Jacques đệ nhất đuổi ra khỏi xứ. Họ đặt tên
là nhóm Cha hành hương Pilgrim (Pilgrim Fathers) theo đạo Tin
Lành cải cách ly khai / Puritan separatists rời Anh Quốc sống
ở Leyden Hòa Lan, thuê tàu để vượt Đại Tây Dương tìm
vùng đất hứa. Thời gian ấy bão mùa thu, tàu buồm có
đầy đủ ánh sáng, phòng chứa hàng hóa dài 9,15 m. Nơi
trú ẩn dành cho hành khách vào ban đêm và lúc biển động
thời tiết xấu, trần rất thấp, người lớn không thể
đứng. Thời tiết tốt hành khách ở trên boong tàu và
nấu ăn với chảo than nhỏ được để trong hộp cát.
Cuộc hành trình dài trên biển lênh đênh 65 ngày qua 2750
hải lý, Mayflower trải qua nhiều cơn bão, thành tàu bị
vỡ nước tràn vô khiến mọi người sợ hãi, hành khách
phải ở dưới hầm tàu ói mửa, say sóng… Một hành
khách và một thủy thủ chết vì bệnh, bà Elizabeth
Hopkins sinh con trai đặt tên là Oceanus.
Lúc đầu họ muốn đến Jamestown, Virgina nơi đã có người di dân từ trước, nhưng tàu Mayflower bị bão giạt lên phía Bắc và đến Cape Cod Bay ngày 21.11.1620 bờ biển chưa ai đặt chân tới (sau này là Massachusetts). Họ xuống tàu qùy gối tạ ơn Thiên Chúa, nhưng trên vùng đất cằn cỗi này bắt đầu giá lạnh và tuyết rơi. Dưới sự lãnh đạo của Capt Miles Standish họ phải tiếp tục thực hiện những cuộc thám sát để tìm đến vùng đất mà trên đó họ có thể trồng trọt, sinh sống. Ngày 15 Tháng 12 ‘Mayflower’ đến Plymouth Rock. Trong suốt mùa đông hành khách vẫn ở trên Mayflower bị bệnh viêm phổi, bệnh lao, rất nhiều người chết vì bệnh truyền nhiễm, chỉ 53 người còn sống. Trước hoàn cảnh khốn cùng, như một phép lạ họ gặp thổ dân da Đỏ láng giềng (Narranganset và Wampanoag) cho họ bí, thịt gà, giúp họ sống qua mùa đông, họ tự xây dựng những ngôi lều vào mùa xuân. May mắn thay họ gặp thổ dân Squanto/Tisquanto một người tốt bụng nói tiếng Anh, hết lòng giúp đỡ họ làm thế nào để săn thú rừng, bắt cá ở sông và chỉ cách trồng bắp, gieo hạt giống do chính ông mang lại. Trong mùa thu, những người di dân thu hoạch được thực phẩm. Nhóm dân di cư Pilgrims mở tiệc ăn mừng, tạ ơn Thượng Đế “uống nước nhớ nguồn” với người bản xứ (thổ dân da Đỏ) giúp họ những ngày đầu khó khăn trên đất Mỹ. Từ đó trở đi Thanksgiving thành một tập quán của Hoa Kỳ. Thanksgiving mang ý nghĩa đặc biệt là một truyền thống từ những nhà lập quốc cho đến các người định cư lập nghiệp trên đất nước này.
Thanksgiving vừa bày tỏ tinh thần tín ngưỡng, cảm tạ Thượng Đế, vừa thể hiện tinh thần hợp tác giữa các dân tộc chung sống hòa bình.
Tổng thống Washington George (1732-†1799) chọn ngày 26.11.1789. Thời Nam Bắc phân tranh các tiểu bang miền Bắc chọn ngày lễ Thanksgiving riêng. Năm 1830 bà Sarah Josepha Buell Hale (1788-†1879) là nhà văn tác giả của cuốn “Mary Had a Little Lamb”. Bà viết trên Boston Ladies’ Magazine và Godey’s Lady’s Book đi vận động khắp các tiểu bang để có chung một ngày lễ trọng đại nầy. Mãi cho đến năm 1863 Tổng thống Abraham Lincoln (1809-†1865) thống nhất chọn ngày thứ Năm cuối của tháng 11 làm lễ thanksgiving để nhắc đến công ơn của các di dân đầu tiên dựng nên nước Mỹ. Đến đời T.T. Frank Delano Roosevelt năm 1940 biểu quyết ngày thứ Năm tuần lễ thứ 4 của tháng 11 chung cho Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ cho đến ngày nay. Mọi người được nghỉ bốn ngày cuối tuần.
