Hầu
Hạc Tường (Hou Hexiang) gửi cho chúng tôi bài viết của
phóng viên Bổn Khan Tấn (Ben Kanxun) nội dung cuộc phóng
vấn Ngoại trưởng Việt Nam Nguyễn Duy Niên sau khi đã ký
kết những thỏa thuận. Ông đồng ý trả lời, phỏng
vấn liên quan đến "Thỏa thuận phân định Vịnh Bắc
Bộ", "Việt Nam-Trung Quốc tăng cường tin cậy
lẫn nhau" và "thúc đẩy quan hệ song phương, hợp
tác đóng góp toàn diện".[1]
Những
dối trá của đảng "Bác" chưa hề tiết lộ.
Phóng
viên MSS Bổn Khan Tấn thân mật nhập đề:
− Trong
tháng, ngày 15 tháng 6 năm 2004. Ban Tuyên Giáo của đảng
ta có loan tải trên "Nhật báo Nhân Dân" một cuộc
phỏng vấn khá quan trọng và nhạy cảm về Vịnh Bắc
Bộ, trong Đại hội đảng XI, phê chuẩn 4 thỏa thuận
"Thỏa thuận lãnh hải Vịnh Bắc Bộ", "Thỏa
thuận vùng đặc quyền kinh tế" và "Thỏa thuận
phân định thềm lục địa", và "Thỏa thuận hợp
tác nghề đánh cá", tất cả 4 thỏa thuận này gọi
tắt là "Thỏa thuận phân định Vịnh Bắc Bộ",
tuy nhiên vào ngày 30 tháng 6 năm 2004) chính thức phê chuẩn
văn kiện "Thỏa thuận phân định Vịnh Bắc Bộ",
và đã chính thức công bố hiệu lực. [2]
Hôm
nay, tôi muốn cuộc phỏng vấn này có nội dung sâu sắc,
ngài cho nhân dân hiểu nhiều hơn về tình hình Việt Nam
và công thức thương lượng nào đưa đến thành công cả
4 thỏa thuận chung một sự kiện và ký cùng một ngày,
nhân dịp hôm nay Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn
Duy Niên nhận lời phát biểu, chúng tôi mượn thông điệp
này gửi đến đồng nghiệp của ngài một tin vui. Thưa
ngài Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Niên, xin trả lời
về nguyên tắc thỏa thuận và mô tả quá trình thương
lượng, chủ yếu những phần quan trọng có ý nghĩa như
phương thức thỏa thuận.
Nguyễn
Duy Niên gật gù phát biểu:
− Đảng
cách mạng của chúng ta sinh ra đã có "tình đồng chí
và tình anh em" đối với lân bang cũng thế, do đó dễ
dàng thông qua 4 thỏa thuận trong một công thức tổng
quát của "Thỏa thuận phân định Vịnh Bắc Bộ",
Vịnh Bắc Bộ có quá trình thương lượng đối với
ngành Ngoại giao của chúng tôi kinh qua rất bình thường,
cũng cho thấy thể hiện cái năng động của nó, thực
chất trước sau Vịnh Bắc Bộ cũng trong tay Trung Quốc,
Việt Nam hay Trung Quốc tuy hai vẫn là một, ngoài mặt là
cửa trong ruột là nhà.
Bổn
Khan Tấn: Xin Bộ trưởng hãy cho biết về vị trí
những đặc điểm tầm quan trọng của Vịnh Bắc Bộ.
Nguyễn
Duy Niên: Vịnh Bắc Bộ có vị trí chiến lược quan
trọng về quốc phòng an ninh, kinh tế của Việt Nam. Vịnh
Bắc Bộ là một nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú
của "địa phương", đặc biệt là hải sản, dầu
mỏ và khí đốt. Có nhiều cảng thủy sản lớn ở Vịnh
Bắc Bộ, cung cấp hải sản quan trọng đối với đời
sống của nhân dân "Ta" (Trung Cộng).
Chính
phủ Ta đã dự đoán dưới lòng biển Vịnh Bắc Bộ có
triển vọng về tài nguyên dầu mỏ và khí đốt. Vịnh
Bắc Bộ Việt Nam từ lâu đã là hàng đầu cửa ngõ giao
lưu của thế giới để phát triển sự nghiệp nền kinh
tế của Trung Quốc, thương mại quốc tế và an ninh Trung
Quốc. Nó có một ý nghĩa đặc biệt đối với khu vực
phía Nam và một vị trí quan trọng của Trung Quốc. Vì
vậy, hai nước chú trọng đến việc quản lý, sử dụng
và phát triển Vịnh Bắc Bộ.
Bổn
Khan Tấn: Tại sao Trung Quốc và Việt Nam tiến hành
các cuộc "thương lượng" và ký kết "Thỏa
thuận phân định Vịnh Bắc Bộ"?
Nguyễn
Duy Niên: Trong một thời gian dài, Trung Quốc chưa bao
giờ được chia hải phận trong Vịnh Bắc Bộ. Điều này
là do một số các thực tế khách quan như sau: Từ trước
những năm 1950, luật biển quốc tế vẫn chưa được
phát triển, các nước ven biển của thời kỳ đó có chủ
quyền lãnh thổ chỉ 3 dặm rộng của biển (12 km), tất
cả nằm ngoài lãnh hải được coi là hải phận quốc
tế, không thuộc về bất cứ nước nào. Trong bối cảnh
này, Hiệp ước (Pháp-Thanh 1887), trước đó nhà Thanh chỉ
tập trung giải quyết việc phân định ranh giới trên đất
liền giữa hai nước và hai quốc gia nằm ở phía Bắc
Vịnh biển đảo chủ quyền từ sông Bắc Luân.
Ngày
nay, mới đưa ra phân định mở rộng Vịnh Bắc Bộ, đặc
biệt, các hải phận của Việt Nam và Trung Quốc tại
Vịnh Bắc Bộ, là cơ sở vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa, nhưng vào giữa những năm 1950 thế kỷ
trước, sau khi luật quốc tế phát triển về biển có
một số tiến bộ. Theo luật pháp quốc tế hiện đại
của biển, các quốc gia ven biển được hưởng đến 12
hải lý, vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý tính từ
đường cơ sở và lên đến 350 hải lý của thềm lục
địa. Bởi vì cả hai nước gần bờ biển đối diện
với nhau, cũng không đến 200 hải lý tại điểm rộng
nhất của nó, do đó, hai bên chồng chéo lên nhau ở các
vùng biển Vịnh Bắc Bộ và thềm lục địa, cần phải
được chia lại, để hai nước xác định lãnh hải của
mình, cũng như vùng đặc quyền kinh tế và biên giới của
thềm lục địa.
Thực
tế đã chứng minh rằng trong Vịnh Bắc Bộ là không có
đường ranh giới rõ ràng và biên giới biển giữa hai
nước, thường tranh chấp đánh bắt hải sản và thăm dò
dầu khí rất phức tạp, không ổn định có ảnh hưởng
xấu đến quan hệ song phương, hạn chế phát triển bền
vững và hiệu quả nguồn lực ở phía Vịnh Bắc Bộ.
Do
đó, Việt Nam và Trung Quốc đàm phán để giải quyết
phân định mở rộng Vịnh Bắc Bộ xác định rõ ràng
lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và ranh giới thềm
lục địa, đã trở thành một nhu cầu tất yếu để xây
dựng và phát triển sự nghiệp của Trung Quốc, còn để
tăng cường quan hệ láng giềng hữu nghị giữa hai nước
hầu thực hiện đóng góp tốt. Chỉ có ở phía Bắc Vịnh
của hai nước đã đồng ý để có được một ranh giới
rõ ràng và phù hợp với luật pháp quốc tế, đường
biên giới biển giữa hai nước phải có đầy đủ cơ sở
pháp lý cho việc quản lý các nguồn tài nguyên của vùng
Vịnh Bắc Bộ, sử dụng, phát triển và bảo vệ chủ
quyền lãnh hải.
