(VNTB)
- Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã
khái quát mối quan hệ Việt – Trung bằng sáu chữ « Vừa
hợp tác vừa đấu tranh ». Nhưng nếu giới lãnh đạo
Việt Nam vẫn không kiện Trung Quốc ra tòa án Quốc tế
ngay từ bây giờ thì việc Việt Nam mất hẳn biển, đảo
vào tay Trung Quốc sẽ là điều khó tránh khỏi.
Chứng
cứ
Trung
Quốc đã chiếm giữ toàn bộ quần đảo Hoàng Sa sau trận
hải chiến với Hải quân Việt Nam Cộng Hòa năm 1974, và
chiếm đóng một phần của Trường Sa từ năm 1988. Năm
2007, Quốc vụ viện Trung Quốc lại phê chuẩn việc lập
thành phố Tam Sa, trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa mà họ
gọi là Tây Sa và Nam Sa.
Đối
với Trung Quốc, Biển Đông nói chung cũng như Hoàng Sa và
Trường Sa là một vùng chiến lược quan trọng, là cổng
của lục địa Trung Quốc đi ra thế giới bên ngoài. Đó
còn là ngư trường phong phú và là nơi có trữ lượng
dầu mỏ rất lớn. Mặt khác, 90% trao đổi hàng hóa của
thế giới là trên đường biển và 60% các trao đổi này
là qua Biển Đông.
Tuy
nhiên, Trung Quốc lại không thể chứng minh chủ quyền
của họ đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Bản đồ Trung
Quốc được thực hiện dưới thời nhà Thanh xuất bản
năm 1904 ghi rõ cực nam Trung Quốc là đảo Hải nam, không
hề bao gồm Hoàng Sa, Trường Sa.
Trong
khi đó, Việt Nam lại có đầy đủ các chứng cứ lịch
sử về chủ quyền của mình đối với Hoàng Sa và Trường
Sa. Ít nhất từ 1816, dưới đời vua Gia Long, nhà Nguyễn
Việt Nam đã chiếm cứ công khai và thực hiện chủ quyền
một cách liên tục, hòa bình các hải đảo Hoàng Sa và
Trường Sa. Sau khi chiếm Việt Nam, Pháp tiếp tục thực
thi chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa.
Sau
này, theo Hiệp định Genève năm 1954, hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa, do có vĩ độ nằm phía Nam vĩ tuyến 17
vốn được dùng làm giới tuyến quân sự tạm thời chia
Việt Nam làm hai, nên thuộc vùng tập trung của chính
quyền Quốc Gia Việt Nam. Năm 1956, Việt Nam Cộng Hòa kế
thừa chính quyền Bảo Đại (tức chính quyền Quốc Gia
Việt Nam), tiếp tục quản lý Hoàng Sa và Trường Sa.
Xuyên
tạc trắng trợn
Cho
tới nay Trung Quốc vẫn diễn giải bức công hàm của Thủ
tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng gửi
cho Chu Ân Lai năm 1958 là sự thừa nhận về chủ quyền
của Trung Quốc đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Theo
tuyên bố của Bộ ngoại giao nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam thì sự diễn giải như thế của Trung Quốc
là một sự “Xuyên tạc trắng trợn trên tinh thần và ý
nghĩa của bản công hàm chỉ có ý định công nhận giới
hạn 12 hải lý của lãnh hải Trung Quốc”.
Về
phương diện quốc tế từ năm 1958 tới 1975, Hoàng Sa và
Trường Sa không thuộc quyền quản lý của Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa nên chính phủ này không có quyền hạn
hành xử chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa. Hai quần
đảo này lúc đó thuộc quyền quản lý của Việt Nam
Cộng Hòa. Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban
Biên giới chính phủ (nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam), nhìn nhận: “Việt Nam Cộng Hòa là một thực
thể chính trị, một chủ thể trong quan hệ quốc tế
được quốc tế công nhận. Vì vậy, Việt Nam Cộng Hòa
là đại diện cho đất nước Việt Nam, dân tộc Việt
Nam để quản lý và thực thi chủ quyền đối với hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam” (1)
Hiện
nay Việt Nam, Đài Loan và Trung Quốc đều tuyên bố chủ
quyền trên toàn bộ quần đảo Trường Sa, trong khi
Brunei, Malaysia và Philippines mỗi nước tuyên bố chủ
quyền nhiều phần. (2)
Nhiều
nước tham gia tranh chấp này có quân đóng trên từng phần
của quần đảo Trường Sa. Việt Nam hiện đang kiểm soát
21 đảo. Nhóm đảo này gộp vào thành huyện Trường Sa
thuộc tỉnh Khánh Hòa.
Hiệp
ước quốc phòng với Mỹ ?
