Luật
sư Trần Hồng Phong
Chủ
Nhật, ngày 30 tháng 11 năm 2014
.
Bình
Luận Án: Liên quan đến vụ án Hồ Duy Hải bị
tuyên án tử hình về tội giết người tại bưu điện
Cầu Voi (huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An), theo lời mời
của gia đình phạm nhân, luật sư Trần Hồng Phong đã có
Đơn đề nghị giám đốc thẩm vụ án này.
.
(ảnh:
dấu sửa kích thước các con dao trong bản khai của nhân
chứng có thể nhìn thấy rất rõ).
.
Sau
đó, luật sư Trần Hồng Phong đã nhận được văn bản
trả lời của hai cơ quan có thẩm quyền kháng nghị giám
đốc thẩm là TANDTC và VKSNDTC. Nội dung đều ngắn gọn
là "đã xử đúng người, đúng tội" mà không
trả lời hay phản hồi về tất cả các vấn đề nêu
trong đơn. Hiện nay, gia đình Hồ Duy Hải vẫn đang miệt
mài gửi đơn kêu oan. Dưới đây là toàn văn đơn đề
nghị này.
.
Lưu
ý: Vì trong đơn có những hình ảnh cá nhân của nạn
nhân và có tính chất dã man nên chúng tôi không đăng
những hình ảnh này. Nội dung đơn rất dài. Ngoài đơn
này, trước đó tháng 4-11-2011 chị Nguyễn Thị Loan (mẹ
của Hồ Duy Hải) cũng có Đơn đề nghị giám đốc thẩm
cho con. Đơn này cũng do Văn phòng luật sư Trần Hồng
Phong hỗ trợ soạn thảo, nhưng nội dung chưa được đầy
đủ bằng lá đơn dưới đây (sau khi đã đi xác minh
thêm, trực tiếp gặp nhiều nhân chứng).
.
(Hình
: Đây là gầm cầu thang bưu điện Cầu Voi nơi phát hiện
xác hai nạn nhân)
.
----------------------
.
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
.
TP.
HCM, ngày 16 tháng 2 năm 2012
.
ĐƠN
ĐỀ NGHỊ
(V/v: Giám đốc thẩm Bản án phúc thẩm số 281/2009/HSPT
của Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại TP. HCM)
(V/v: Giám đốc thẩm Bản án phúc thẩm số 281/2009/HSPT
của Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại TP. HCM)
.
Kính
gửi:
VIỆN
TRƯỞNG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
CHÁNH ÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
CHÁNH ÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
.
Đồng
kính gửi:
VĂN
PHÒNG CHỦ TỊCH NƯỚC
ỦY BAN TƯ PHÁP QUỐC HỘI
ỦY BAN TƯ PHÁP QUỐC HỘI
.
Tôi
là luật sư TRẦN HỒNG PHONG, thành viên Đoàn luật sư
Tp. Hồ Chí Minh. Địa chỉ: 843 Lê Hồng Phong, P.12, Q.10,
TP.Hồ Chí Minh.
.
Là
người được gia đình phạm nhân Hồ Duy Hải - người
đã bị kết án tử hình về tội giết người và đang
có lời kêu oan trong suốt quá trình xét xử vụ án tới
nay, mời hỗ trợ pháp lý trong việc kêu oan cho phạm
nhân.
.
Sau
khi nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, trên tinh thần thận
trọng, tôn trọng sự thật khách quan, với mong muốn góp
phần bảo đảm sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật,
nay tôi có đơn này, kính đề nghị Quí cơ quan xem xét
lại theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án
phúc thẩm số 281/2009/HSPT của Tòa phúc thẩm TAND tối
cao tại TP. HCM. Vì các lý do sau:
.
-
Việc xét xử phiến diện, thiếu khách quan, bất chấp
kết quả giám định khoa học, bỏ qua tình tiết ngoại
phạm của bị cáo.
.
- Kết luận trong bản án không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án.
.
- Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, làm sai lệch hồ sơ vụ án.
.
- Áp dụng pháp luật không đúng, xét xử sai tội danh.
.
- Kết luận trong bản án không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án.
.
- Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, làm sai lệch hồ sơ vụ án.
.
- Áp dụng pháp luật không đúng, xét xử sai tội danh.
.
Trên
hết là có thể dẫn đến việc kết tội oan cho phạm
nhân Hồ Duy Hải, đồng thời bỏ lọt kẻ phạm tội
thực sự.
.
Cụ
thể như sau:
.
Tóm
tắt Bản án phúc thẩm:
.
Theo
bản án phúc thẩm, khoảng 19 giờ ngày 13-1-2008, Hải đi
xe mô tô của bà Rưỡi (dì ruột) đến bưu điện Cầu
Voi, vào bên trong ngồi nói chuyện với chị Hồng. Khoảng
20h30 Hải đưa tiền và kêu Vân đi mua trái cây. Khi chị
Vân đi, Hải nảy sinh ý định quan hệ sinh lý với Hồng,
nhưng bị chị Hồng phản ứng. Hải tức giận đánh vào
mặt, bóp cổ, lấy thớt đập vào mặt và đầu làm chị
Hồng bị ngất. Sau đó Hải lấy dao cắt vào cổ chị
Hồng.
Sau
đó, từ chân cầu thang, Hải thấy Vân đi mua trái cây
về, kéo cửa sắt xuống đóng cửa và đi vào. Khi Vân
vừa xuống phòng sau Hải dùng ghế đánh vào đầu làm
ngã xuống nền gạch. Sau đó Hải xốc nách Vân kéo đến
chỗ xác chị Hồng, đặt đầu Vân nằm trên bụng chị
Hồng và lấy dao inox cắt vào cổ chị Vân 2-3 cái.
Sau
đó, Hải ra phòng vệ sinh rửa tay, rửa dao, bỏ dao vào
sau tấm bảng, mở tủ lấy 1.400.000đ, sim card điện
thoại, điện thoại Nokia 1.100, tiếp tục xuống nơi xác
chị Hồng và chị Vân nằm lấy nữ trang của các nạn
nhân.
Sau
đó, Hải leo qua hàng rào ngăn giữa sân phía sau và sân
trước, lấy xe rồi chạy về nhà dì ruột tên Len, kêu
cửa mẹ ruột (chị Loan) mở cửa, cất nữ trang vào bịch
nilon rồi đi ngủ.
.
Tại
bản án nhận định như sau:
.
“Mặc
dù qua điều tra không thu giữ được thớt tròn, dao thái
lan - song những cung khai của bị cáo đều trùng khớp với
bản ảnh hiện trường có con gấu nhồi bông, bịch trái
cây, tấm nệm… có thớt tròn bằng gỗ, có ghế inox, có
việc bị cáo đốt quần áo…
Các
nhân chứng Hùng, Thu, Ngọc, Vàng khi khám nghiệm thu con
dao thái lan không dính máu phù hợp với cung khai của bị
cáo rằng sau khi gây án đã rửa sạch dao.
Những
cung khai và bản tự khai của bị cáo còn phù hợp với
các biên bản nhận dạng về hung khí, về các tài sản
đã chiếm đoạt của các nạn nhân, về các địa điểm
mà bị cáo đã đến sau khi gây án.
Tại
phiên tòa sơ thẩm bị cáo thừa nhận chính là thủ phạm
giết chết Hồng và Vân, ngay cả bản tự khai, các bản
cung có Luật sư, có đại diện VKS tham gia bị cáo đều
xác định và mô tả tỉ mỉ hành vi giết người của bị
cáo.
Toàn
bộ chứng cứ có đủ căn cứ xác định Hải là người
đã giết chết chị Hồng và chị Vân”.
.
Qua
bản án trên, chúng tôi xin trình bày như sau:
.
Phần
I. Xét xử bỏ qua nhiều chứng cứ ngoại phạm của Hồ
Duy Hải
.
I.
Dấu vân tay thu giữ tại hiện trường không phải là của
Hồ Duy Hải:
.
Theo
Cáo trạng, hung thủ (Hải) khi giết hai nạn nhân đã thực
hiện hàng loạt động tác bằng tay như: bóp cổ, kéo
xác, dùng dao, thớt, ghế đập đầu, cắt cổ hai nạn
nhân. Tại Biên bản khám nghiệm hiện trường ghi nhận:
“trên kính (cửa vào buồng ngủ) có dấu vết đường
vân”, “ở mặt trong của kính trên cánh cửa (buồng vệ
sinh) có 1 số dấu vết đường vân”, “trên labo rửa
có 1 số dấu vết đường vân”. Những vết vân tay này
đều đã được thu giữ.
Như
vậy, dấu vân tay tại hiện trường chắc chắn phải là
của hung thủ. Không thể khác được.
Thế
nhưng, theo kết quả giám định (Bản kết luận giám định
số 158/KL-PC21 ngày 11-4-2008) thì: “các dấu vết vân tay
thu được tại hiện trường vụ án không phát hiện
trùng với điểm chỉ 10 ngón in trên bản chỉ của Hồ
Duy Hải”.
.
(Hình)
.
Khoa
học đã khẳng định và tới nay chưa thể bác bỏ - mỗi
người chỉ có dấu vân tay duy nhất, không trùng khớp
với ai. Như vậy, đây là chứng cứ ngoại phạm quan
trọng và rõ ràng nhất, đủ cơ sở khoa học chứng minh
Hải không thể là thủ phạm đã giết hai nạn nhân.
Thế
mà trong bản án sơ thẩm đã nhận định về vấn đề
này như sau: “Vết máu thu được tại hiện trường tuy
giám định không phải là của bị cáo. Song các thiếu
sót trên không lớn. Đặc biệt là vết máu thu không đủ
lượng, thời gian để kéo dài nên không xác định được
vết vân tay cũng như mẫu tóc ngắn bị gãy không giám
định được là đương nhiên”.
Thực
tế, không phải là “máu không đủ lượng” hay “không
giám định được”, cơ quan giám định không hề nói
như vậy mà đã giám định được và kết luận dấu vân
tay không phải của Hải. Hay nói cách khác, việc các cấp
tòa bất chấp và bác bỏ chứng cứ khoa học về dấu
vân tay bằng một lý lẽ phản khoa học và vô lý như vậy
là không thể chấp nhận, vi phạm nghiêm trọng qui định
của pháp luật tố tụng hình sự. Bỏ lọt chứng cứ
ngoại phạm quan trọng nhất của Hồ Duy Hải.