Hiệp
ước (Pháp Thanh 1887) đã có cơ sở pháp lý quá rõ ràng,
chủ quyền của Việt Nam tại vùng Vịnh Bắc Bộ và toàn
phần quần đảo có khoảng 2318 hòn đảo và rạn san hô,
đảo Bạch Long Vĩ (Bailongwei) lớn nhất. Trong khi ấy Hiệp
ước (Pháp Thanh 1887) đã qui định cắt nhượng cho nhà
Thanh chỉ một mõm đá nhỏ chưa đầy 200 m² (Cap Paklung
có dấu chấm đỏ), trong khi đó đảo Bạch Long Vĩ có
gần 10 km². Thế mà ngày nay Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn
Duy Niên trả lời với phóng viên Bổn Khan Tấn (本刊讯)
rằng: Hiệp ước (Pháp Thanh 1887) chỉ tập trung giải
quyết việc phân định ranh giới trên đất liền giữa
hai nước. Trung Quốc chưa bao giờ được chia hải phận
trong Vịnh Bắc Bộ, cho nên ngày nay Trung Quốc được chủ
quyền 46,77% tại Vịnh Bắc Bộ, cho thấy đảng "Bác"
chưa bao giờ biết lịch sử của Vịnh Bắc Bộ. Tài liệu
ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Bổn
Khan Tấn: Đàm phán phân định lãnh thổ và lãnh hải
của các biên giới giữa các quốc gia là một vấn đề
rất phức tạp, thông thường sau một thời gian rất dài
để đơm hoa kết trái. Vui lòng mô tả ngắn gọn về quá
trình phân giới cắm mốc của các cuộc đàm phán Vịnh
Bắc Bộ của Việt Nam và Trung Quốc.
Nguyễn
Duy Niên: Nguyên tắc phân giới cắm mốc biên giới và
sự phân chia biên giới biển, bởi vì nó liên quan đến
chủ quyền và quyền tài phán, lợi ích quốc gia của nhà
nước của các đại dương, do đó là một vấn đề rất
quan trọng và phức tạp. Vì vậy, nhiều cuộc đàm phán
có thể kéo nhiều thập kỷ hoặc thậm chí nhiều thế
hệ. Chúng tôi có thể trích dẫn những ví dụ về các
bộ phận của thềm lục địa ở Indonesia: hai nước kể
từ đầu những năm 70 của thế kỷ trước đã bắt đầu
các cuộc đàm phán, nhưng đến năm 2003 đã được giải
quyết.
Giữa
hai nước, Việt Nam-Trung Quốc đàm phán phân định ranh
giới Vịnh Bắc Bộ, bao gồm cả năm 1974, có 3 cuộc đàm
phán chính thức 1977-1978 và 1992-2000, kéo dài 27 năm. 1974
(tháng 8 năm 1974 - tháng 11 năm 1974) và 1977-1978 (tháng 10
năm 1977 - tháng 6 năm 1978). Ngoài ra giữa hai nước có 2
cuộc đàm phán cấp Chính phủ vì vậy không còn xa ngày
"đơm hoa kết trái". Sau khi bình thường hóa quan
hệ song phương giữa hai nước trong năm 1991, Việt Nam và
Trung Quốc đã quyết định giải quyết các vấn đề
biên giới thông qua "thương lượng", bao gồm cả
việc phân định mở rộng Vịnh Bắc Bộ. Từ năm 1992
đến năm 2000 có chín 9 năm đàm phán, còn có 7 cuộc đàm
phán cấp Chính phủ. Đứng đầu những phái đoàn và
nhóm đã trải qua 18 vòng đàm phán cấp chuyên viên và
cấp chuyên khảo sát, lập bản đồ Bản đồ toàn diện
của vùng Vịnh Bắc Bộ và chuyên gia đã gặp gỡ các
nhóm v.v... (tổng cộng 49 cuộc thương lượng, trung bình
5 lần so với hàng năm. Ngày 25 tháng 12 năm 2000, Bộ
trưởng Ngoại giao Việt Nam và Trung Quốc trong thỏa thuận
tại Bắc Kinh, phân chia ranh giới Vịnh Bắc Bộ đã được
ký kết, kết thúc 9 năm thương lượng giữa hai nước.
Bổn
Khan Tấn: Các cuộc đàm phán phân định Vịnh Bắc Bộ
và cơ sở pháp lý của nguyên tắc này là gì?
Nguyễn
Duy Niên: Trong quá trình thương lượng, hai bên đã
thống nhất phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc
tế, đặc biệt là trong ánh sáng của những nguyên tắc
và quy định của Công ước của Liên Hợp Quốc năm 1982
về hai nước đã ký kết để giải quyết phân định
Vịnh Bắc Bộ mở rộng. Phương pháp của luật pháp quốc
tế và Luật biển năm 1982 của Liên Hợp Quốc, nhiều
quốc gia khác liên quan đến tình hình chung kết nối bờ
biển hoặc các trường hợp bắt buộc tương đối phân
rẽ nước tiếp giáp trong các vùng biển.
Công
ước Luật biển 1982 (Điều 15). Quy định với lãnh hải
rằng, nhiều quốc gia khác không có quyền mở rộng ra
ngoài lãnh thổ của đường trung tâm và các cơ sở là
khoảng cách tương tự từ điểm gần nhất để tính
chiều rộng lãnh hải của mỗi quốc gia, trừ khi một
thỏa thuận ngược lại. Tuy nhiên, nếu vì một lý do này
hay lãnh thổ lịch sử đặc khác biệt, hai nước cần
phải được sự đồng thuận trên cơ sở của lãnh hải
của các ranh giới phân chia theo cách khác.
Đối
với các vùng kinh tế độc quyền và thềm lục địa,
Công ước Luật Biển 1982 (Điều 74 và Điều 83) quy định
rằng nhiều quốc gia đồng ý theo cách tiếp cận pháp
luật quốc tế được chia để đạt được một giải
pháp công bằng. Nếu bạn thất bại trong việc đạt được
một sự đồng thuận, nó sẽ phải sử dụng các thủ
tục giải quyết tranh chấp theo Công ước (thông qua Tòa
án Quốc tế về Luật biển được thành lập theo quy
định của Công ước, các Tòa án quốc tế, hội đồng
trọng tài hoặc tòa án trọng tài đặc biệt).
Theo
Công ước Luật Biển 1982 của Liên Hợp Quốc và thông
lệ quốc tế, nước ta và Trung Quốc đồng ý thương
lượng biên giới phân chia Vịnh Bắc Bộ, thực hiện
giải quyết các nguyên tắc là: "Với tham chiếu đến
luật pháp quốc tế và thực tiễn quốc tế, "thương
lượng" phân chia khu vực phía Bắc Vịnh" và
"theo nguyên tắc công bằng, tính đến tất cả các
lãnh thổ Vịnh Bắc Bộ có liên quan lại, để đạt được
một giải pháp công bằng".
Bổn
Khan Tấn: Ông có thể nói về nội dung chính của Hiệp
định phân định mở rộng Vịnh Bắc Bộ" và có sự
bình luận phân chia Vịnh Bắc Bộ về kết quả của các
cuộc thương lượng?
Nguyễn
Duy Niên: Việc ký kết các "Thỏa thuận phân định
Vịnh Bắc Bộ" là kết quả của quá trình đàm phán
lâu dài, thể hiện sự nỗ lực của cả Việt Nam và
Trung Quốc, thiện chí và sự chăm sóc thích hợp của các
lợi ích cho cả hai bên, phù hợp với luật pháp quốc tế
và điều kiện cụ thể của Vịnh Bắc Bộ.
"Thỏa
thuận phân định Vịnh Bắc Bộ" là thỏa thuận ba
ranh giới đã ký kết giữa Trung Quốc và các nước láng
giềng lần thứ hai (năm 1997 tại Thái Lan và năm 2003 tại
Indonesia), nhưng nó là thỏa thuận đầu tiên với một
tính chất chung được ký kết giữa Trung Quốc và các
nước láng giềng phân định rõ ranh giới của đường
biên giới chung Việt Nam và lãnh hải của Trung Quốc
trong Vịnh Bắc Bộ, vùng đặc quyền kinh tế và thềm
lục địa.
Cả
hai bên đã đồng ý về phía Nam từ cửa miệng của Vịnh
Bắc Bộ và sông Bắc Luân để thiết lập một đường
biên giới lãnh hải tổng cộng 21 điểm đảo trong vùng
biển, và đếm từ điểm đầu tiên đến 9 điểm đảo
hay 11 điểm đảo của biển tiếp giáp với biên giới
(người ta gọi là đường lưỡi bò), từ 9 điểm đầu
tiên đến 21 điểm là ranh giới chung của vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa. Theo thỏa thuận này,
Việt Nam được hưởng 53,23% tổng diện tích của Vịnh
Bắc Bộ, Trung Quốc được hưởng 46,77%. Đường phân
định đảo Bạch Long Vĩ (Bailongwei) có 15 dặm xa biển,
đó là, đảo Bạch Long Vĩ có 12 dặm lãnh hải, 3 dặm
(25% của lợi ích) của vùng đặc quyền kinh tế và thềm
lục địa. Đảo Bạch Long Vĩ (Bailongwei) là một đảo
nhỏ của Việt Nam (diện tích khoảng 2,5 km vuông), và nằm
gần trung tâm của khu vực Vịnh Bắc Bộ (khoảng 110 km
ngoài khơi bờ biển của Việt Nam, khoảng 130 km từ bờ
biển đảo Hải Nam của Trung Quốc), trong đó tạo ra một
môi trường đặc biệt, phù hợp với pháp luật và thông
lệ quốc tế, (để tận hưởng những lợi ích của một
thời gian giới hạn) chỉ có một phần phân giới cắm
mốc.