Chính
phủ Mỹ tuyên bố Mỹ có lợi ích quốc gia đối với
hòa bình, ổn định ở Biển Đông cũng như an ninh hàng
hải và tự do đi lại, và cho rằng đòi hỏi chủ quyền
của Trung Quốc ở Biển Đông vượt quá những gì mà
công ước Liên Hiệp Quốc về luật biển Unclos cho phép.
Những tuyên bố này đã làm Trung Quốc không hài lòng và
chỉ trích “Chính sách can thiệp” của Mỹ. Trong thế
kỷ 19, Mỹ đã tuyên bố học thuyết Monroe (Châu Mỹ của
người châu Mỹ) để đẩy các cường quốc châu Âu ra
khỏi Bắc Bán Cầu. Có lẽ, cũng chủ trương đó, Trung
Quốc không muốn Mỹ can thiệp vào vấn đề Biển Đông,
để Biển Đông thành ao nhà của Trung Quốc (trong quá
khứ, vì cần chơi con bài Trung Quốc nhằm chống lại
Liên Xô nên Mỹ đã bỏ mặc cho Trung Quốc chiếm Hoàng
Sa và Trường Sa).
Hiện
Mỹ đang thắt chặt quan hệ đồng minh với Úc, Nhật,
Hàn, Philippines. Nếu Bắc Kinh không vượt qua được áp
lực của chủ nghĩa dân tộc (cực đoan) thì xung đột ở
Biển Đông là khó tránh khỏi. Vấn đề là, nếu xung đột
xảy ra, thì Philippines có một Hiệp ước quốc phòng với
Mỹ, còn Việt Nam thì không. Việc Mỹ dỡ bỏ một phần
lệnh cấm vận vũ khí đối với Việt Nam (tháng 10 –
2014) là nhằm tăng cường khả năng phòng thủ trên biển
của Việt Nam để ngăn chặn sự hung hăng của Trung Quốc.
Dù đây là một bước đột phá nhưng nó vẫn không thể
giúp thay đổi cán cân quyền lực giữa Trung Quốc và
Việt Nam. Hải quân Trung Quốc vẫn sẽ áp đảo hải quân
Việt Nam vì hạm đội của Trung Quốc được trang bị
tốt hơn nhiều. Cái mà Việt Nam cần là một sự đảm
bảo từ phía Mỹ rằng Mỹ sẽ giúp bảo vệ Việt Nam
trong trường hợp Việt Nam bị Trung Quốc tấn công. Đây
là điều Việt Nam không dễ nhận được sự đồng ý
của Mỹ vì Mỹ vẫn muốn tránh đối đầu trực tiếp
cới Trung Quốc do quan hệ Mỹ - Trung vẫn là mối quan hệ
quan trọng hàng đầu. Vả lại, theo Mỹ, Việt Nam vẫn
chưa mấy cải thiện vấn đề nhân quyền. Phải chăng vì
thế mà Việt Nam cần đẩy mạnh quan hệ Việt – Nga.
Nhưng
liệu Nga sẽ hết lòng với Việt Nam hay chỉ nước đôi?
« Người
bạn không tử tế »
Khi
xảy ra cuộc hải chiến Trường Sa năm 1988, Hải quân
Liên Xô đóng ở Cam Ranh đã không hề can thiệp, dù Việt
Nam và Liên Xô có ký riêng hiệp ước Liên minh Quân sự
Đồng minh song phương (năm 1978), trong đó ghi rõ Liên Xô
sẽ hỗ trợ Việt Nam hết mình về kinh tế, văn hóa và
quốc phòng. Việc Nga liên minh với Trung Quốc sau khi bị
phương Tây cấm vận (do xâm chiếm vùng Crimée của
Ukraine) hứa hẹn Nga sẽ là người bạn không tử tế. Dù
liên minh Nga – Trung có vẻ không bền vững, Nga khó trở
thành chỗ dựa cho Việt Nam trước một Trung Quốc đang
hung hăng ôm mộng bá quyền. Gấu Misha xem ra chẳng tốt
gì hơn gấu Panda. Liên minh với một cường quốc khác
đáng tin cậy hơn là một nhu cầu bức thiết đối với
một Việt Nam đang cô đơn. Liên minh không phải để gây
chiến tranh mà để làm chiến tranh không xảy ra vì Bắc
kinh sẽ không dám mạo hiểm. Một thăm dò dư luận do
Trung tâm nghiên cứu PEW tại Washington DC thực hiện cho
biết đa số ở Việt Nam xem Trung Quốc là đe dọa số
một và muốn Mỹ là đồng minh chủ yếu.
Tại
sao chưa kiện?