Một
câu hỏi không thể không đặt ra là: dấu vân tay tại
hiện trường là của ai? Vì sao trong hồ sơ vụ án không
có kết quả giám định vân tay của những đối tượng
có quan hệ tình cảm và có khả năng có mặt tại bưu
điện Cầu Voi tối 13-1-2008 như Nguyễn Văn Nghị, Nguyễn
Mi Sol?
Chưa
kể cơ quan điều tra cũng đã trưng cầu giám định nhiều
dấu vết/tang vật khác như máu, tóc, tro. Toàn bộ các
kết quả giám định đều không có chỉ dấu liên quan
đến Hải.
.
II.
Hồ Duy Hải không thể có mặt tại bưu điện Cầu Voi
vào “khoảng 19h30”:
.
Theo
Cáo trạng, Hải có mặt tại bưu điện Cầu Voi lúc
“khoảng 19h30” tối 13-1-2008. Có “nhân chứng Đinh Vũ
Thường thấy Hải ngồi trong Bưu điện lúc 19 giờ 39
phút 22 giây”.
Trong
Cáo trạng không nhắc tới việc anh Hồ Văn Bình, cũng là
người đã nhìn thấy một “người thanh niên” tại bưu
điện tối 13-1-2008.
.
Trong
hồ sơ vụ án thể hiện như sau:
.
-
Lời khai của anh Hồ Văn Bình (BB ghi lời khai ngày
28-1-2008): “Ngày 13-1-2008 tôi gửi xe ở Cầu Voi, lúc này
trong bưu cục đã mở đèn sáng, thời gian lúc đó đã
hơn 19h vì ở nhà đi đã ngoài 19h00. Tôi nhìn vào phòng
khách, ngay bàn salon thấy có một thanh niên ngồi trên ghế
nói chuyện với Hồng. Tôi đi qua nhà anh Mẫn, rồi quay
lại mất độ 10 phút, lúc đó độ khoảng ngoài 19h30 tôi
đến bưu cục lấy xe vẫn thấy Hồng và thanh niên trên
còn ngồi nói chuyện”.
-
Anh Đinh Vũ Thường (BB ghi lời khai ngày 31-3-2008): “Tôi
ghé vào Bưu điện Cầu Voi gọi điện thoại khoảng 20
giờ đổ lại. Tôi đi vào trong ngay cửa thì thấy 1 người
nữ ngồi phía ngoài, một thanh niên ngồi giữa trên ghế
salon ”.
Với
tình tiết như trên, chúng tôi cho rằng:
.
1.
Hải không đủ thời gian để có mặt tại bưu điện lúc
“khoảng 19h30”, vì:
Anh
Bình là người đã đến bưu điện trước, lúc này anh
Thường chưa đến. Sau khi anh Bình qua nhà anh Mẫn “độ
10 phút” quay lại, anh Thường vẫn chưa đến. Vì hai anh
Bình và Thường không gặp nhau, đều chỉ thấy có 1
chiếc xe (của người thanh niên) dựng trước cửa, phía
bên phải.
Anh
Thường đã có cuộc gọi từ máy của bưu điện lúc
19h39. Như vậy, anh Thường phải đến bưu điện sớm hơn
ít nhất 1 phút (để dựng xe, đi vào bên trong và gọi
điện thoại). Tức lúc 19h38. Trước đó anh Bình đã đến
gửi xe, rồi sau đó quay lại lấy xe của mình ra về. Như
vậy, anh Bình phải rời khỏi bưu điện trễ nhất lúc
19h37 phút (với giả sử ngay sau khi anh Bình ra khỏi cổng
là anh Thường vào). Trước đó khoảng 10 phút, anh Bình
đã thấy “người thanh niên” ngồi trong bưu điện –
lúc này là 19h27 phút.
Với
tình tiết như vậy, Hải phải có mặt tại bưu cục trễ
nhất vào lúc 19h26 phút (có 1 phút để dựng xe, cởi áo
khoác, vào bên trong ngồi xuống ghế nói chuyện với
Hồng) và anh Bình nhìn thấy.
Trong
khi đó, lúc 19h13 phút Hải còn đang nghe điện thoại của
anh Đang ở tiệm cầm đồ cách bưu điện 7,5km. Như vậy,
thời gian “còn lại” để Hải đi từ tiệm cầm đồ
đến bưu điện là 13 phút. (Từ 19h13 đến 19h26)
Theo
Cáo trạng, Hải chạy xe với vận tốc khoảng 40km/h, có
khoảng 15 phút để đi từ tiệm cầm đồ đến bưu điện
trên quãng đường 7,5km. Và cơ quan điều tra đã “kiểm
tra thực tế” vào ngày 14-7-2008.
Kết
luận trên thoạt nghe có vẻ hợp lý. Nhưng nếu đối
chiếu kỹ với chính kết quả điều tra có trong hồ sơ,
có thể khẳng định Hải không thể nào thực hiện được
hành trình như vậy trong khoảng thời gian 13 phút. Vì
trong 13 phút đó, Hải đang trong trạng thái tâm lý bình
thường, không có gì gấp gáp và còn phải trải qua/thực
hiện ít nhất 3 việc sau:
.
1.Làm
thủ tục cầm đồ, nhận tiền: Lời khai của bà Nguyễn
Thị Tuyết Trinh (chủ tiệm cầm đồ) (BL 275, 276): “Theo
quy trình cầm điện thoại di động, tôi lấy điện thoại
di động của người cầm gọi vào máy điện thoại bàn
nhà tôi kiểm tra xem có hoạt động không (chỉ nhá máy).
Sau đó tôi lấy điện thoại bàn của tôi gọi lại vào
máy di động của khách”. Như vậy, sau khi Hải nhận
điện thoại của Đang, còn phải đợi bà Trinh gọi điện
kiểm tra máy 2 lần. Rồi gói điện thoại vào bao, viết
phiếu cầm đồ, đếm/giao tiền. Quy trình này phải mất
ít nhất 5 phút.
2.Về
nhà đổi xe khác: đoạn đường từ đường lộ vào nhà
Hải dài khoảng 350m, đường bờ ruộng nhấp nhô và
không có đèn. Từ ngoài đường vào trong sân nhà khoảng
30m nữa. Hải sẽ phải vào nhà dựng chiếc xe đang chạy,
rồi lấy chiếc xe khác và quay ra. Giả sử Hải không làm
bất kỳ việc nào khác mà đi ngay, thì thời gian này ít
nhất cũng là 2 phút.
3.Đến
quán cà phê Thanh đón anh Đang, đưa tiền. Sau đó tiếp
tục chở Đang qua quán cà phê Hai Thượng, thả Đang
xuống: dừng và khởi động xe 2 lần, đưa tiền cho Đang,
Đang vào quán trả tiền, đi ra rồi chở đi: ít nhất 2
phút.
.
Tổng
thời gian cho 3 việc trên ít nhất là 9 phút. Như vậy Hải
sẽ chỉ có khoảng 4 phút còn lại – thời gian này quá
nhỏ và chắc chắn không đủ để Hải chạy một quãng
đường trên 7,5km, trong hoàn cảnh trời tối, nhiều đoạn
không có đèn đường, đường xấu, rất nhiều ngã rẽ,
qua cầu… (chưa kể đây là chiếc xe TQ, đã hỏng bộ
phận đề máy) để đến bưu điện lúc “khoảng 19h30”
được.
.
2.“Người
thanh niên” có phải là Hồ Duy Hải?
Cáo
trạng cho rằng “người thanh niên” mà hai nhân chứng
Bình và Thường thấy tại bưu điện Cầu Voi là Hồ Duy
Hải. Điều này chỉ là suy luận chủ quan và không đúng
sự thật.
Nhân
chứng Đinh Vũ Thường không hề “thấy bị can Hải”
tại bưu điện Cầu Voi:
Việc
trong Cáo trạng kết luận nhân chứng Thường đã “thấy
bị can Hải tại bưu điện Cầu Voi” cũng hoàn toàn là
suy đoán chủ quan, không đúng sự thật.
Trong
các bản khai, cả hai anh (Thường và Bình) chưa bao giờ
nói đã nhìn thấy Hải mà chỉ thấy thấp thoáng “một
thanh niên” bên trong bưu điện - tầm nhìn bị ngăn cách
qua một lớp kính, khoảng cách xa (6-12m), điều kiện ánh
sáng ban đêm.
Cơ
quan điều tra cũng chưa từng cho anh Thường nhận dạng
Hải và/hoặc anh Thường không thể nhận dạng được
Hải.
Ngày
7-12-2011 vừa qua, chúng tôi đã trực tiếp gặp anh Thường.
Anh Thường khẳng định mình không thể nhận diện “người
thanh niên” được. Việc Cáo Trạng ghi anh đã “nhìn
thấy Hải” là sai sự thật.
.
3.Chưa
đủ cơ sở để kết luận về chiếc xe Hải đi tối
ngày 13-1-2008:
Theo
Cáo Trạng, tối 13-1-2008, Hải đã sử dụng 2 chiếc xe
gắn máy, ban đầu là xe Wave 62F4-3040 của bà Nguyễn Thị
Len (dì ruột). Sau khi cầm đồ, Hải về nhà đổi chiếc
xe kiểu Dream cao TQ, màu nho của bà Nguyễn Thị Rưỡi (dì
ruột) dựng sẵn trước sân nhà, chạy đến bưu điện
và gây án.
Tuy
nhiên, trong hồ sơ vụ án thể hiện nhiều điểm phi lý,
mâu thuẫn và không phù hợp với thực tế. Cụ thể như
sau:
.
i.Hải
đã đi một chiếc xe có 3 biển số khác nhau?
Cáo
trạng và Bản án xác định Hải sử dụng xe biển số
62F6 – 0842 của bà Rưỡi khi đến bưu điện. Nhưng khi
ra về thì chiếc xe có biển số khác: 62F5-0842(?). Còn
trong “BB nhận dạng” của anh Đinh Vũ Thường ngày
31-3-2008, thì ghi nhận anh Thường đã nhận dạng được
chiếc xe có biển số khác nữa là 62H5-0842.
Như vậy thực sự Hải đã đi chiếc xe nào? Anh Thường nhận dạng chiếc xe nào? Cơ sở nào để nói 3 biển số khác nhau này là một chiếc xe?