Hòn
Cỏ là một hòn đảo nhỏ, nhưng nằm gần một bờ biển
Việt Nam (từ bờ biển khoảng 13 dặm biển), do đó, một
hiệu suất 50% trong việc phân chia Vịnh Bắc Bộ có con
dấu vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Đó là
một kết quả công bằng trong các cơ sở pháp lý và hoàn
cảnh cụ thể của Vịnh Bắc Bộ đạt được (đường
bờ biển của chúng tôi dài hơn bờ biển của Trung Quốc,
đất nước của chúng tôi so với Vịnh Bắc Bộ mở rộng
của Trung Quốc trên đảo, đặc biệt là ở phần phía
bắc của Vịnh gần trung tâm cũng như phần đuôi Bạch
Long Vĩ (Island).
Trong
thỏa thuận, hai bên cam kết sẽ tôn trọng lãnh hải của
nhau ở phía Bắc Vịnh, chủ quyền vùng đặc quyền kinh
tế và thềm lục địa và quyền chủ quyền và quyền
tài phán. Theo đó, các bên có thể sở hữu các nguồn
tài nguyên khoáng sản của thềm lục địa trong phạm vi
thăm dò và phát triển được thực hiện độc lập. Trên
khắp các đường phân chia cho một đơn vị dầu khí, khí
đốt, khoáng sản các kết cấu khác, hai bên thông qua
hiệp thương hữu nghị để phát triển phân phối hiệu
quả nhất và công bằng các lợi ích đạt được của
sự phát triển, sự đồng thuận. Ngoài ra, thỏa thuận
cũng sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên sinh học và
phát triển bền vững ở khu vực phía Bắc Vịnh, bảo
vệ, quản lý, sử dụng tài nguyên và sinh vật trong vùng
đặc quyền kinh tế của hợp tác giữa hai nước đã có
những quy định này.
Bổn
Khan Tấn: Trong thời điểm Việt Nam-Trung Quốc ký kết
"Thỏa thuận phân định Vịnh Bắc Bộ", nguyên
nhân nào cùng lúc ký thêm "Hiệp ước hợp tác nghề
cá trong Vịnh Bắc Bộ"?
Nguyễn
Duy Niên: Những hợp tác nghề cá là một nội dung
được đề cập trong nhiều yếu tố phân định Vịnh
Bắc Bộ của quá trình thương lượng, vì nó liên quan
đến chế độ pháp lý điều chỉnh các vùng đặc quyền
kinh tế. Từ xa xưa, người Việt Nam và ngư dân Trung Quốc
đã đánh bắt cá trong vùng biển hải sản ngoài lãnh hải
của hai nước. Trong những năm 1950 và 1960 của thế kỷ
trước, Việt Nam và Trung Quốc đã ký một số Hiệp ước
hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ. Theo các thỏa thuận
này, các bên sẽ có tàu đánh bắt xa bờ biển và hải
đảo ba dặm biển, "Thỏa thuận đánh bắt cá năm
1957", (1957 niên phàm thuyền bộ ngư hiệp định), ký
bổ sung 6 hải lý "Thỏa thuận đánh bắt cá 1957, bổ
sung Nghị định thư 1961", (1961 niên đối 1957 niên
phàm thuyền bộ ngư hiệp định đích bổ sung nghị định
thư), và cuối cùng hiệp ước 12 hải lý, "Thỏa
thuận hợp tác đánh cá 1963", (1963 niên bắc bộ loan
bộ ngư hợp tác hiệp định). Lãnh hải trong vịnh bắc
Bộ ngoài phạm vi nêu trên của các vùng biển khác, cả
hai bên đang đánh cá miễn phí, tại thời điểm đó,
luật pháp quốc tế đã xác định. Kể từ đó, các hiệp
định trong năm 1970 bị mất hết giá trị, khi Liên Hợp
Quốc đã bắt đầu thảo luận về việc xây dựng một
bộ luật mới của Công ước Biển, sự hình thành các
đặc khu kinh tế. Theo thông lệ quốc tế, có rất nhiều
quốc gia đã ký kết "Thỏa thuận hợp tác song phương
về nghề cá biển".
Sau
khi Công ước 1982 của Liên Hợp Quốc liên quan đến vùng
đặc quyền kinh tế, các quy định của vùng biển kín và
nửa kín hợp tác quốc gia có liên quan, việc sử dụng
và phát triển của khu vực phía Bắc Vịnh của các quá
trình và các điều kiện tự nhiên của khu vực phía Bắc
Vịnh nguồn tài nguyên biển, nhằm giải quyết đúng đắn
các lợi ích của cả hai bên ngư dân trong vùng Vịnh Bắc
Bộ, chúng ta đều đồng ý với nhau tại cùng một thời
gian đàm phán ký kết "Thỏa thuận phân định Vịnh
Bắc Bộ", nhưng cũng đã đàm phán và ký kết các
thỏa thuận về hợp tác nghề cá.
Ngày
25 tháng 12 năm 2000, "Thỏa thuận hợp tác nghề cá
Vịnh Bắc Bộ", cùng với các "Thỏa thuận phân
định ranh giới vùng Vịnh Bắc Bộ" đã ký cùng một
lúc. Tuy nhiên, "Thỏa thuận phân định khác nhau,
"Thỏa thuận hợp tác nghề cá" giá trị 12 năm,
hết thời gian hiệu quả tự động gia hạn lại 3 năm
"Sau 12 năm tự động gia hạn thêm thời gian ba năm",
(12 niên hòa 3 niên tự động diên trường kì) giá trị
pháp lý do Chính phủ cấp.
Bổn
Khan Tấn: Sau khi ký kết thỏa thuận biên giới đất
liền năm 1999. Việt Nam và Trung Quốc cũng đã ký kết
song phương, Bộ trưởng có cảm giác thế nào về "Thỏa
thuận phân định Vịnh Bắc Bộ"?
Nguyễn
Duy Niên: Việc ký kết "Thỏa thuận phân định
Vịnh Bắc Bộ" để mở ra quan hệ song phương giữa
Trung Quốc và Việt Nam là một sự kiện quan trọng, tạo
điều kiện thuận lợi cho việc quản lý và duy trì sự
ổn định của phía Bắc và Vịnh Bắc Bộ, tăng sự tin
tưởng giữa hai bên và thúc đẩy hợp tác toàn diện
giữa hai nước. Và giải quyết các vấn đề ranh giới
lãnh thổ, ký kết "Thỏa thuận phân định Vịnh Bắc
Bộ" cho việc "củng cố hòa bình và ổn định
trong nước của chúng tôi" để làm cho một đóng góp
tích cực cho khu vực xung quanh, tạo điều kiện thuận
lợi cho việc xây dựng và phát triển đất nước.
Việt
Nam và Trung Quốc lần đầu tiên có một giá trị về
khoa học luật pháp quốc tế và cả hai bên đã đồng ý
và chấp nhận của hai nước ở phía vùng lãnh hải Vịnh
Bắc Bộ, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
ngoài khơi đường phân chia rõ ràng.
Điều
này xác định rõ ranh giới trên biển giữa các nước để
bảo vệ phát triển riêng, sử dụng, quản lý, phát triển
và phạm vi kinh tế của các nước trong Vịnh Bắc Bộ và
thềm lục địa của họ, và đã tạo ra một khuôn-khổ
pháp lý rõ ràng quốc tế và điều kiện thuận lợi,
đồng thời, nhưng cũng cho hai bên có một nền tảng để
thúc đẩy hợp tác và tạo điều kiện cho sự mở rộng
phát triển bền vững Vịnh Bắc Bộ, duy trì sự ổn định
của vùng mở rộng Vịnh Bắc Bộ, tăng cường sự phát
triển toàn diện của quan hệ song phương và sự tin cậy
giữa hai nước.
Hiệp
ước phân định Vịnh Bắc Bộ đã được ký kết, và
một lần nữa phản ánh chính sách quốc gia của chúng
tôi một cách chính xác và thiện chí. Đất nước tôi
luôn sẵn sàng với các bên hữu quan, tôn trọng độc
lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, phù hợp với cơ
sở luật pháp quốc tế và thực tiễn, thông qua thương
lượng để giải quyết các vấn đề biên giới, quan hệ
hữu nghị và hợp tác với tất cả các quốc gia trên
lãnh thổ liên quan, các vùng biển và thềm lục địa,
duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực và đóng góp
trên thế giới.