Với
chuyến thăm Việt Nam của thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc
Cường tháng 10-2013, một viện Khổng Tử sẽ ra đời ở
Việt Nam. Đây được xem là một cách để Trung Quốc
phát huy “sức mạnh mềm” (Hiện có hàng trăm viện
Khổng Tử trên thế giới). Có người mỉa mai rằng chưa
biết Trung Quốc sẽ phát huy “Sức mạnh mềm” ở Việt
Nam như thế nào, nhưng ngư dân ở miền Trung Việt Nam thì
đã biết quá rõ “Sức mạnh cứng” của các thuyền
hải giám của Trung Quốc ở Biển Đông. Hàng chục tàu
thuyền của ngư dân Việt Nam đã bị tàu hải giám của
Trung Quốc đâm chìm giữa biển khơi. Việc Trung Quốc
ngang nhiên đặt giàn khoan HD – 981 trong vùng biển Việt
Nam với sự hỗ trợ của máy bay, tàu chiến chứng tỏ
những cái đầu nóng ở Bắc Kinh không quen sử dụng sức
mạnh mềm. Những áng thơ tuyệt vời của Bạch Cư Dị,
Lý Bạch… làm người ta yêu Trung Quốc bao nhiêu thì chủ
nghĩa bành trướng bá quyền mà nhà cầm quyền Bắc Kinh
đang theo đuổi lại khiến người ta ghê sợ Trung Quốc
bấy nhiêu. Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng tuyên
bố: “Không đánh đổi chủ quyền lãnh thổ để lấy
một thứ hòa bình viễn vông, lệ thuộc”.
Trong
khi chính phủ Việt Nam đang “cân nhắc kỹ lưỡng”
thời điểm dùng biện pháp pháp lý để bảo vệ chủ
quyền ở Biển Đông thì Trung Quốc hăm dọa Việt Nam “sẽ
phải gánh chịu mọi hậu quả do việc này gây nên”.
Nhận
định về phản ứng không mấy quyết liệt của giới
lãnh đạo Việt Nam trước hành động leo thang của Trung
Quốc ở Biển Đông, giáo sư Carl Thayer (chuyên gia về
Việt Nam, từng làm việc cho Học viện Quốc phòng
Australia) nói Việt Nam “Phải lên tiếng bây giờ, nếu
không sẽ mất cơ hội mãi mãi. Trung Quốc muốn tăng mức
độ uy hiếp cá nước ở Á Châu bằng cách trừng phạt
và áp lực lên các nước này, để họ đừng lên tiếng
phản đối những gì mà Trung Quốc đang làm. Nếu ngoan
ngoãn im lặng thì có thể làm ăn hợp tác với Trung Quốc,
nhưng đây không phải là một quan hệ bình đẳng giữa
hai quốc gia ngang nhau mà phải trở về quan hệ giữa một
nước lớn và chư hầu như thời phong kiến khi xưa”.
Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng đã khái quát mối quan hệ Việt
– Trung bằng sáu chữ « Vừa hợp tác vừa đấu
tranh ». Nhưng nếu giới lãnh đạo Việt Nam vẫn
không kiện Trung Quốc ra tòa án Quốc tế ngay từ bây giờ
thì việc Việt Nam mất hẳn biển, đảo vào tay Trung Quốc
sẽ là điều khó tránh khỏi.
---------------------
(1)
Theo giới nghiên cứu, bản Công hàm
Phạm Văn Đồng dù sao vẫn là một điểm yếu của Việt
Nam vì về nội dung, trong công hàm này không nói gì về
Hoàng Sa, Trường Sa nhưng nó lại viết « ghi nhận và
tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của chính phủ nước
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận
của Trung Quốc ». Mà bản tuyên bố này của Trung
Quốc vốn cho rằng Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Trung
Quốc (mà Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa).
(2)
Tiến sĩ Vũ Quang Việt, cựu quan chức
cao cấp của Liên Hiệp Quốc là một trong các chuyên gia
không ủng hộ cách tiếp cận Biển Đông của Việt Nam.
Ông nói : « Trong Á châu ít nhất có 4 nước
có lợi ích đối với Trường Sa, đó là Việt Nam,
Philippines, Malaysia, Brunei và một phần liên quan đến
Indonesia. Ngoài lợi ích của mấy nước này còn có lợi
ích của các cường quốc gồm Mỹ, Trung Quốc, Nhật và
nhiều nước khác phải buôn bán, đưa hàng hóa qua Biển
Đông. Do đó hòa bình ở khu vực là quan trọng, buộc các
nước trong khu vực nếu có tranh chấp phải đặt lợi
ích không chỉ của mình mà của nhiều người lên bàn
cân. Cứ nêu khẩu hiệu
Trường Sa là của Việt Nam thì còn gì mà nói chuyện với
các nước khác ».
This comment has been removed by the author.
ReplyDelete