Như vậy thực sự Hải đã đi chiếc xe nào? Anh Thường nhận dạng chiếc xe nào? Cơ sở nào để nói 3 biển số khác nhau này là một chiếc xe?
.
ii.Anh
Đinh Vũ Thường không hề và cũng không thể nhận dạng
được chiếc xe của bà Rưỡi:
Việc
trong Biên bản nhận dạng ghi anh Thường đã nhận dạng
ra “chiếc xe 62H5-0842 đã cũ là chiếc xe giống chiếc xe
anh Thường đã thấy tại bưu cục Cầu Voi” – và cơ
quan điều tra cho rằng đó chính là chiếc xe 62F5-0842 của
bà Rưỡi, Hải đã sử dụng tối 13-1-2008 là vô lý. Vì:
-
Quá trình nhận dạng không khách quan: điều kiện khi nhận
dạng là ban ngày (9h sáng), trong khi thực tế anh Thường
nhìn thấy chiếc xe tại bưu điện là khoảng 19h39 (trời
tối, ánh sáng đèn yếu). Việc nhận dạng không có người
chứng kiến theo qui định.
-
Trong “Biên bản ghi lời khai” lúc 7h30 ngày 31-3-2008, anh
Thường khai thấy “chiếc xe Dream màu nho đã cũ” nhưng
“tôi không nhìn thấy 1 con số nào hết”. Kèm bản khai
này là một sơ đồ khu vực do chính anh Thường vẽ, ghi
rõ “không nhình thấy biển số”. Thậm chí anh Thường
còn khai “không để ý xe có bửng và kính chiếu hậu
phải hay không”, “không để ý trên xe có để đồ vật
gì không”. Như vậy, không thể có việc chỉ khoảng hơn
một giờ đồng hồ sau, anh Thường lại có thể nhận
diện chính xác chiếc xe có biển số 62H5-0842 được.
Ngày
7-12-2011 vừa qua, chúng tôi đã trực tiếp gặp anh Thường
và đưa cho anh Thường xem “Biên bản nhận dạng ngày
31-3-2008. Anh Thường khẳng định mình không hề khai và
cũng không hề nhận dạng ra biển số xe 62H5-0840 - như
trong Biên bản đã ghi thêm vào (sẽ nói ở phần sau).
.
iii.Cơ
quan điều tra cố tình làm sai lệch hồ sơ trong việc
nhận dạng chiếc xe:
Trong
hồ sơ còn cho thấy dấu hiệu điều tra viên đã sửa
chữa, ghi thêm vào những tình tiết về số xe và việc
nhận dạng. Cụ thể:
-
Trong Biên bản ghi lời khai của anh Thường ngày 31-3-2008
ghi thêm câu “tôi nghĩ sẽ nhận dạng được”. Sau câu
“tôi không nhìn thấy một con số nào hết”.
-
Trong Biên bản nhận dạng ngày 31-3-2008, tại trang 2, ghi
thêm câu “biển số H5-0842”.
Qua
dấu hiệu sửa chữa như trên, đã thể hiện một sự cố
ý từ phía cơ quan điều tra, nhằm chứng minh rằng anh
Thường đã nhận dạng ra chiếc xe mà Hải đi gây án tối
13-1-2008. Tuy nhiên, chính sự sửa chữa này đã thể hiện
rõ ràng dấu hiệu làm sai lệch hồ sơ vụ án.
.
iv.Khả
năng Hải sử dụng chiếc xe của bà Rưỡi vào tối
13-1-2008 là thấp:
Theo
Cáo trạng, sau khi gây án, “Hải lấy xe 62F5-0842 chạy
về, đưa xe vào nhà dì ruột Nguyễn Thị Len cất”, sau
đó “kêu cửa mẹ ruột Nguyễn Thị Loan để vào nhà
mình tắm, giặt quần áo”. Như vậy, chiếc xe 62F5-0842
suốt đêm 13-1-2008 không có ở nhà bà Rưỡi và bà Rưỡi
không sử dụng. Điều này là vô lý vì:
Lời
khai của tất cả các thành viên trong đại gia đình Hải
cho thấy thường ngày Hải hay đi chiếc xe Ware màu đỏ
của dì ruột là bà Len. Vì nhà bà Len sát vách nhà Hải.
Ngay sau khi bị bắt, tại “Bảng tường trình” ngày
21-3-2008 Hải khai “tôi đi bằng xe 62K8-3040”, tại “Biên
bản ghi lời khai” ngày 21-3-2008 Hải cũng khai “Tôi chạy
xe honda Wave S màu đen, biển số 62K8-3040 đến bưu điện
Cầu Voi” - chính là chiếc xe của bà Loan. Sau đó Hải
thay đổi lời khai, tại “Biên bản lấy lời khai” ngày
22-3-2008 khai Hải sau khi ở tiệm cầm đồ quay về nhà và
thấy xe của bà Rưỡi để trước nhà, Hải lấy xe này
đến bưu cục, “sau khi gây án đem về cất ở nhà luôn,
sáng hôm sau dượng Ba (chồng bà Rưỡi) lại lấy”
Trên
thực tế, nhà bà Rưỡi không ở ngay cạnh nhà Hải và
nhà bà Len như trong Cáo Trạng ghi nhận. Hàng ngày, ông
Nguyễn Văn Thu (chồng bà Rưỡi) sử dụng chiếc xe này.
Chiếc xe cũng có thể được bà Rưỡi sử dụng đi đến
thăm mẹ (nhà sát vách nhà Hải). Nhưng nếu bà Rưỡi có
dựng ở sân nhà Hải thì cũng chỉ vào ban ngày hoặc vào
chập tối. Còn buổi tối bà Rưởi/hoặc chồng bà Rưỡi
đều lấy xe 62F5-0842 để về nhà mình. Vì bà Rưỡi
không ngủ đêm tại nhà mẹ.
Như
vậy, bất luận là khoảng 19h ngày 13-1-2008, bà Rưỡi có
để xe của mình ở sân nhà Hải hay không thì tối đó,
bà Rưỡi cũng phải lấy xe của mình để về nhà. Trong
khi đó, theo Cáo Trạng ghi nhận rằng tối đó khoảng 23h
đêm, Hải về nhà không thấy ai (tức là bà Rưỡi đã
về nhà mình) và dắt xe của bà Rưỡi vào nhà bà Len là
điều vô lý. Liên quan đến việc này, mới đây bà Rưỡi
đã có Bản trình bày (ghi ngày 10-1-2012) khẳng định sáng
14-1-2008, bà đã sử dụng chiếc xe 62F5-0842 của mình để
đi chợ.
Qua
những tình tiết trên, chúng tôi cho rằng khả năng Hải
đã đi chiếc xe 62F5-0842 của bà Rưỡi vào tối 13-1-2008
là thấp. Chưa kể tình tiết Hải đi cầm đồ xong “tự
nhiên” quay về nhà đổi xe - từ chiếc Wave lùn thành
chiếc Deam cao - cũng là bất thường, không có căn cứ
xác đáng.
.
4.Mâu
thuẫn trong kết luận về chiếc áo Hải mặc tối
13-1-2008:
Theo
Cáo trạng, tối 13-1-2008 “lúc đi Hải mặc áo thun màu
xanh, trên ngực có hàng chữ màu trắng”. Hải cũng có
nhiều lời khai xác định chiếc áo có chữ màu trắng.
Cụ thể: Bản khai ngày 25-3-2008 “ áo xanh màu lá đậm,
có sọc trắng trước áo và chữ tiếng Anh”. Biên bản
hỏi cung bị can ngày 4-9-2008 (BL 504): “ khi đi tôi mặc
áo thun xanh, ngực có chữ màu trắng”.
Tuy
nhiên, anh Đinh Vũ Thường – tại “Biên bản ghi lời
khai” ngày 31-3-2008 khai thấy người thanh niên “mặc áo
thun ngắn tay màu xám đen, hoặc xanh đen có sọc trắng
xen kẽ”.
Như
vậy, có sự khác biệt về màu sắc và kiểu “sọc
trắng xen kẽ” tức là nhiều sọc chứ không phải 1 sọc
và cũng không có hàng chữ màu trắng. Khác biệt này đã
không được làm rõ vì anh Thường không được triệu
tập tham dự phiên tòa với tư cách là nhân chứng.
.
Phần
II. Khả năng Hải có mặt tại bưu điện Cầu Voi tối
13-1-2011 là rất thấp
.
I.
Hồng đã có cuộc hẹn với Misol tối 13-1-2011 và nhân
chứng Hiếu khẳng định MiSol có về bưu điện Cầu Voi
tối 13-1-2008:
Qua
Cáo trạng mô tả như: Hải nói chuyện với Hồng khá
lâu, hai người đùa giỡn rồi Hải kéo Hồng vào phòng
ngủ đòi quan hệ tình dục… - cho thấy giữa hai người
phải có mối quan hệ rất thân tình, tương đối lâu dài
và công khai. Thế nhưng, thực tế không có bất kỳ chi
tiết nào cho thấy giữa Hải và hai nạn nhân có mối
quan hệ vượt trên bình thường. Tại thời điểm xảy
ra vụ án, những người bạn thân nhất của hai nạn nhân
đều khẳng định Hồng đang có quan hệ tình cảm với 2
người là Nguyễn Văn Nghị và Nguyễn Misol, không hề
biết hay thấy Hải bao giờ.
Quan
hệ tình cảm giữa Hồng - Sol là sâu đậm. Hồng đeo
trên tay nhẫn cưới do Sol tặng, hai người đang sống
“như vợ chồng”. Hàng tuần Sol thường xuyên từ
TP.HCM về thăm Hồng và mỗi lần như vậy đều ngủ lại
ngay tại bưu điện. Tại “BB ghi lời khai” ngày
21-6-2008 (BL 209,210) ông Sol khai: “Sau khi lên TP.HCM thì tôi
cũng thường xuyên về bưu điện sống chung như vợ chồng
với Hồng. Trung bình cứ 1 tuần lễ thì về 1 ngày. Thời
gian gần nhất trước khi Hồng Vân bị giết, về bưu
điện vào ngày thứ tư 9-1 đến sáng thứ năm 10-1 tôi
mới đi TP.HCM làm tiếp”.