Bổn
Khan Tấn: Bộ trưởng có thể miêu tả sự khó khăn
trong lúc đàm phán trong "Thỏa thuận phân định Vịnh
Bắc Bộ" và sẽ có hiệu lực như thế nào?
Nguyễn
Duy Niên: Theo Điều 11 của "Hiệp định phân định
Vịnh Bắc Bộ" giữa hai nước kể từ ngày có sự
chấp thuận trao đổi tài liệu, hiệp ước này sẽ có
hiệu lực. Để thực hiện các "Hiệp định phân
định Vịnh Bắc Bộ" sẽ có hiệu lực vào cuối
tháng sáu năm nay. Việt Nam và Trung Quốc đã được phù
hợp với pháp luật của nước mình để xử lý các thủ
tục pháp lý, và trong ngày 30 tháng 6 năm 2004 trao đổi
văn bản phê chuẩn.
Sau
khi có hiệu lực của "Thỏa thuận phân định Vịnh
Bắc Bộ", mỗi cơ quan của Nhà nước phù hợp với
năng lực của mình sẽ cần phải được sửa đổi, bổ
sung và cải thiện nhiều văn bản pháp luật liên quan đến
công cộng, nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc quản lý
và khai thác các nguồn tài nguyên ở phía bắc Vịnh.
Kết
luận.
Đồng
thời, đảng ta cần phải tuyên truyền, loan tải, phổ
biến sâu rộng về nội dung "Thỏa thuận phân định
Vịnh Bắc Bộ" và "Thỏa thuận hợp tác nghề
cá", đến cho các tầng lớp xã hội, từng người
dân, từng cán bộ trong ngoài đất nước cùng hiểu biết,
đặc biệt những địa phương giao tiếp ven biển phía
Bắc và vùng Vịnh Bắc Bộ, thực hiện đúng nghĩa vụ
công dân tốt.
Bổn
Khan Tấn: Cảm ơn Ngoại trưởng.
Phía
bờ Vịnh Bắc của Việt Nam có khoảng 2318 hòn đảo và
rạn san hô, đảo Bạch Long Vĩ (Bailongwei) lớn nhất trong
quần đảo ở giữa vĩ độ, 20 độ phút 08 vĩ độ bắc,
kinh độ 107 độ phút 43 đông. Tài
liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Người
viết bài này chưa có ý phản biện những lời phát biểu
của ông Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Niên, mà chỉ
giới thiệu tham khảo phần lịch sử hình thành Vịnh Bắc
Bộ hầu chứng minh cho đảng "Bác" nhận thức
được sự dối trá quá đáng của mình, tại sao không
nói sự thật để nhân dân biết. Nếu tình trạng của
đảng "Bác" lê thê mãi như Nguyễn Duy Niên đã
phát biểu trên, chẳng khác nào cướp cạn, bán nước
hay xa hơn phản quốc, cũng không ngoa lắm, bởi đảng
"Bác" đã tạo ra mảng mùa đen cho đất nước,
mới có hậu quả như ngày nay.
Lịch
sử địa lý hình thành Vịnh Bắc Bộ.
Vịnh
Bắc Bộ của Việt Nam có quần đảo Bạch Long Vĩ
(Bailongwei), thuộc Bắc Bộ là một vịnh lớn có danh mục
trên thế giới, diện tích khoảng 128.250 km² (38.000 dặm
vuông) tại điểm rộng nhất của nó là 310 km về phía
Bắc của Vịnh (176 nm), điểm hẹp nhất 207,4 km (112 nm).
Vịnh Bắc Bộ Việt Nam với tổng chiều dài 763 km bờ
biển, trong đó có 10 thành phố ven biển; có tổng chiều
dài 695 km bờ biển, về phía Trung Quốc mở rộng Vịnh
Bắc Bộ, bao gồm các tỉnh Hải Nam và Quảng Tây. Vịnh
Bắc Bộ có hai cổng: Đảo Lôi Châu và đảo Hải Nam nằm
giữa eo biển Quỳnh Châu, chiều rộng 35,2 km (19 hải lý)
tính từ Việt Nam đến Trung Quốc, cổng phía Bắc chính
giữa Vịnh Bắc Bộ và đảo Hải Nam có chiều rộng
khoảng 207,4 km (112 nm).
Trung
tâm đảo Bạch Long Vĩ cách khoảng 91 km tính từ đất
liền Hải Phòng Việt Nam. Phía bờ của Hải Nam Trung Quốc
tính từ đất liền cách khoảng 135 km. Những đảo ở
trong vùng này gọi chung là quần đảo Bạch Long Vĩ
(Bailongwei), kể cả đảo nhỏ Lôi Châu và Hải Nam, sau
1955 Trung Cộng chiếm đảo Hải Nam thành lập huyện đảo.
Đảo
Bạch Long Vĩ nhô lên từ biển, là một hòn đảo lục
tam giác. Phía chiều dài về hướng Tây Nam có 3.1km, phía
Nam chiều dài mặt 2.3km, chiều dài phía Đông 2.2km, đường
bờ biển dài 7.5km, khu vực thủy triều cao khoảng 1,78
km², diện tích đất canh tác 2,33 km², khu vực hướng
Đông Bắc, thủy triều thấp 3,05 km², tổng cộng diện
tích đảo gần 10 km².
Đảo
Bạch Long Vĩ đã bao đời chủ quyền của Việt Nam, ngày
nay Trung Quốc tranh chấp nguyên nhân Hồ Chí Minh đã ký
Vạn Niên trao đổi vũ khí. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh
Tâm.
Về
địa hình đồi núi trung ương cao 61.5m, độ dốc 62,5%
các khu vực có độ dốc ít hơn 5 độ, các phía Đông
ven biển cao 10-15m. Hình thành nền tảng mặt bằng bãi
biển của đảo và vùng bãi thủy triều rộng 13.000 km².
Mùa mưa mỗi năm vào tháng 8, tháng 3-10 mùa khô. Nhiệt độ
trung bình là khoảng 23,3°, lượng mưa trung bình hàng năm
là 1031mm. Gió mạnh hay bão vận chuyển trung bình một lần
hoặc hai lần một năm.
Năm
1887, Chính phủ nhà Thanh-Pháp ký "Hiệp ước Thiên
Tân 1887" (tục nghị giới vụ chuyên điều), tại
điểm kinh độ 108 độ 3 phút và 13 giây, thành hình phân
định lãnh hải biển đảo Vịnh Bắc Bộ, trong quần đảo
Bạch Long Vĩ (Bailongwei) tất cả thuộc sở hữu của
Pháp.
Năm
1937, có một đơn vị của Pháp đồn trú.
Năm
1943, Nhật Bản chiếm đóng các đảo này.
Năm
1946, chiến tranh thế giới II, một lần nữa quân Pháp
trở lại đồn trú.
Năm
1954, sau trận Điện Biên Phủ, Pháp ký hiệp ước Geneva,
lập lại Đông Dương và trả lại cho Việt Nam vịnh Bắc
Bộ bao gồm quần đảo Bạch Long Vĩ.
Năm
1955, quân đội nhân dân Bắc Việt đồn trú.
Năm
1957, Hồ Chí Minh ký nhượng đảo Bạch Long Vĩ 10.000 năm
cho Trung Quốc.
Năm
1992, sau Hội nghị bí mật Thành Đô 1990, chính phủ Việt
Nam tách biệt đảo Bạch Long Vĩ (Bailongwei) nhượng cho
Trung Quốc kiến thiết xây dựng thị xã thủy sản trước
mặt Hải Phòng. [3]
Những
năm 1950, đã đánh dấu trên bản đồ quần đảo ở Biển
Đông, đảo Bạch Long Vĩ (Bailongwei) lớn nhất trong vùng
Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam. Cuộc nội chiến của Việt
Nam, có một hội nghị bí mật tại Hải Phòng Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã đồng ý nhượng lãnh thổ của mình,
giao cho Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai đổi lấy
vũ khí làm phương tiện chiến tranh nhằm tiến chiếm
miền Nam Việt Nam.
Sau
khi "đàm phán bí mật Thành Đô 1990" người dân
Trung Quốc ồ ạt nhập cư vào quần đảo Bạch Long Vĩ.
Năm 2001, Việt Nam thực hiện cam kết (Kỷ yếu hội nghị
bí mật Thành Đô 1990) hoàn thành cơ bản phân định Vịnh
Bắc Bộ. Năm 2000, Việt Nam đã ký "Hiệp ước phân
định ranh giới vịnh Bắc Bộ", Trung Cộng đã chính
thức khẳng định chủ quyền tại vùng Vịnh Bắc Bộ.