Thanksgiving thể hiện truyền thống sinh hoạt của Pilgrims là các cư dân đầu tiên trên đất Mỹ, người lớn, trẻ con mặc y phục kiểu Pilgrim trong lễ hội hay diễn hành. Ngoài ra còn có các hình thức khác xuất xứ từ những cổ tục lâu đời hơn của các dân tộc về lễ hội ngày mùa như cornucopia, chiếc mỏ hình cái sừng cong tràn đầy trái cây, rau qủa, là biểu trưng đặc biệt về Thanksgiving. Những hình ảnh đẹp trang trí trong dịp lễ cũng là trái củ, hoa lá, bông lúa mì…
Tiệc tùng thường có gà Tây nướng vàng, bí đỏ (thức ăn chính mà người da Đỏ đã mang tới cho di dân) với những thứ rau như đậu que, khoai lang, bắp, nấu nướng theo lối cổ truyền đặc thù của Mỹ là bánh nhân bí đỏ và bánh nhân hạt pecan, mứt dâu cranberry và rau xà lách…
Những người di cư (Pilgrims) khởi đầu của những cuộc hải hành nối tiếp đến vùng đất mới bao la, trù phú với nhiều hứa hẹn cho một tương lai rực rỡ … Năm 1630 có thêm 17 tàu chở người di dân đến với ‘Thế giới mới/ Neuen Welt’. Trong 250 năm sau các thuyền buồm tiếp tục vượt Đại Tây Dương, đó là những cuộc di dân lớn nhất trong lịch sử thế giới. Đến cuối Thế kỷ 19 có khoảng 11.000.000 người đã đến đất Mỹ. Nay dân số của Hiệp Chủ Quốc Hoa Kỳ hơn 300 triệu người.
Biến cố ngày 30.4.1975 người VN phải từ bỏ quê hương giống như những người di dân đầu tiên đến nước Mỹ. Trong những thập niên qua hơn 1.548.449 người Việt cùng đón mừng Thanksgiving trọng đại nầy, tạ ơn Thượng Đế đã ban cho đời sống hội nhập tốt đẹp, sung túc trên đất nước tự do dân chủ, phú cường..
Nguyễn
Quý Đại
.
Tài
liệu:
Lễ tạ ơn tham khảo tài liệu bản tiếng Đức của trang Wikipedia
The History of thanksgiving & hình trên Internet[1] Trong suốt 79 năm (1807-1885) độc lập của nhà Nguyễn, đàn Nam Giao luôn là nơi tổ chức nghi thức tế Nam Giao đều đặn vào mùa xuân hàng năm. Từ năm 1886 đến năm 1890, triều đình Huế không tổ chức lễ tế Nam Giao. Bắt đầu từ năm 1891 cứ ba năm một lần, vua nhà Nguyễn tế lễ Trời Đất ở đàn tế Nam Giao. Lễ tế cuối cùng của triều Nguyễn tại đây là vào ngày 23 tháng 3 năm 1945. Như vậy, đã có 10 trong tổng số 13 vị vua nhà Nguyễn đích thân tế hoặc sai người tế thay ở đàn Nam Giao với 98 buổi đại lễ được tổ chức.
[2] Pons Collins dictionary of the Enlish Language
[3] Theo tài liệu hãng tàu ‘Mayflower’ năm 1588 đã tham gia vào cuộc đấu tranh chống lại Armada Tây Ban Nha. Các loại tàu có kích thước tương tự và hình dạng của một Galleon. Một Dreimastschiff với một lâu đài cao, khoảng 180 tấn, chiều dài 28m, chiều rộng 8m (90‘x 24′), sâu 3,5 đến 4m, vũ khí trang bị 10 khẩu súng, hải hành đoàn 40 người tàu có hai buồm vuông trên côt buồm mui và cột chính. Các ‘Mayflower’ thương mãi sử dụng trong việc vận chuyển rượu vang từ vùng Địa Trung Hải đến Anh, vải và lông thú đi đến nước Pháp. Năm 1620 một chiếc tàu “Mayflower chở một nhóm ly khai tôn giáo Anh. Năm 1607-1608 bỏ chạy sang sống lưu vong tại Hòa Lan. Những người nầy được gọi là Pilgrims fathers không trở về Anh, họ muốn di cư đến một vùng đất mới…
No comments:
Post a Comment