Đặc
biệt trong hồ sơ thể hiện thông tin cho thấy ngay tối
13-1-2008 Misol có cuộc hẹn với Hồng tại bưu điện Cầu
Voi. Cụ thể:
Tại
“BB ghi lời khai” ngày 19-1-2008 (BL 197) chị Hiếu khai:
“Tôi nghe chị Vân: hai đứa gái không đường xe cộ
không mà đi làm gì. Chiều anh Sol về chứ gì phải đi”.
Ngày
25-11-2011, chúng tôi có trực tiếp gặp chị Hiếu - bạn
thân của hai nạn nhân và là người thường xuyên đến
chơi, ngủ lại tại bưu điện Cầu Voi. Chị Hiếu khẳng
định trước giờ chưa bao giờ nghe Hồng, Vân nhắc đến
Hải, và cũng chưa bao giờ gặp Hải tại bưu cục Cầu
Voi. Trong khi nhiều lần gặp Sol, Nghị. Chị Hiếu cũng
cho biết trong buổi chiều ngày 13-1-2008, chính chị có
thấy Hồng nói chuyện điện thoại di động với Sol 2
lần và khẳng định chắc chắn tối hôm đó Sol sẽ về
Cầu Voi. Vì tới lúc 17 giờ chiều, không hề nghe nói Sol
không về.
Trong
bối cảnh như vậy, liệu có thể có khả năng Hải đã
đến chơi tại bưu điện đến 21h, sau đó giết hại nạn
nhân?
Hơn
nữa, qua những thông tin trên, chúng tôi cảm thấy hết
sức bất thường khi trong hồ sơ vụ án không hề có bất
kỳ bản hỏi cung nào đối với ông Sol về việc chiều
tối ngày 13-1-2011 Sol đã ở đâu?
.
II.
Nạn nhân Vân không thể đóng hai lớp cửa bưu điện,
tạo ra khung cảnh hoàn toàn cách ly với bên ngoài nếu
bên ngoài sân đang có chiếc xe honda và bên trong đang có
khách:
Theo
Cáo trạng, sau khi đi mua trái cây về lúc khoảng 21h, Vân
đã đóng hai lớp cửa (cửa sắt cuốn rồi tới lớp cửa
kính) rồi đi vào trong nhà. Trong khi Cổng bưu điện bên
ngoài không khóa (hoặc nếu khóa thì lại càng vô lý –
vì Hải sẽ không thể dắt chiếc xe gắn máy ra ngoài sau
khi gây án).
Tình
tiết Vân đóng cửa cho thấy có khả năng lúc này không
còn chiếc xe Honda nào ở bên ngoài sân. Và giả sử chiếc
xe là của “người thanh niên” ngồi chơi trước đó,
thì nhiều khả năng người này đã ra về.
Vì
lúc đó nếu trong bưu điện thực sự đang có khách (là
Hải), lại đang dựng chiếc xe Honda ở ngoài sân, giáp
ngay mặt đường quốc lộ - thì việc đóng kín cửa như
vậy sẽ làm cho bên trong nhà hoàn toàn bị cách ly, không
thể nhìn thấy bên ngoài, không theo dõi quản lý được
chiếc xe Honda (không an toàn, bị kẻ gian lấy cắp xe).
Chưa
kể nếu đang có khách, mà khách đang ngồi chơi, sẽ
không ngủ đêm lại, thì rõ ràng việc Vân đóng cả 2
lớp cửa tạo nên bối cảnh bịt bùng, nội bất xuất
ngoại bất nhập như vậy là hoàn toàn không hợp lý.
Chưa kể là nếu Vân đi mua trái cây về, nếu thấy khung
cảnh vắng vẻ (lúc này Hải đã giết Hồng phía sau) thì
lại càng ít có khả năng đóng hai lớp cửa như vậy.
Tuy
nhiên, tình tiết này cho thấy sau khi Vân đóng cửa, nếu
bên trong bưu điện vẫn còn ai đó thì người này chắc
chắn phải là người rất thân thiết với hai nạn nhân
và hầu như chắc chắn người này sẽ ngủ qua đêm tại
bưu điện. Người này không thể là Hải.
.
Phần
III. Nghi vấn về thời gian chết của hai nạn nhân
.
Theo
kết quả giám định pháp y, xác định hai nạn nhân chết
do vết cắt trên cổ gây choáng chấn thương và mất máu
cấp. Trong dạ dày Hồng “có thức ăn đã nhuyễn, lượng
ít”.
Tại
BB ghi lời khai của chị Hiếu (Bl 197, 198) “ tôi và chị
Hồng đi nấu cơm ăn, khoảng 12g cùng dọn lên ăn, xong
rửa chén tôi và chị Hồng vào buồng ngủ còn chị Vân
thì thức. Ngủ tới gần 17g dậy rửa mặt xong về nhà”.
Tại
BB khám nghiệm hiện trường ghi nhận “phía trong sát với
đùi phải Hồng có một bàn bếp, trên bàn có ly, tô, dĩa
đã sử dụng nhưng chưa rửa”. (Đáng tiếc là không thể
hiện rõ có bao nhiêu chiếc ly, bao nhiêu tô, dĩa – để
có thể xác định số người ăn).
Các
tình tiết trên cho thấy hai nạn nhân (hoặc ít nhất là
Hồng) đã ăn tối trước khi chết. Vì lúc 17h chiều, khi
chị Hiếu ra về thì chén bát đã rửa.
Việc
Cáo trạng kết luận hai nạn nhân bị giết vào khoảng
từ 20h30 đến 21h tối 13-1-2008, mà không xem xét về mặt
khoa học là không hợp lý. Về thời điểm chết của hai
nạn nhân có 2 nghi vấn.
.
I.
Máu không thể chưa đông/ khô sau hơn 13 giờ kể từ thời
điểm chết:
Việc
khám nghiệm hiện trường được tiến hành từ 8h30-
13h30 ngày 14-1-2008, sau thời điểm kết luận chết khoảng
13 giờ. Qua các tấm ảnh, thể hiện xác hai nạn nhân
được đặt trên tấm vải màu trắng. Trên thân thể
Hồng máu có màu đỏ tươi, vẫn còn chảy ra và thấm
vào tấm vải lót. Trong BB khám nghiệm hiện trường ghi
nhận “trên sàn nhà nơi hai nạn nhân nằm có vũng máu
đọng chưa khô hoàn toàn”.
Theo
khoa học pháp y (Giáo trình Pháp y học – ĐH Y Dược TP.
HCM), khi chết, “máu không còn lưu thông trong hệ tuần
hoàn, ứ lại trong các lòng mạch tại các vùng thấp so
với tư thế của tử thi và hình thành các mảng màu hoen
đỏ tím nhạt gọi là vết hoen tử thi. Sau khi chết
khoảng 20 phút, vết hoen bắt đầu xuất hiện. Sau khi
chết khoảng 6 giờ vết hoen phát triển hoàn toàn chiếm
toàn bộ vùng thấp”.
Như
vậy, nếu thực sự hai nạn nhân đã chết vào khoảng
20h30h– 21g, thì sau khoảng hơn 12 tiếng đồng hồ chắc
chắn không thể còn hiện tượng máu vẫn tiếp tục chảy
ra từ cơ thể. Màu máu cũng không thể đỏ tươi mà lúc
này máu đã thẫm màu và khô đông từ lâu. Chưa kể
trong khi kết luận nạn nhân Hồng chết trước thì máu
vẫn chảy, trong khi Vân chết sau thì máu lại khô hơn có
thấy có sự bất hợp lý.
.
II.
Thức ăn trong dạ dày nạn nhân Hồng “đã nhuyễn” cho
thấy nạn nhân đã ăn tối trước khi chết ít nhất 4
giờ đồng hồ, đó là thời điểm nào?
Cũng
theo pháp y, hoàn toàn có thể dựa vào độ nhuyễn của
thức ăn trong dạ dày để xác định thời gian từ bữa
ăn cuối cùng đến khi chết. Các loại thức ăn thông
thường (cơm, trứng, cá… ) sẽ tiêu hóa hết trong dạ
dày trong khoảng 3-4 giờ. Các loại thịt (bò/heo) tiêu hóa
hết trong khoảng 4-5 giờ. Như vậy, nhìn chung thức ăn sẽ
tiêu hết trong dạ dày trong vòng 3-5 giờ kể từ khi ăn.
Theo
Cáo trạng, Hải có mặt tại Bưu điện vào khoảng 19g30
và không hề thấy việc hai nạn nhân ăn cơm chiều. Như
vậy, Hồng (có thể là cả Vân) đã ăn bữa tối trước
19g30.
Do
thức ăn trong dạ dày Hồng “đã nhuyễn” vào thời
điểm dự đoán chết (20h30), nên nếu vậy - thì Hồng đã
ăn trước đó khoảng 4 giờ - tức lân cận 16h30. Tuy
nhiên điều này là không hợp lý, vì khi chị Hiếu ra về
lúc 17g, tại bưu điện vẫn chưa hề chuẩn bị gì bữa
tối và đang trong bối cảnh chờ anh Misol về.
Còn
nếu xác định Hồng đã ăn trong khoảng thời gian sau từ
sau 18h đến 19h30 (là lúc Hải đến) thì thức ăn trong dạ
dày không thể “đã nhuyễn” vào thời điểm “bị
giết” xác định là 8h30.
Như
vậy, về mặt khoa học, không đủ cơ sở để kết luận
hai nạn nhân bị giết trong khoảng gian từ 20h30 – 21g
như trong Cáo trạng. Mà cái chết đã xảy ra sau đó ít
nhất vài giờ đồng hồ. Cũng chưa thể xác định ai
chết trước, chết sau.
.
Phần
IV. Tình tiết mới: Tầng 1 với nhiều nghi vấn liên quan
đến người khác
.
Bưu
điện Cầu voi là một ngôi nhà gồm 2 tầng (trệt và lầu
1). Tại thời điểm xảy ra vụ án, tầng 1 vẫn sử dụng
bình thường. Tại BB khám nghiệm hiện trường ngày
14-1-2011 chỉ ghi đơn giản như sau: “Trên lầu là khu vực
để máy móc thiết bị, cửa còn khóa, không có dấu vết
cạy cửa”. Câu hỏi đặt ra là: nếu cửa lầu 1 còn
khóa, thì tại sao những người khám nghiệm biết đó là
khu vực để máy móc thiết bị? Và dù cửa khóa, liệu
có đủ cơ sở để khẳng định trên lầu 1 không có dấu
vết gì liên quan đến vụ án?