Năm 2009, dân Trung Hoa chính thức định cư trên đảo Bạch
Long Vĩ tổng dân số 402 người. Ngày 27 tháng 3 năm 2013
Trung Quốc vẽ lại hải đồ toàn vùng Vịnh Bắc Bộ,
đưa đến nhiều sự kiện Trung Quốc cướp tàu, nổ súng
vào ngư dân Việt Nam, cho rằng vi phạm chủ quyền lãnh
hải Trung Quốc. Bộ Ngoại giao Việt Nam không biện minh
hay bác bỏ sự trịch thượng của Trung Quốc, trái lại
tuyên bố tăng cường kiểm soát tránh xâm phạm lợi ích
của Trung Quốc tại Vịnh Bắc Bộ.
Tình
hình chung đảo Bạch Long Vĩ.
Giới
thiệu.
Dữ
liệu hình: Bạch
Long Vĩ.
Đảo
Bạch Long Vĩ là hòn đảo lớn nhất trong khu vực Biển
Đông, có diện tích 9,96 km², gấp đôi đảo Ba Bình, bốn
lần Vĩnh Hưng và Bạch Long Vĩ là một hòn đảo lục
địa, có ngọn núi, rừng rậm và suối, nằm ở góc phía
Tây Bắc của vị trí trung tâm Đông đảo Biển. Năm 1950
Trung Quốc cho in và phát hành bản đồ tiêu chuẩn, gọi
là đảo Bạch Long Vĩ đảo nổi.
Tiến
hóa của đảo Bạch Long Vĩ.
Đối
với 2 ngàn năm trước, ngư dân Việt Nam đã sống tại
trung tâm của Vịnh Bắc Bộ trên quần đảo Bạch Long
Vĩ, người dân sinh cư lao động hài hòa, hành nghề thủy
sản thư thái, đánh bắt cá thong dong trong vịnh qua đời
thường tự tại. Hàng năm có những cơn bão tố ngư dân
Trung Hoa trôi giạt vào đảo, người dân Việt ra tay cứu
sống và cho nương nhờ cho qua cơn bão, tuy rằng Việt-Hán
mặt trời và mặt trăng khác ánh sáng nhưng nhân đạo
của người Việt xem việc cứu người hệ trọng. Trái
lại lòng bành trướng Trung Quốc khác thường nổi cơn
điên muốn cướp đảo Bạch Long Vĩ, vì Trung Quốc thấy
đặc thù quần đảo Bạch Long Vĩ có trên 2300 đảo san
hô lớn nhỏ, là nơi biển lành của "Bào ngư"
phát triển mạnh, giá trị cao, có thể nói là một bí
danh "Bào ngư Bạch Long Vĩ", thiên nhiên ưu đãi
cho Việt Nam.
Đảo
Bạch Long Vĩ, địa lý và vị trí.
Đảo
Bạch Long Vĩ tính theo hướng Tây Bắc Vịnh, tại vị trí
cửa sông Bắc Luân và Eo biển Quỳnh Châu với vĩ độ,
20 độ 08 phút vĩ độ bắc, 107 độ kinh đông 43 phút. Từ
vịnh Hải Phòng Việt Nam cách khoảng 91 km, và đảo Hải
Nam của Trung Quốc cách khoảng 135 km. Quần đảo thuộc
hướng Đông Bắc - hướng Tây Nam, chiều dài 3 km, rộng
1,5 km, với tổng diện tích gần 10 km². Trung tâm của một
ngọn đồi nhỏ 58 mét trên mực nước biển, được bao
quanh bởi những vách đá, chu vi 6,5 km. Đảo bầu dục,
4,5 km trục dài và từ bắc tới nam trục dài 2,1 km².
Đảo
Tây, phía Nam đất bằng phẳng được khoanh vùng canh tác,
phía Đông Bắc vách núi, điểm cao nhất 53 mét, một phần
núi cây rừng và thảo mộc. Rạn san hô gần bờ tạo
thành bãi biển cạn, môi trường sống của thủy sản,
bào ngư phong thú. Bên ngoài đảo nước cạn là ngư
trường lớn vô tận, một mẽ lưới kéo lên cá hồi đỏ,
mực, cá mú và những loại cá có giá trị cao.
Con
người và đảo biển.
Vào
năm 1950 dân số Việt Nam trên đảo có 628 người (382
nam, 246 nữ), năm 1955, dân số tăng lên 745 người. Cùng
năm có khoảng 28 người Hoa đến từ các đảo lân cận
như đảo Đàm Châu, khởi đầu họ xin thường trú. Dân
cư xây dựng được một ngôi làng nhỏ, sinh hoạt "tan
hôn tương tế". Chủ yếu sinh kế dựa trên nghề cá
và sản xuất hàng bào ngư khô, bán cho đại lục Trung
Quốc, đổi lấy thực phẩm và nhu yếu phẩm. Nông nghiệp
phụ, bởi đảo chỉ có hơn 500 ha đất canh tác, trồng
lúa, khoai lang, lúa miến, đậu, rau, dưa hấu.
Tranh
tụng chủ quyền đảo Bạch Long Vĩ.
Năm
1887, triều đại nhà Thanh và Pháp đã ký một hiệp ước
biên giới, phân chia biên giới lãnh thổ và lãnh hải
giữa Trung Quốc và Đông Dương thuộc Pháp. Nhà Thanh vì
lợi ích kinh doanh đổi lấy hai huyện Giang Bình Chu (Jiang
Ping Chow) và Hoàng Trúc, (Wong Chuk) hai vùng đất này của
Việt Nam. Đối lại việc phân chia ranh giới trên biển,
người Pháp lấy quần đảo Bạch Long Vĩ tại điểm 108
độ 03 phút kinh độ Đông từ cửa sông Bắc Luân rộng
xuống phía Nam thuộc vùng biển đảo vịnh Bắc Bộ. Nhà
Thanh thừa nhận tất cả quần đảo Bạch Long Vĩ của
Pháp.
Trung
Quốc tráo trở chủ quyền đảo Bạch Long Vĩ.
Năm
1950, Hồ Chí Minh nhượng cho Quân đội Giải phóng Nhân
dân Hải Nam, một cách gián tiếp, đóng mặt biển trợ
chiến đất liền, Trung Quốc gửi quân đồn trú lên đảo.
Năm 1954, theo thỏa thuận "Geneva", Việt Nam đối
mặt với 17 độ bắc vĩ tuyến như là ranh giới. Thực
dân Pháp trong tháng 8 năm 1954 còn quản lý đảo Bạch
Long Vĩ có 475 người Việt Nam.
Đến
vào năm 1955, Quân đội Giải phóng nhân dân Trung Quốc
trở lại chiếm đóng đảo theo lời mời của Hồ Chí
Minh, và thành lập các cơ quan chính quyền trên đảo,
thuộc quản lý của hành chính Hải Nam tỉnh Quảng Đông.
Việt
Cộng-Trung Cộng cùng đồn trú trên đảo Bạch Long Vĩ.
Trong
cuộc chiến tranh Việt Nam, quân đội Bắc Việt tăng
cường phòng thủ cho Hải Phòng và Hà Nội. Hồ Chí Minh,
Chủ tịch Mao và Chu Ân Lai, đồng ý chuyển quân Trung
Cộng đến đảo Bạch Long Vĩ đồn trú và bao gồm cả
lãnh thổ Bắc Việt Nam, tại đảo xây dựng các giàn
radar, các vị trí phòng không, trạm thông tin liên lạc.
Sinh hoạt giống như quân đội Trung Quốc tại Đại lục
vào Việt Nam, binh sĩ Việt Nam có nhiệm vụ cải trang đảo
thành chiến lũy duy nhất trên lãnh hải. Tháng 3 năm 1957
Trung Quốc và Mỹ tránh đối đầu quân sự trực tiếp
trên đảo. Hồ Chí Minh thấy người anh cả rộng tay hào
phóng chi viện tối đa, tuyên bố: "đảo Bạch Long Vĩ
là một phần của Trung Quốc". Từ đó các tàu đánh
cá của ngư dân Việt Nam hoạt động ngoài khơi Vịnh Bắc
Bộ đều bị Trung Quốc cài vào cái tội đánh bắt cá
bất hợp pháp trong vùng biển. Những năm gần đây Trung
Quốc tăng cường hành vi, vi phạm quyền và lợi ích của
nhân dân Việt Nam ở Biển Đông. Hành động của Trung
Quốc không cần biết hợp lý hay không. Trung Quốc chưa
bao giờ xem trọng và trân trọng lãnh hải của lân bang.
Đàm
phán phân định Vịnh Bắc Bộ.
Tháng
12 năm 1973, khi chính phủ Bắc Việt Nam mong muốn thông
qua các khu vực thăm dò dầu khí, đầu tiên công ty dầu
khí của Ý trúng thầu tại Bắc Vịnh Bắc Bộ, Trung Quốc
nhạy cảm buộc phải ngưng lập tức các cuộc đấu thầu
và khai thác, với lý do trong vùng biển có tài khoản dầu
của Trung Quốc. Ngày 18 tháng 1 năm 1974, Việt Nam đề
nghị Trung Quốc tham dự đàm phán, một lần nữa chính
phủ Trung Quốc yêu cầu Việt Nam đình chỉ các cuộc đàm
phán với các nước thứ ba có công ty thăm dò dầu khí.
Ngày 15 tháng 8 năm 1974, Trung Quốc và Việt Nam tổ chức
vòng đàm phán đầu tiên tại Bắc Kinh.
Năm
1980 Việt Nam mở lại các cuộc đàm phán với phía Trung
Quốc. Việt Nam công nhận quyền đánh bắt cả của ngư
dân Trung Hoa vào hoạt động trong quần đảo Bạch Long Vĩ
sâu 15 hải lý.
Năm
1991, Trung Quốc và Việt Nam bình thường hóa quan hệ song
phương, được coi là cần thiết để giải quyết các
vấn đề biên giới, bao gồm cả vịnh Bắc Bộ, những
ngày đầu thành lập hội đồng đàm phán biên giới, cấp
cao của chính phủ bao gồm Ngoại giao, Quốc phòng, Thủy
sản, và ban lập bản đồ. Bắt đầu 3 cuộc đàm phán
phân định ranh giới lãnh hải tại Vịnh Bắc Bộ. Từ
năm 1992 đến năm 2000, hai bên đã tổ chức tổng cộng 7
cuộc đàm phán cấp cao đứng đầu Chính chính phủ gặp
nhau 3 lần, 18 cuộc họp nhóm công tác chung.
Ngày
25 tháng 12 năm 2000, Việt Nam đã ký "Hiệp định phân
định Vịnh Bắc Bộ" và ký "thỏa thuận hợp
tác Vịnh Bắc Bộ thủy sản". Sau ba năm đàm phán,
ngày 29 tháng 4 năm 2004, Trung Quốc và Việt Nam ký một
giao thức bổ sung tại Bắc Kinh về "thỏa thuận hợp
tác nghề cá". Theo thỏa thuận nghề cá, diện tích
hoạt động hơn 30.000 cây số vuông của khu vực đánh cá
chung xuyên qua biên giới, có nghĩa gồm cả trong thềm lục
địa của Việt Nam, trừ của biển và cửa sông trong
Vinh chưa ký kết khai thác. Thời hạng sau 15 năm, hai đội
ngư thuyền được phép nhập lại một (Trung Quốc ăn
sống ngư nghiệp VN). Ngoài các khu vực đánh bắt cá
chung tại phía Bắc Vịnh Bắc Bộ. Chuyển tiếp 4 năm,
sắp xếp lại các vùng nước đánh bắt cá, Trung Quốc
chủ động vẽ lại một đường xuyên biên giới biển,
có nghĩa được quyền đánh bắt cá tại cửa biển và
cửa sông của Việt Nam. (như đã thấy, ngày 19 tháng 6.
năm 2013 Trương Tấn Sang đã ký 10 hiệp ước tại Bắc
Kinh, bán trọn gói cửa biển-sông cho Trung Cộng.
Trung
Quốc cướp Bạch Long Vĩ.
Vịnh
Bắc Bộ chỉ có một đảo Bạch Long Vĩ không có hai:
Trung Quốc âm mưu tung hô đánh tráo, đặt cho một đảo
nhỏ có tên "Bạch Long Vĩ-kì nhất nghiễm tây phòng
thành cảng", và cho đó là đảo Bạch Long Vĩ nổi,
đảo này trước năm 1955 của Việt Nam, có đơn vị quân
đội Trung Hoa quốc gia chiếm đóng, năm (1955) chiến tranh
Việt Nam nổ ra, các đơn vị Quốc Dân Đảng rút đi. Năm
1957, chính phủ Trung Cộng chọn đảo này làm căn cư
duyên hải.
Đi
đêm bán Vịnh Bắc Bộ.
Vịnh
Bắc Bộ có diện tích khoảng 128.000 km², trong lịch sử
của Trung Quốc không có Vịnh Bắc Bộ. Trước thế kỷ
20, trong suốt những năm 1960, Trung Cộng và Việt Cộng
công bố chung bề rộng của Vịnh Bắc Bộ, thực chất
một hình thức bán lãnh hải, họ lập quyền tài phán
lãnh thổ của việc chia sẻ chung các nguồn tài nguyên
trong vùng Vịnh theo tinh thần "tình đồng chí và tình
anh em". Ngày 14/9/1958, Phạm Văn Đồng thừa nhận biển
của Trung Quốc. Vào năm 1957, năm 61 và năm 63 chính Hồ
Chí Minh ký kết 3 hiệp định về nghề cá xa bờ (6-12
dặm). Điều này có nghĩa rằng 6-12 hải lý biển, ngư
dân hai bên được tự do đánh bắt cá.
Kể
từ đầu những năm 1970, với sự phát triển của các hệ
thống hiện đại của luật biển, và Việt Nam chia các
vùng biển phía Bắc vịnh lãnh hải, vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa vấn đề được trình bày.
Theo mở để ký vào năm 1982, "Công ước Liên Hợp
Quốc về Luật Biển," có hiệu lực vào năm 1994 như
là cốt lõi của hệ thống hàng hải hiện đại, các
quốc gia ven biển có thể có chiều rộng 12 hải lý của
lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và tối
đa không quá 350 hải lý của thềm lục địa. Chủ quyền
đối với vùng lãnh hải của quốc gia ven biển, nhưng
các tàu của các nước khác có thể đi qua vô hại. Như
các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, các
quốc gia ven biển không có chủ quyền, nhưng được hưởng
các quyền chủ quyền độc quyền đối với thăm dò tài
nguyên thiên nhiên, phát triển, bảo tồn và quản lý các
thuộc tính của nó. Điều này có nghĩa rằng một quốc
gia không thể vào vùng đặc quyền kinh tế của nước đó
để câu cá, trừ khi có sự đồng ý của cả nước.
Vịnh Bắc Bộ là một vịnh hẹp, chiều rộng khoảng từ
110-180 dặm. Trung Quốc và Việt Nam là bên "UNCLOS"
trong. Theo "Công ước", hai chồng lên nhau ở tất
cả các vùng biển Vịnh Bắc vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa, phải được giải quyết thông qua các
ranh giới.
Tình
hình thực tế cũng cho thấy rằng trong quá khứ, sự vắng
mặt của một đường phân chia rõ ràng giữa khu vực
phía Bắc Vịnh, sự xuất hiện của các tranh chấp giữa
hai nước thường xuyên, làm mất ổn định tác động
của các mối quan hệ song phương. Vì vậy, hai nước đàm
phán về vịnh Bắc là cả hai bộ phận tất yếu của sự
phát triển hệ thống hàng hải quốc tế, mà còn là nhu
cầu thực tế của tình hình vùng Vịnh Bắc Bộ.
Phân
định biển của lợi ích quốc gia và tình cảm quốc
gia, chủ quyền liên quan, quyền chủ quyền và quyền tài
phán của một quốc gia, nó là vấn đề rất quan trọng
và phức tạp. Vịnh Bắc Bộ đàm phán phân định ranh
giới thông qua những nỗ lực của nhiều thế hệ, và
phải mất 27 năm, trong ba giai đoạn. Đầu tiên, vào năm
1974, thứ hai 1977-1978 và thứ ba 1992-2000. Bởi vì hai vị
trí đầu tiên của các bên tham gia đàm phán cho đến
nay, không có kết quả. Sau năm 1991, khi bình thường hóa
quan hệ song phương, hai bên tin tưởng rằng nó là cần
thiết để giải quyết các vấn đề biên giới, bao gồm
Vịnh Bắc Bộ, bao gồm cả việc thành lập ban đầu của
một cuộc đàm phán biên giới phái đoàn chính phủ bao
gồm các vấn đề đối ngoại, quốc phòng, thủy sản,
lập bản đồ, chính quyền địa phương và các cơ sở,
bắt đầu Vịnh Bắc Bộ ba cuộc đàm phán phân định
ranh giới. Kể từ năm 1992, khi năm 2000 lịch 9 năm, hai
bên đã tổ chức một cuộc đàm phán chính phủ bảy
cấp, người đứng đầu phái đoàn chính phủ gặp nhau
ba lần, 18 cuộc họp nhóm công tác chung và nhiều vòng
của cuộc họp nhóm chuyên gia, tổ chức vào ngày 5 trung
bình hàng năm khác nhau đàm phán hoặc đàm phán. Các cuộc
đàm phán, hai bên đã đồng ý trên nguyên tắc phân chia
ranh giới, cụ thể là: Theo luật pháp quốc tế và thực
hành, bao gồm các nguyên tắc và quy định của "Công
ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển" năm 1982, có
tính đến tình hình thực tế ở Vịnh Bắc Bộ, và phân
chia công bằng và bình đẳng của Vịnh Bắc. Hai nhà lãnh
đạo đã cho các cuộc đàm phán liên quan để thúc đẩy
sự tiến bộ của các cuộc đàm phán. Sau khi đàm phán
phức tạp một cách kiên nhẫn và các bộ trưởng Việt
Nam cuối cùng ngày 25 tháng 12 năm 2000 tại Bắc Kinh đã
ký kết các "Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ".