.
I.Nghi
vấn liên quan đến ông Nguyễn Mi Sol:
.
Ngày
25-11-2011 vừa qua, chúng tôi đã trực tiếp gặp ông
Nguyễn Văn Thu (một trong những người phụ trách dọn
dẹp hiện trường vụ án và chị Lê Thị Thu Hiếu (nhân
viên Bưu điện xã Nhị Thành, bạn thân của hai nạn nhân
và là người có mặt tại bưu điện trong cả ngày
13-1-2008). Đây cũng là hai nhân chứng trong vụ án.
.
Theo
lời chị Hiếu:
-
Anh Sol thường ghé thăm Hồng vào buổi tối và mỗi lần
đều ngủ lại. (Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với
lời khai của Sol). Khi Sol ở lại thì Sol và Hồng ngủ
trên lầu 1. Có lần chị Hiếu đã ngủ lại tại bưu cục
lúc có Sol, nên biết rõ như vậy. (Hiếu và Vân ngủ ở
phòng bên dưới, Hồng và Sol ở trên lầu).
-
Chị Hiếu khẳng định tối 13-1-2008 anh Sol có về bưu
cục Cầu Voi.
Theo
lời anh Thu thì:
-
Tối 13-1-2008, lúc gần 19h anh Thu đã chở Hải (chở xe
ôm) về nhà. Hải xuống bến xe bus trên chuyến xe từ
TP.HCM về Long An, tại ngã ba Bình Ảnh. Lúc này Hải mặc
áo sơ mi, đội nón kết và trên tay cầm tờ báo. Ông Thu
đã chở Hải tới tận cổng nhà.
-
Sau đó, lúc khoảng 21h30-22h đêm, anh Thu chở (xe ôm) 2
người khách, đi ngang qua bưu cục Cầu Voi và thấy “trên
lầu 1 Bưu cục còn sáng đèn. Cổng, cửa phía trước bưu
điện đều đã đóng”.
Cả
anh Thu và chị Hiếu đều cam kết về lời kể này và
sẵn sàng làm việc với cơ quan điều tra. Đây là những
thông tin hoàn toàn mới. Nếu đúng, thì rõ ràng trong đêm
13-1-2008 đã có người ở trên lầu 1 bưu cục.
Người
đó là ai? Đây là vấn đề cần làm rõ. Ngoài ra, nếu
có người trên lầu 1 trong đêm, mà qua sáng hôm sau cửa
lên lầu 1 đã bị khóa thì ai đã khóa? Vì sao khóa?
.
II.
Nghi vấn về một người khác?
.
1.Dấu
dép trên mặt ghế của ai?
Theo
“Kết luận điều tra” (BL 386), đêm 13-1-2008 khi vào bưu
cục Hải “bỏ dép ở bậc tam cấp và đi vào”. Như
vậy, Hải thực hiện hành vi giết Hồng và Vân trong tình
trạng không mang dép. Điều này nói lên Hải không thể
tạo ra dấu dép tại hiện trường.
Trong
khi đó, theo “BB khám nghiệm hiện trường” lại ghi
nhận một chân của nạn nhân Vân gác lên mặt chiếc ghế
xếp inox và “trên mặt nệm ghế có dấu vết máu quệt
và dấu vết đế dép dính những hạt cơm khô”.
Vậy
ai là người đã để lại dấu dép này? Từ đôi dép
nào? – đây là vấn đề chưa rõ.
.
2.Ai
đã tạo ra các “vét bầm” ở chân nạn nhân Hồng?
Tại
“BB khám nghiệm tử thi” và BB giám định pháp y đều
ghi nhận trên cơ thể nạn nhân Hồng “có một số vết
bầm máu làm da sậm màu ở mặt trước đùi chân phải,
mặt trước cẳng chân trái”. Các vết bầm này là do
tác động của ngoại lực chứ không thể tự nhiên mà
có.
Vậy
ai đã gây ra những dấu vết này? bằng vật dụng gì? -
Trong khi Hải không hề có bất kỳ lời khai nào nói đến
việc đã đánh hay tác động vào phần chân của nạn
nhân Hồng.
.
3.Ai
đã mang mút xốp đến bưu điện Cầu Voi?
Tại
Biên bản khám nghiệm hiện trường còn ghi nhận “trên
mặt bàn có một miếng mút xốp màu trắng và vài mảnh
mút xốp đã được cắt vụn trên mặt bàn và rải rác
vài mảnh dưới nền nhà”.
Tại
BB ghi lời khai ngày 19-1-2008 của chị Hiếu thì: “Tôi
xác định trên bàn không có loại bộc xốp trắng nào,
tôi cũng không thấy loại xốp này bao giờ. Tôi cũng
không biết loại xốp này là xốp gì cả”. Như vậy,
đến lúc 17g (là thời điểm chị Hiếu ra về) tại bưu
cục vẫn chưa có mút xốp.
BB
hỏi cung bị can ngày 11-6-2008 Hải khai “tại ghế salon
trên bàn lúc tôi và Hồng ngồi có báo tạp chí, 1 ly
nước, điện thoại Nokia đen và mút sốp”. Tức là Hải
cũng không phải là người đem mút xốp đến bưu cục.
Vậy ai đã đem mút xốp đến Bưu điện, mút xốp chứa đựng vật gì? Ai đã cắt vụn mút xốp ra? Đây cũng là điều chưa rõ.
Vậy ai đã đem mút xốp đến Bưu điện, mút xốp chứa đựng vật gì? Ai đã cắt vụn mút xốp ra? Đây cũng là điều chưa rõ.
.
4.
Ai đã vén áo nạn nhân Hồng?
Theo
ảnh chụp tại hiện trường, nạn nhân Hồng nằm ngửa,
áo ngoài bị xắn ngược lên tới tận cổ, để hở toàn
bộ phần bụng và lưng. Áo lót ngực bị kéo lên trên,
để hở cả hai núm vú.
Theo
Cáo Trạng, Hải đã “bóp cổ”, đánh vào mặt và sau
đó cắt cổ Hồng. Tuy nhiên chắc chắn những động tác
này không thể gây ra tình trạng cả hai lớp áo của nạn
nhân bị kéo sốc lên quá cao như vậy. (Trong khi nạn nhân
Vân bị Hải xốc nách kéo từ phòng trước ra sau thì cả
hai lớp áo không hề sộc sệch).
Như
vậy, chắc chắn phải có ai đó đã làm việc này. Người
đó là ai?
.
5.Chiếc
vòng trên tay nạn nhân Hồng là vòng gì? của ai?
Theo
ảnh chụp tại hiện trường, nạn nhân Hồng khi chết
nằm ngửa, trên cổ tay trái có đeo một chiếc vòng
lớn.
Trong các bản khai của Hải và các nhân chứng không thể hiện về chiếc vòng này. Chị Lê Thị Thu Hiếu tại “BB ghi lời khai” ngày 19-1-2008 khai “hôm chủ nhật lúc 17h tôi thấy chị Hồng có 1 đôi bông tai, 1 sợi dây chuyền, 3 chiếc nhẫn vàng và 1 chiếc vòng cẩn hột nhỏ nhỏ”.
Trong các bản khai của Hải và các nhân chứng không thể hiện về chiếc vòng này. Chị Lê Thị Thu Hiếu tại “BB ghi lời khai” ngày 19-1-2008 khai “hôm chủ nhật lúc 17h tôi thấy chị Hồng có 1 đôi bông tai, 1 sợi dây chuyền, 3 chiếc nhẫn vàng và 1 chiếc vòng cẩn hột nhỏ nhỏ”.
Câu
hỏi đặt ra là: Đây là chiếc vòng bằng vật liệu gì?
Từ đâu Hồng có chiếc vòng này và vì sao không thấy ai
nhắc đến chiếc vòng này?
.
6.Tư
thế chết của nạn nhân Hồng cho thấy có dấu hiệu nạn
nhân bị xâm hại tình dục:
Qua
bản ảnh, tư thế khi chết (tư thế cuối cùng) của nạn
nhân Hồng ở trạng thái như sau:
-
Nằm ngửa, hai chân dạng rộng. Đầu quay hướng ra cửa.
-
Hai tay dang ngang cao quá vai, bàn tay ngửa - tư thế bị đè
đến chết. Không có phản ứng kháng cự. Trên cổ tay
trái còn đeo một chiếc vòng – đây là vòng gì, ở đâu
– điều này chưa được làm rõ.
-
Áo lót bị kéo ngược lên trên hai bầu vú, làm lộ hai
núm vú. Áo ngực không dính máu, không dấu tay – cho thấy
nạn nhân bị kéo áo trước khi bị cắt cổ. Vì nếu kéo
áo sau khi cắt cổ thì máu sẽ chảy ra rất nhiều, loang
xuống.
-
Áo ngoài bị cuộn hẳn lên trên áo lót, gần sát cổ, để
lộ trần toàn bộ khuôn ngực và lưng.
-
Trên mặt có các vết cắt do vật sắc bén tạo nên,
nhiều chiều (ngang, dọc, chéo… ) – giống như vết cắt
cố ý và mang tính chất “tra tấn”. Môi, miệng bị
xưng và bầm tím.
-
Theo Biên bản giám định pháp y số 21/PY.08 ngày 17-1-2008,
“có ít dịch nhầy trong âm đạo”.
Tư
thế và dấu vết trên cho thấy khả năng nạn nhân đã
chết trong tư thế bị đè hai tay và bị hãm hiếp. Tư
thế chết cũng cho thấy có thể nạn nhân đã bị ngất
hoặc thậm chí chết trước đó. Điều đáng nói là tư
thế chết của nạn nhân Hồng hoàn toàn không phù hợp
với các tình tiết do Hải khai.
.
7.Ai
đã cắt điện máy bơm nước?
Theo
Kết luận điều tra, tại hiện trường vụ án khi mở
các vòi nước đều hết nước. Nền nhà khô ráo.
Tại
BB lấy lời khai ngày 4-4-2008 (BL 201) nhân chứng Lê Thị
Thu Hiếu khai “hệ thống nước sinh hoạt trong nhà vệ
sinh tại Bưu điện có đầy đủ nước, hoạt động bình
thường”.