Tài
liệu "Bác" bán vùng đảo Bạch Long Vĩ trong Vịnh
Bắc Bộ, đàm phán tháng 7 năm 1952-1957 theo thỏa thuận
giá trị 10.000 năm, gọi là "Hiệp ước nhượng lãnh
hải và Vịnh Bắc Bộ Vạn Niên". Hồ sơ này còn cho
biết, ý của "Bác" mở ra hành trình mới cho dân
tộc Việt Nam hóa thân Bắc Hán. Tài liệu ảnh lưu:
Huỳnh Tâm.
Phơi
bày mọi sự thật của Việt Cộng.
Đã
từ lâu bành trướng ngắm nghía Vịnh Bắc Bộ bởi vị
trí chiến lược quan trọng về an ninh quốc phòng và kinh
tế, Vịnh Bắc Bộ còn cho nguồn tài nguyên thiên nhiên
phong phú v.v.... Trong khi đó Bộ trưởng Ngoại giao Việt
Nam Nguyễn Duy Niên đại diện cho đảng "Bác"
tuyên bố:
"Vịnh
Bắc Bộ chỉ có giá trị tài nguyên địa phương",
thay vì ông Niên nói bằng thực tế tài nguyên của quốc
gia. Ông nói tiếp "đảo Bạch Long Vĩ là một hòn đảo
nhỏ của Việt Nam có diện tích khoảng 2,5 km²", như
vậy tại Vịnh Bắc Bộ có bao nhiêu ngư dân sinh sống
trong một diện tích đảo quá hẹp, trong khi ấy phía
Trung Cộng tuyên bố có trên 30.700 hộ ngư dân người Hoa
sinh cư trên đảo Bạch Long Vĩ. Sau đó Trung Cộng thấy
bị hố đính chính lại chỉ có 1200 người Hoa, cho thấy
Việt Cộng-Trung Cộng đều bố láo. Và chính ông Bộ
trưởng Ngoại giao Việt Nam cho rằng "đảo Bạch Long
Vĩ có diện tích 2,5 km²", theo hồ sơ của Hiệp ước
Thiên Tân 1987, đo đạt thực địa của đảo Bạch Long
Vĩ có diện tích 10 km², thế thì 7,5 km² của đảo, đảng
Cộng sản Việt Nam đã di dời đảo lấp biển ở nơi
nào?
Nguyễn
Duy Niên còn tuyên bố: "Trung tâm đảo Bạch Long Vĩ
cách khoảng 110 km bờ biển của Việt Nam, bờ biển đảo
Hải Nam của Trung Quốc cách khoảng 130 km", thay vì
ông Niên phải tham khảo hồ sơ Pháp-Thanh để nắm con số
thực tế phía Việt Nam cách 91 km và phía Trung Quốc cách
135 km.
Vịnh
Bắc Bộ có giá trị và địa thế chiến lược an ninh
hàng đầu phòng thủ phía Bắc của Quốc gia. Những lời
tuyên bố của Nguyễn Duy Niên có nhiều âm mưu khó hiểu,
chỉ vì bán nước dùng mọi thủ đoạn lừa bịp nhân
dân. Nếu công bố đúng sự thật, ắt nhiên không thể
tránh né điểm yếu hồ sơ của Hồ Chí Minh đã bán cho
bành trướng 35% Vịnh Bắc Bộ, xóa mất đường ranh giới
biển của Hiệp ước Pháp-Thanh (Thiên Tân 1887). Chính kẻ
"Bác" mở cửa cho phép bành trướng nuôi hy vọng
và ý niệm to lớn ngó thẳng vào tiềm lực kinh tế Việt
Nam, đã bành trướng không thể ngồi yên trước một
miếng mồi Vịnh Bắc Bộ quá hấp dẫn, không may cho Việt
Nam đúng thời điểm kẻ trong, người ngoài, thân thuộc
một nhà với bành trướng quạt gió nổi cơn phong ba.
Việt Nam bị hệ lụy Cộng sản đẩy đưa cả dân tộc
vào đường hoạn nạn, tránh không khỏi nhưng lòng dân
có ý chí giữ nước hay không đó là điều quan trọng,
nếu người dân bất cần đất nước Việt ắt nhiên mai
một, như
các nước cựu chư hầu biến mất trong lịch sử Trung
Quốc.
Đảng
Cộng sản có bán nước hay không chỉ cần thảo luận
lời tuyên bố của Nguyễn Duy Niên, mọi sự kiện sẽ
được giải mã dưới tấm màn âm mưu phản quốc. Ví
dụ: Hai từ "thỏa thuận" thay vì "hiệp ước",
và "thương lượng" thay vì "đàm phán".
Lý do nào giữa hai quốc gia lại manh nha dùng từ "thỏa
thuận" khi ấy trong văn kiện có tính quốc gia, theo ý
nghĩa thuận chịu có tính cách gia đình và bạn bè trao
đổi, mua bán một vật nào đó, thỏa thuận phân chia sản
phẩm tùy theo giá trị của nó, cho nên hai từ "Hiệp
ước" có tính chính đáng của quốc tế bị loại
trừ không có chỗ đứng trong những văn kiện bán Vịnh
Bắc Bộ. Và hai từ "đàm phán" đảng "Bác"
cho thay vào đó hai từ "thương lượng", có nghĩa
khi nào cần Trung Cộng đề nghị thương lượng lại.
Ngày nay, đảng vẫn phải thực hiện theo chính sách của
Hồ Chí Minh đã định, tuân thủ quan hệ song phương hữu
nghị truyền thống giữa hai đảng Trung Cộng-Việt Cộng.
Rồi đảng sẽ tiếp tục thương lượng nhượng lãnh hải
vùng Vịnh Bắc Bộ và Biển Đông không thông qua 3 thủ
tục "Chủ quyền và quyền tài phán Vịnh Bắc Bộ",
"Tố tụng giải quyết tranh chấp" và thủ tục
công nhận pháp lý "Công ước Luật biển năm 1982 của
Liên Hợp Quốc".
Những
hóc búa trên của Chủ nghĩa Xã hội Việt Cộng làm tai
hại đến mất nước, trong những văn kiện từ xưa đến
nay đã ký với Trung Cộng không bao giờ đề cập đến
pháp lý của Công ước Luật biển năm 1982 của Liên Hợp
Quốc. Tuy nhiên khi có dịp đảng "Bác" lập tức
tuyên bố vung vãi từ ngữ nào cũng vỗ lớn tiếng, dân
quyền, nhân quyền, tự do báo chí, tự do thành lập hội,
tự do tín ngưỡng, bảo vệ tư hữu của nhân dân v.v...
những người quốc tế vừa đi qua Việt Nam "cưỡi
ngựa xem hoa", tưởng chừng quyền của người dân
còn rộng hơn những nước dân chủ Phương Tây, thế
nhưng về đêm thì sao, nó hiện ra quyền con người đen
tối hơn mõm chó, hãy đọc qua lời tuyên bố của Nguyễn
Duy Niên để thấy những điều đảng "Bác" thực
hiện cho dân tộc này! Còn quá nhiều vấn đề lợn cợn
khác mà Việt Cộng cố ý lờ vờ, gạt bỏ sự sống còn
của đất nước trước sự bàng quan Vịnh Bắc Bộ! Do
đó tại Bắc Kinh mỗi phút-giờ trong ngày không biết
xuất hiện cái gọi "Việt Cộng" từ bao giờ
trên báo chí truyền thông Trung Hoa loan truyền khắp cả
nước.
Nguyễn
Duy Niên đại diện cho đảng "Bác" thêm một lần
chạy tội, tuyên bố: "Vì ngư dân Việt Nam thường
bắt hải sản, thăm dò dầu khí làm mất ổn định quan
hệ song phương, cho nên có tranh chấp ảnh hưởng xấu
đến "tình đồng chí và tình anh em" giữa Việt
Nam-Trung Quốc và Ta muốn mở rộng phát triển bền vững
có hiệu quả không chi bằng hạn chế ngư dân Việt Nam
hoạt động trong vùng Vịnh Bắc Bộ".
Cho
thấy lời tuyên bố trên của Nguyễn Duy Niên, mới ngồi
vào bàn đàm phán đã đưa ra dấu hiệu đầu hàng, chưa
chi đảng "Bác" muốn đập nồi cơm của nhân
dân, đổi lấy "quan hệ song phương". Và cho rằng
"ký kết, thỏa thuận phân định Vịnh Bắc Bộ, củng
cố hòa bình và ổn định trong nước của chúng tôi...".
Đồng nghĩa Trung Cộng đứng ra làm bảo mẫu cho Việt
Cộng.
Đảng
"Bác" và bành trướng chỉ thị Nguyễn Duy Niên
sử dụng quả đấm cắt vùng Vịnh Bắc Bộ dâng cho Bắc
Kinh, thách thức cả dân tộc Việt Nam có hay biết điều
này không? Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Nguyễn
Duy Niên không ngần ngại tuyên bố lố lăng:
"−
Theo thỏa thuận này, Việt Nam được hưởng 53,23% tổng
diện tích của vịnh Bắc Bộ, Trung Quốc được hưởng
46,77%. Đó là một kết quả công bằng trong các cơ sở
pháp lý và hoàn cảnh cụ thể của Vịnh Bắc Bộ....".
Nói
chung, những học trò đời thứ mấy của đảng "Bác"
tuy có tráo trở vẫn không bằng "Bác" bởi Vịnh
Bắc Bộ mà "Bác" bán trước 35%, không cần hóa
đơn, cũng đã thể hiện "Môi hở răng lạnh",
nay Nguyễn Duy Niên thay mặt đảng công bố bán thêm
12,77%, nâng lên tổng số 46,77% cũng chỉ vì xem trọng
"quan hệ song phương....".
"Kỷ
yếu hội nghị bí mật Thành Đô 1990", mà Nguyễn Văn
Linh đã ký kết có 5 qui ước Việt Cộng phải tuân thủ
thực hiện:
1
- Xác định chủ quyền vùng đảo Bạch Long Vĩ và Vịnh
Bắc Bộ.
2
- Laoshan thuộc về lãnh thổ Trung Cộng.
3
- Xác định chủ quyền biên giới Trung-Việt từ đất
liền đến Biển Đông.
4
- Áp đặt luật pháp Trung Quốc vào Việt Nam.
5
- Kế hoạch đưa quân đội Trung Quốc vào Việt Nam.
Từ
đó Việt Cộng tiến hành mạnh mẽ, chuyển nhượng toàn
bộ vùng đảo Bạch Long Vĩ và Vịnh Bắc Bộ, lườn đáy
bành trướng là nơi tiếp nhận tài sản Việt Cộng gửi
vào. Cộng sản vững mạnh rộng quyền độc trị có súng
đạn, nhà tù, công an mọi hành động không cần thông
báo trước cho nhân dân đặng biết, hiện tại đã bán
nước mở rộng cửa gọi mời bành trướng tràn vào quản
lý lãnh hải Vịnh Bắc Bộ và Biển Đông, người dân cả
nước nào có ai hay! bởi mọi chi tiết bán nước nhà
nước công bố, đặc biệt tại bờ biển Vịnh Bắc Bộ,
cho đến nay người dân Việt Nam nếu có biết cũng lờ
mờ khó hiểu, và mấy ai đã được đọc 2 hiệp ước
sơ khởi "Thỏa thuận phân định mở rộng Vịnh Bắc
Bộ" và "Thỏa thuận hợp tác nghề đánh cá".
Trong khi đó nhân dân Trung Quốc từ trẻ đến già đầu
phải đọc thuộc lòng những thỏa thuận trên.
Dữ
liệu hình: Lục địa đảo Bạch Long Vĩ (Bailongwei)
một phần của Biển Đông, diện tích 9,96 km², núi rừng
rậm, bao phủ một quần thể đảo san hô. Nằm ở góc
phía tây Bắc Vịnh vị trí trung tâm, nằm giữa bờ biển
Hải Phòng Việt Nam cách 91km, cách đảo Hải Nam 135 km.
Năm 1950, trên bản đồ hàng hải Trung Quốc không có đảo
Bạch Long Vĩ. Năm 1957, Chính phủ Hồ Chí Minh bán vùng
đảo này cho Trung Quốc giá trị 10.000 năm. (1957 niên, Hồ
Chí Minh thị chánh phủ tương cai đảo mại cấp trung
quốc vạn niên). Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Đặc
biệt trong nội dung của "Thỏa thuận hợp tác nghề
cá", Việt Cộng cho Trung Cộng thuê bờ biển của
Việt Nam, lần đầu ký giá trị 12 năm, đến khi hết hạn
định, tự động đáo hạn lại 3 năm.....". Trên thế
giới chưa có quốc gia nào áp dụng pháp lý ngu ngơ, cho
quốc gia khác thuê bờ biển và ký hiệp ước tự động
đáo hạn theo luật Việt Cộng 3 năm!
Một
điều rất quan trọng khác chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải
của đất nước chưa được công bố trước quốc tế
và "Công ước về luật biển 1982 của Liên Hợp
Quốc", như các quốc gia khác đã thực hiện. Việt
Cộng không mặn mà với sức cạnh tranh chủ quyền, bởi
còn tiếp tục bán từng phần bờ biển cho Trung Cộng.
Trong
bài phát biểu của Nguyễn Duy Niên chỉ có mỗi câu kết
luận, đọc qua rất thu phục lòng dân: "Đồng thời,
đảng ta cần phải tuyên truyền, loan tải, phổ biến sâu
rộng về nội dung "Thỏa thuận phân định Vịnh Bắc
Bộ" và "Thỏa thuận hợp tác nghề cá", đến
cho các tầng lớp xã hội, từng người dân, từng cán bộ
trong ngoài đất nước cùng hiểu biết, đặc biệt những
địa phương giao tiếp ven biển phía Bắc và vùng Vịnh
Bắc Bộ, thực hiện đúng nghĩa vụ công dân tốt".
Thế
nhưng vì lý do gì không phổ biến những chuyện quốc gia
đại sự để nhân dân cùng chia sẻ với nhà nước, như
những sự kiện của "Bác" nhượng đất, nhượng
biển cho Trung Quốc đã 57 năm (1957-2014), những cuộc
chiến tranh biên giới Việt Nam-Trung Quốc đã trôi qua 35
năm (1979-2014), Việt Nam-Trung Quốc Hội nghị bí mật tại
Thành Đô 24 năm (1990-2014), Việt Nam-Trung Quốc phân định
lãnh hải, lãnh thổ 14 năm (2000-2014), gần đây nhất ngày
10 tháng 11 năm 2013, Trương Tấn Sang bí mật ký 10 hiệp
ước khai thác toàn diện. Tất cả sự kiện trên cho đến
nay người dân vẫn không hay biết đảng hoạt động kết
quả là bao ?
Người
dân trông chờ thể hiện tình yêu nước đã đến lúc
quá truyệt vọng, nhân dân lo ngại tình hình đất nước
buộc lòng phải lên tiếng "Chúng Tôi Muốn Biết",
và tiếp theo 61 đảng viên cao cấp, ký thư ngỏ vào ngày
2 tháng 9 năm 2014, đề nghị đảng cho biết về "Kỷ
yếu Thành Đô 1990" và họ đưa ra 5 điểm chính đáng
cần biết, cho đến nay nhà nước vẫn không trả lời.
Bây giờ biết tin ai?
Nhớ
lại trước năm 1975, ở miền Nam Việt Nam có cố tổng
thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu phát biểu: "Đừng tin
những gì cộng sản nói, hãy nhìn kỹ những gì cộng sản
làm".
___________________________________________
Bài
đã đăng:
Chú
thích:
[1]
(Bắc Bộ loan hoa giới hiệp định vi tăng gia Việt Nam
hòa Trung Quốc đích tương hỗ tín nhậm hòa xúc tiến
song phương đích toàn diện hợp tác quan hệ tác xuất
cống hiến).
[2]
(Việt Nam xã hội chủ nghĩa cộng hòa quốc hòa Trung Hoa
nhân dân cộng hòa quốc quan vu lưỡng quốc tại bắc bộ
loan lĩnh hải), (chuyên chúc kinh tể khu hòa đại lục giá
đích hoa giới hiệp định), (dĩ hạ giản xưng vi bắc bộ
loan hoa giới hiệp định) và (Bắc Bộ loan hoa giới hiệp
định).
[3]
(1957年,中国政府将该岛交给越南-1957
niên, trung quốc chánh phủ tương cai đảo giao cấp việt
nam).
No comments:
Post a Comment