BB
ghi lời khi lời khai bà Nguyễn Thị Kim Tuyền: “ tôi
nghĩ là không có bị cúp nước vì Bưu cục có giếng
nước và ngày 13-1-2008 không có cúp điện”.
Theo
xác minh, máy bơm tại bưu cục có hệ thống rờ le tự
động. Khi trong bồn hết nước thì máy bơm sẽ tự động
bơm nước đầy bồn.
Như
vậy, việc hết nước tại bưu cục có nguyên nhân là ai
đó đã cắt cầu giao máy bơm nước. Việc này chưa được
làm rõ.
.
8.
Những ai đã dùng cơm tối tại bưu điện Cầu Voi?
Theo
lời khai của chị Hiếu, buổi trưa mọi người đã ăn
cơm xong và “rửa chén, tôi và chị Hồng vào buồng ngủ
còn chị Vân thì thức. Ngủ tới gần 17g dậy rửa mặt
xong ra về nhà”. Như vậy, khi chị Hiếu về chén đĩa
đã được dọn dẹp, rửa sạch. Hồng và Vân chưa ăn
tối.
Tại
Biên bản khám nghiệm hiện trường ghi nhận “phía trong
sát với đùi phải Hồng còn có một bàn bếp, trên bàn
có: ly, tô, dĩa đã sử dụng nhưng chưa rửa”.
Như
vậy, có thể xác định tối đó tại bưu điện đã có
nấu ăn và mọi người đã ăn tối xong nhưng chưa dọn
rửa.
Câu hỏi đặt ra là những ai đã ăn tối? Qua số lượng chén, đĩa tại hiện trường, hoàn toàn có thể xác định được số người đã ăn.
Câu hỏi đặt ra là những ai đã ăn tối? Qua số lượng chén, đĩa tại hiện trường, hoàn toàn có thể xác định được số người đã ăn.
.
Phần
V. Kết tội từ sự suy luận chủ quan, vô căn cứ và
thiếu khoa học
.
Chúng
tôi cho rằng phần lớn các nhận định, kết luận trong
Cáo trạng và bản án – đối chiếu với ngay chính kết
quả điều tra thể hiện trong hồ sơ vụ án - đều là
những suy luận chủ quan, thiếu căn cứ, mâu thuẫn và
gây bất lợi cho Hải. Xin trình bày một số vấn đề cơ
bản nhất.
.
I.Động
cơ giết người của Hải quá đơn giản, không hợp lý:
Một
trong những cấu thành quan trọng của hành vi tội phạm
là mặt chủ quan (ý thức, động cơ) của kẻ phạm tội.
Nguyên nhân nào, điều gì đã khiến Hải phải ra tay giết
một lúc hai cô gái trẻ một cách vô cùng tàn bạo và dã
man đến vậy?
Theo
Cáo trạng, lý do duy nhất giết Hồng là do Hồng không
đồng ý cho Hải được giao cấu, đã có hành vi dùng
chân đạp vào Hải, khi Hải đang đè nạn nhân xuống đòi
giao cấu. Còn giết Vân là vì sợ bị lộ. Điều đó có
hợp lý không, khi Hải biết rõ:
-
Thời gian Vân đi mua trái cây rất mau. Đoạn đường từ
bưu cục đến nơi bán trái cây chỉ khoảng 150m, như vậy
thời gian Vân mua trái cây và về chỉ khoảng trên dưới
10 phút. Với thời gian rất ít ỏi như vậy, lại trong
bối cảnh đèn đang sáng, cổng ngoài và cửa ngoài đều
mở cả hai đang mặc quần áo đầy đủ - liệu Hải có
thể nghĩ đến chuyện sẽ giao cấu và giao cấu được
với nạn nhân hay không?
-
Theo Cáo Trạng, Hải đã dẫn Hồng vào trong buồng, cùng
lên giường và Hồng đã nằm xuống. Để trải qua những
việc đó, chắc chắn không thể là trong vài ba phút. Xét
về tâm sinh lý, việc này phải có sự đồng tình của
Hồng. Vậy, nếu nói rằng Hồng sau đó không đồng ý có
hợp lý không?
-
Tiếp đó, qua những dấu vết thương tích và máu me khắp
người nạn nhân, cũng như dấu vết đổ vỡ trong khu vực
cầu thang, cho thấy Hồng đã có sự kháng cự quyết liệt
và hung thủ đã phải tốn nhiều thời gian mới có thể
gây ra hàng chục những vết thương cho Hồng. Nếu không
có sự chuẩn bị và quyết tâm ngay từ đầu, liệu Hải
có thể làm được những việc đó hay không?
-
Liệu có hợp lý không khi chỉ vì bị từ chối giao cấu
trong bối cảnh như vậy, Hải đã có những hành động
mang tính chất dã man đến mức điên cuồng như vậy? Hải
có cần thiết phải thực hiện hàng loạt động tác kéo
dài, liên tục và quyết tâm giết chết Hồng được hay
không?
Về
tâm lý tội phạm, hành động giết người trong vụ án
này phải là của một người có sự chuẩn bị từ
trước, có quyết tâm lớn, có sự căm thù/ghen tuông cực
độ, bị đè nén và kích động. Không thể đơn giản
chỉ là việc bị từ chối giao cấu.
.
II.Qui
kết chủ quan về hung khí gây án:
Một
trong những điều “kỳ lạ” nhất trong vụ án này là
việc kết tội, qui kết hung thủ dùng 3 loại hung khí là
dao, thớt và ghế giết người, để lại hàng loạt dấu
vết, máu me… nhưng tại hiện trường khi khám nghiệm
lại không có bất kỳ vật nào có dấu vết phạm tội
và cũng không được thu giữ.
Tiếp
đó, việc cơ quan điều tra lần lượt “bổ sung” vào
hồ sơ vụ án những hung khí để “chứng minh” lại
đầy rẫy những sự vô lý, sai nguyên tắc.
Kết
quả là từ thực tế không hề có bất kỳ tang vật nào,
lại dẫn đến việc tạo ra cảm giác là hung thủ (Hải)
đã sử dụng những hung khi đó và tất cả đều “phù
hợp”. Tuy nhiên, liệu có thực sự phù hợp hay không?
Sau đây chúng tôi chỉ xin trình bày về 2 hung khí là dao
và thớt.
.
1.Từ
con dao “giả định” hiện nay, liệu có thể kết luận
về dụng cụ mà hung thủ dùng để cắt cổ hai nạn
nhân?
.
i.
Suy đoán chủ quan và vô nguyên tắc về “con dao”
Theo
Cáo Trạng, Hải đã dùng “con dao thái lan dài 28cm, ngang
3 cm” tại bưu điện để cắt cổ hai nạn nhân. Nhưng
tại hiện trường không hề có con dao nào – dù khi khám
nghiệm hiện trường, với đầy đủ thành phần, đông
người (và mặc dù con dao thu được sau đó chỉ cách vị
trí xác hai nạn nhân chưa đầy 0,5m).
Thế
mà chỉ từ việc qua ngày hôm sau các dân phòng trong quá
trình dọn dẹp hiện trường thấy một con dao “mới
tinh” tại bưu cục, Cơ quan điều tra đã “mặc nhiên”
cho rằng đây là con dao của bưu cục và sau này cho rằng
chính Hải đã sử dụng con dao này đề cắt cổ hai nạn
nhân.
Nhưng
điều đáng nói hơn nữa là con dao được phát hiện đó
thực tế vẫn là một con “dao ảo” – hoàn toàn chỉ
do các dân phòng thấy – con dao này cũng đã bị mất,
không thu giữ. Sau đó các dân phòng tự đi mua lại một
con dao “giống” như con dao “ảo” này.
Liệu
những tình tiết như trên, từ một con dao mơ hồ về
nguồn gốc, không có dấu vết tội phạm và không còn
tồn tại, căn cứ vào điều luật nào để có thể “kết
luận” rằng đó là con dao của bưu điện và Hải đã
dùng con dao đó để giết người? Trong khi một trong những
nguyên tắc cơ bản để xác định tang vật là phải “có
thật” và “liên quan trực tiếp” đến tình tiết của
vụ án?
.
ii.Hàng
loạt điểm mâu thuẫn về con dao:
Tại
“BB ghi lời khai” (BL 232), ông Hùng tả về con dao phát
hiện tại hiện trường như sau: “lưỡi bằng inox trắng,
lưỡi dài khoảng 20cm, lưỡi phần dưới bằng phần sóng
dao, bầu xuống, lưỡi hơi nhọn, cán bằng nhựa màu đen,
hơi dẹp dài khoảng 10cm”. “Con dao rất sạch, còn rất
mới vì phần lưỡi dao vẫn còn dấu sọc sọc như chưa
được mài”.
Các
ông Thu, Vàng (BL 226 &242,243) cũng đều khai: “lưỡi
bén dao còn mới ”, “dao rất sạch giống như vừa mới
được để vào chứ không phải là đã để từ lâu.
Lưỡi dao rất bén”.
Qua
đó, cho thấy con dao các dân phòng phát hiện còn rất
mới. Trong khi đó, con dao “thật” là một con dao cũ, đã
qua sử dụng.
Tại
“BB lời khai” ngày 19-1-2008 chị Hiếu khai: “trong bưu
điện có sử dụng 2 con dao. Một con dao thái nhỏ dài
khoảng 15cm, phần lưỡi cỡ 5cm. Con dao lớn thì dài
khoảng 35cm, phần lưỡi kim loại trắng dài 25cm, bề
ngang khoảng 5cm, thường để ngay ghế, bàn nấu ăn”.
Tại
“BB ghi lời khai” ngày 21-6-2008 ông Sol khai ở bưu điện
có 2 con dao, “một con dao nhỏ dài trên 10cm. Một con dao
lớn dài khoảng gần 30cm, có cán nhựa màu đen, lưỡi
dao bằng inox, mũi nhọn, lưỡi dao chỗ rộng nhất 4cm,
kiểu dao thái lan. Con dao này trong ngày thứ Tư 9-1-2008 tôi
có sử dụng dùng để sửa chữa nhà vệ sinh tại bưu
điện”.
Như
vậy, liệu có đủ căn cứ để kết luận rằng con dao
mới mà các dân phòng nhìn thấy chính là con dao đã cũ ở
bưu điện? Nhất là khi lời khai của chị Hiếu và ông
Misol là quan trọng hơn. Vì họ đã mô tả con dao có thật
tại Cầu Voi.
Lẽ
ra, khi có sự khác biệt như vậy thì phải cho nhận dạng,
đối chất làm rõ. CQĐT đã không cho chị Hiếu nhận
dạng dao. Còn ông Misol thì chỉ nhận dạng qua hình vẽ,
không thể xác định độ mới cũ của con dao.
.
iii.
Dấu hiệu sửa chữa kích thước con dao trong hồ sơ vụ
án:
Điều
đáng lưu ý trong Biên bản lời khai của chị Hiếu ngày
19-1-2008, kích thước của con dao lớn đã bị sửa bất
hợp pháp, không có chữ ký xác nhận của người khai.
Chiều dài từ 35cm sửa thành 30cm, lưỡi dao từ 25 sửa
thành 20cm.
.
(Chú
thích ảnh: Lời khai của chị Hiếu về kích thước con
dao đã bị sửa cho “phù hợp” với kích thước con dao
mà ông Thu đã tự mua. Lẽ ra, khi có sự khác biệt như
vậy thì cơ quan điều tra phải cho đối chất hoặc cho
chị Hiếu nhận dạng con dao. Nhưng điều này đã không
được thực hiện)
.
Ngoài
ra, khi tiến hành nhận dạng (BL 204), qua hình vẽ 4 con
dao, ông Sol ghi “Tôi xác định dao số 3 và 4 có đặc
điểm và kích thước giống con dao ở bưu điện”.
Việc
ông Misol xác định có tới 2 con dao là “dao số 3 và 4
có đặc điểm và kích thước giống con dao ở bưu điện”
là điều hết sức phi lý. Vì hai con dao số 3 và số 4 có
kích thước hoàn toàn khác nhau.
.
2/Dùng
thớt đập gây chảy máu, nhưng thớt không dính máu:
Khi
khám nghiệm hiện trường, có ghi nhận phía trên đầu
nạn nhân Hồng “có một cái thớt gỗ”. Nhưng cái thớt
gỗ này đã không được thu giữ do không có dấu vết
liên quan đến vụ án”. Điều này cho thấy cái thớt
này không có dấu máu, vết vân tay.
Từ
ngày 21-3-2008 đến ngày 14-6-2008 khi Hải bị bắt, Hải
không hề có bất cứ lời khai nào nói rằng đã dùng cái
thớt để đánh vào đầu nạn nhân Hồng.
Tuy
nhiên, các vết thương trên mặt nạn nhân Hồng (các vết
bầm ở mắt, vết rách hình thù khác nhau… ), cho thấy
cái dao không thể nào gây ra được những vết thương
như vậy. Kết quả giám định pháp y cho thấy các vết
thương phải là vật có đầu tù.
Tại
Biên bản hỏi cung ngày 11-6-2008, lần đầu tiên Hải khai
về cái thớt như sau “tôi lấy tấm thớt cầm hai tay
đập mạnh vào vùng đầu Hồng 2 cái”, “sau khi gây án
tấm thớt tôi bỏ lại tại đầu nằm của Hồng. Thớt
tôi để tại chỗ”.
Nếu
lời khai của Hải là đúng, thì chắc chắn trên cái thớt
phải có vết máu, thậm chí dính nhiều máu. Ngoài ra, các
vết rách trên mặt nạn nhân cũng phải có dạng phù hợp
với cái thớt như: hình vòng cung, miệng rộng, rách bờ
vết thương… vv. Thực tế hoàn toàn không có điều này.
Trong
khi đó, theo công văn số 37/GT.PY.08 ngày 7-4-2008 thì “vùng
mặt có những vết rách da bờ mép sắc gọn. Điều đó
chứng tỏ vùng mặt của nạn nhân có các vật cứng sắc
gọn và bị va đập nhiều lần”. Trong khi đó, cái thớt
chắc chắn không thể là vật “sắc gọn”.
Hay
nói cách khác, việc qui kết rằng Hải đã dùng thớt để
đập vào mặt Hồng là phi lý, khiên cưỡng. Chính vì
vậy, việc mãi đến ngày 24-6-2008, CQĐT yêu cầu chị Lê
Thị Thu Hiếu đi mua một cái thớt về, rồi từ đó cho
rằng Hải đã dùng một cái thớt như vậy để đánh vào
mặt nạn nhân Hồng liệu có hợp lý?
Chưa
kể ngoài chị Hiếu, ông Misol cũng là người biết về
việc tại bưu điện có cái thớt gỗ. Trong “BB ghi lời
khai” ngày 21-6-2008 (BL 210) ông Sol khai tại bưu điện có
2 cái thớt “một thớt nhựa màu trắng và một thớt gỗ
tròn”. Trong quá trình điều tra, không hề cho ông Sol
nhận dạng cái thớt hay đối chất làm rõ đó có phải
là cái thớt ở bưu điện Cầu Voi hay không.
(Chú
thích ảnh: Liệu những vết thương hình thù như trên có
thể là do cái thớt gây nên?)
.
Phần
VI: Rất nhiều điểm mâu thuẫn với các tình tiết khách
quan
.
I.Hải
có thực sự đã dùng ghế đập đầu Vân?
Khi
khám nghiệm hiện trường, không có chiếc ghế nào được
thu giữ. Sau đó, quá trình điều tra xác định Hải đã
dùng một chiếc ghế đập mạnh vào đầu Vân, sau đó
quăng ghế xuống đất.
Nếu
sự thật đúng như vậy thì chắc chắn trên mặt ghế
cũng không thể còn dính “những hạt cơm khô” (ngoài
dấu dép nói trên). Vì với tác động của lực đập
xuống, những hạt cơm khô sẽ rơi ra khỏi mặt ghế.
Ngoài
ra, trên mặt Vân còn có 2 vết thương rách mặt, tụ máu
hình vuông. Liệu chiếc ghế có thể gây ra vết thương
này hay không? Và trong khi Hải cũng không hề có lời khai
nào liên quan đến việc dùng ghế đánh vào mặt Vân.
(Chú
thích ảnh: 2 vết thương này trên mặt nạn nhân Vân
không thể do dùng ghế đập xuống. Hải cũng không có
lời khai về việc dùng ghế hay vật gì đập vào mặt
nạn nhân).
.
II.Hải
không thể “đứng ở chân cầu thang thấy Vân đóng cửa,
đặt bịch trái cây lên bàn salon”:
Theo
Cáo trạng, sau khi giết Hồng, “Hải đi vào chân cầu
thang đứng nhìn ra phía trước thấy Vân đi mua trái cây
từ phía ngoài đi vào, thấy Vân kéo cửa sắt phía trước
xuống (đóng cửa) rồi đi vào bỏ bịch trái cây lên bàn
salon”.
Đây
là kết luận hoàn toàn vô lý. Trên thực tế tại vị
trí chân cầu thang không thể nhìn thấy cánh cửa phía
bên ngoài (bị chắn bởi 2 lớp tường), góc quan sát
không có.
.
(Chú
thích ảnh: Nếu Hải đứng dưới chân cầu thang (phía
bên phải) thì không thể nhìn ra phòng trước để thấy
Vân đi mua trái cây về và đi vào. Còn nếu Hải đứng
phía bên trái, sát tường hay giữa cửa, thì khi Vân đi
từ ngoài vào sẽ thấy Hải ngay).
.
III.
Làm sao Hải có thể biết được trong bọc xốp có trái
cây gì?
Biên
bản khám nghiệm hiện trường ngày 14-1-2008 ghi nhận“
trên bàn gỗ có 2 bịch trái cây”. Được xác định
gồm: quít, bưởi và bom (táo).
Biên
bản ghi lời khai ngày 14-1-2008, chị Nguyễn thị Bích
Ngân, người bán trái cây cho nạn nhân Vân khai: “Vân
mua 0.5 kg quít thái, trái nhỏ, màu đỏ cam, không hạt, 1
trái bưởi Long, 15 ngàn đồng bom”.
Trong
khi đó, tại Bản tường trình 25-3-2008, Hải khai “ Vân
mua trái cây về để trên bàn gồm loại trái cây gì tôi
không nhớ”. Nhưng sau đó, tại “Biên bản hỏi cung bị
can” ngày 11-6-2008 lại khai: “tôi thấy Vân để trên
bàn salon 2 bịch trái cây, trong đó có bom, quýt, lê,
bưởi”.
Việc
Hải nhớ và khai như vậy là vô lý và cũng không chính
xác (không có lê). Hơn nữa số bịch trái cây bị sửa
từ “1” thành “2” rõ ràng nhằm mục đích “khớp”
với hiện trường vụ án.
.
IV.Vì
sao Hải biết được màu quần lót của nạn nhân Hồng?
Trong
“BB hỏi cung bị can” ngày 10-6-2008 (BL 91), Hải khai
thấy Hồng mặc “quần sì màu trắng”.
Theo
chúng tôi, nếu Cáo trạng đúng thì Hải không thể biết
được tình tiết này, vì hai người (Hải và Hồng)
không hề giao cấu với nhau, ảnh chụp cho thấy quần
của nạn nhân không bị tụt (còn nguyên).
.
V.Tiếng
kêu của nạn nhân và thời điểm nghe tiếng kêu:
Có
sự mâu thuẫn giữa Kết luận điều tra (BL 383) và Cáo
Trạng (BL520). Theo KLĐT thì Vân là người “hoảng hốt
la á á” (Hồng không kêu la). Nhưng theo Cáo Trạng thì
Hồng là người “kêu la á á rất lớn”.
Về
thời gian, theo “BB ghi lời khai” chị Huỳnh Thị Kim
Tuyền ngày 29-3-2008 (BL 258) thì vào lúc khoảng 20h30 phút
có nghe tiếng la “ướt ướt”. Nếu theo Cáo trạng thì
đây phải là tiếng kêu của Hồng, nhưng về thời gian
là không hợp lý, vì lúc 20h30 Vân chưa đi mua trái cây.
Đây là sự mâu thuẫn cần làm rõ.
.
VI.
Hải có đi uống cà phê, xem đá bóng vào buổi tối
13-1-2008 sau khi gây án?
Theo
“BB ghi lời khai ngày 7-4-2008, Hải khai sau khi gây án:
“lúc này khoảng 22h giờ, tôi không về nhà mà chạy
thẳng đến quán bà 2A gặp anh Chương và anh Lĩnh (làm
công trình siêu tốc) đang ngồi xem đá banh. Tôi không
nói gì xem đá banh, khoảng 30 phút tôi chạy xe Honda về
nhà”.
Đây
là tình tiết quan trọng vì nếu xác minh, có thể xác
định được tối đó Hải mặc áo gì, có mùi máu hay
không, trạng thái tâm lý, thời điểm diễn biến sự
việc.
.
Phần
VII. Nhiều vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng
.
I.
Có dấu hiệu Hồ Duy Hải đã bị ép cung, mớn cung
Mặc
dù trong hồ sơ, có nhiều Biên bản ghi lời khai, Bản
tường trình của Hồ Duy Hải thể hiện việc Hải khai
nhận mình đã giết người, cướp của, hầu hết trong
từng Biên bản đều có chữ ký xác nhận của Hải và
lời cam “đã nghe đọc và xác nhận là đúng sự thật”.
Nhưng không có nghĩa là tất cả đều thực sự tuyệt
đối khách quan, trung thực. Vì những điều bất thường
sau đây:
-
Nếu không bị ép cung, tại sao Hải phải kêu oan ngay tại
tòa ở cả hai phiên xử sơ thẩm và phúc thẩm?
-
Nếu lời khai của Hải là sự thật, thì không thể mâu
thuẫn, không phù hợp với hàng loạt chứng cứ, tình
tiết khác - như đã trình bày ở phần trên. Đặc biệt,
trong giai đoạn đầu, tuy nhận tội nhưng lời khai của
Hải hoàn toàn khác biệt với Cáo Trạng (chẳng hạn như
Hải khai đập đầu Hồng ở “bể nước” – trong khi
tại bưu điện không có bể nước, khai cắt cổ Hồng ở
nhà vệ sinh rồi kéo xác vào trong nhà, đã quan hệ giao
cấu với nạn nhân Hồng… vv). Đây là những tình tiết
không thể không lưu ý.
-
Vì sao tại phiên tòa sơ thẩm, khi Hải nói đã “khai
theo lời kể lại của công an viên xã Nhị Thành là
Nguyễn Thanh Hải và dư luận bên ngoài” thì đại diện
VKS có sẵn ngay “Đơn xác nhận” của anh Hải (công an
xã, nay đã chết), xác nhận rằng không kể cho Hải về
những tình tiết của vụ án. Câu hỏi là: Tại sao phía
VKS lại biết trước tình huống này và chuẩn bị sẵn
bản xác nhận của anh Hải - trong khi tại tất cả các
bản khai của Hải đều không hề nói mình bị mớn
cung, ép cung? Và tại sao chứng cứ này (xác nhận của
anh Hải) không có trong hồ sơ vụ án?
.
II.
Không tiến hành đối chất, nhận dạng khi có sự mâu
thuẫn trong các lời khai:
Điều
138 BLTTHS qui định “trường hợp có sự mâu
thuẫn trong lời khai giữa hai hay nhiều người thì điều
tra viên tiến hành đối chất”.
Trong
hồ sơ vụ án thể hiện có rất nhiều lời khai của
các nhân chứng mâu thuẫn với nhau, với lời khai của
Hải. Ví dụ như:
-
Về màu và kiểu chiếc áo “thun xanh” mà Hải đã mặc
đêm gây án. Có sự khác biệt về màu sắc, kiểu áo
giữa lời khai của Hải, nhân chứng Đinh Vũ Thường và
Hồ Thị Thu Thủy (em gái Hải).
-
Về số tài sản (nữ trang) bị mất của hai nạn nhân:
có sự khác biệt, mâu thuẫn về số lượng, kiểu dáng
và việc bán.
-
Về tang vật chiếc ghế: mâu thuẫn về lời khai của
hai người dọn dẹp hiện trường là ông Thu, ông Vàng
và Hải, mâu thuẫn với hiện trường vụ án.
-
Về chiếc thớt: kích thước, độ mới cũ.
-
Về việc ông Misol có về bưu cục Cầu Voi tối 13-1-2008
hay không?
-
Về con dao: kích thước, độ mới cũ.
-
Về miếng mút xốp trên mặt bàn.
-
Về thời gian nghe tiếng kêu.
-
Về tình tiết hai cánh cổng bên ngoài bị khóa hay khép,
cánh cửa sắt phía sau mở hay đóng.
-
Về thời gian đi từ tiệm cầm đồ đến bưu điện Cầu
Voi.
-
Vv.
Trong
khi những mâu thuẫn trên chưa được làm sáng tỏ thì
việc Cáo trạng và bản án lại cho rằng “hoàn toàn
phù hợp” liệu có đúng?
.
III.
Tiến hành nhận dạng không có người chứng kiến
Theo
qui định tại k4 điều 139 BLTTHS, “việc tiến hành nhận
dạng phải có mặt người chứng kiến”.
Tuy
nhiên, toàn bộ 6 “Biên bản nhận dạng” của nhân
chứng Nguyễn Mi Sol các ngày 21-6-2008 và 24-8-2008 (BL 211,
213, 215, 217, 219, 221), Nguyễn Tuấn Ngọc (BL 244), Đinh Vũ
Thường (BL 253), Nguyễn Văn Vàng và Võ Văn Hùng (ngày
24-3-2008), “Biên bản nhận dạng” ngày 10-7-2008 (BL 144)
của Hồ Duy Hải, Biên bản nhận dạng chiếc xe của anh
Đinh Vũ Thường… - đều không có người chứng kiến.
Trong khi các nội dung nhận dạng đều rất quan trọng.
.
IV.
Hạn chế quyền của người bào chữa, quyền tiếp xúc
với bị can, bị cáo:
Trong
vụ án này, hồ sơ thể hiện cơ quan tiến hành tố tụng
có chỉ định luật sư bào chữa cho Hải là luật sư
Nguyễn Thành Quyết. Tuy nhiên, trước đó luật sư Quyết
là người được gia đình Hải mời. Việc “chuyển
hóa” luật sư Quyết từ luật sư được gia đình mời
thành luật sư chỉ định là vi phạm nghiêm trọng luật
tố tụng hình sự và có dấu hiệu bất thường.
Vì
sao luật sư Quyết biết và nhiều lần tham dự các buổi
lấy lời khai, chứng kiến đối với Hải, thì luật sư
Nguyễn Thành Đạt (cũng do gia đình mời) lại không hề
được thông báo, mời tham dự. Thậm chí luật sư Đạt
còn bị “cấm”, không được tiếp xúc với bị cáo
tại các phiên tòa (!?) – theo Đơn trình bày của luật
sư Đạt.
.
V.
Chỉnh sửa lời khai, biên bản trái qui định:
Theo
điều 132 BLTTHS, “trường hợp có bổ sung sửa
chữa Biên bản thì bị can và điều tra viên cùng ký xác
nhận”. “Nghiêm cấm ĐTV tự mình thêm, bớt hoặc sửa
chữa lời khai của bị can”.
Tuy
nhiên, trong hồ sơ vụ án rất nhiều nội dung, câu chữ
trong Biên bản ghi lời khai/hỏi cung bị can, nhân chứng
đã bị xóa bỏ, sữa chữa - mà không hề có chữ ký
xác nhận của bị can và ĐTV. Chúng tôi chỉ xin nêu 3
trường hợp cụ thể như sau:
Tại
“Biên Bản hỏi cung bị can” ngày 11-6-2008 (BL 92), lời
khai của Hải về số bịch trái cây trên bàn salon bị
sửa từ số “1” thành số “2”.
Tại
“Bản ghi lời khai” (BL 197, 198) của nhân chứng Lê Thị
Thu Hiếu đã bị sửa chữa về kích thước con dao. Cụ
thể đã sửa chiều dài con dao từ 35cm thành 30cm, phần
lưỡi từ 25cm chuyển thành 20cm.
Tại
“Biên bản ghi lời khai” của anh Thường ngày 31-3-2008
ghi thêm câu “tôi nghĩ sẽ nhận dạng được”. Sau câu
“tôi không nhìn thấy một con số nào hết”. Trong Biên
bản nhận dạng ngày 31-3-2008 (cũng của anh Thường), tại
trang 2, ghi thêm câu “biển số H5-0842”.
.
VI.
Nhiều tài liệu quan trọng đã bị rút khỏi hồ sơ vụ
án:
Vụ
án này diễn ra vào ngày 13-1-2008, hơn 2 tháng sau (ngày
21-3-2008) Hải mới bị bắt. Trong thời gian trước khi
Hải bị bắt, trên thực tế Cơ quan điều tra đã tạm
giữ, triệu tập lấy lời khai của rất nhiều người.
Trong đó có các ông Nguyễn Văn Nghị, ông Nguyễn Misol,
chị Hiếu, anh Thường, anh Hiếu… vv.
Thế
nhưng, trong hồ sơ vụ án khi chuyển qua Tòa án chỉ có
lời khai của những người này sau khi Hải bị bắt.
Trong khi ai cũng hiểu rằng những bản khai ban đầu là
rất quan trọng. Và điều này cũng vi phạm nghiêm trọng
nguyên tắc tố tụng hình sự. Theo qui định tại Bộ
luật tố tụng hình sự, hồ sơ vụ án nhất thiết phải
đầy đủ, chính xác, khách quan, bảo đảm đúng trình
tự, thủ tục. Không có điều luật nào nói rằng Cơ
quan điều tra có quyền rút ra khỏi hồ sơ hay hủy bỏ
những kết quả điều tra ban đầu – dù đó không phải
là lời khai nhận tội.
Việc trong hồ sơ không có những tài liệu trên đã mang theo câu hỏi: bằng chứng ngoại phạm của các ông Nguyễn Misol, Nghị… có hay không?
Việc trong hồ sơ không có những tài liệu trên đã mang theo câu hỏi: bằng chứng ngoại phạm của các ông Nguyễn Misol, Nghị… có hay không?
.
VII.
Thông tin trên báo chí và dấu hiệu làm sai lệch hồ sơ
vụ án:
Vụ
án Cầu Voi là một vụ án rất nghiêm trọng, gây sự
quan tâm lớn trong dư luận xã hội. Ngay sau khi vụ án
xảy ra và trong quá trình giải quyết vụ án, nhiều tờ
báo trong nước đã có bài viết, nêu nhiều tình tiết
cho thấy hung thủ có thể là một người khác và đã
được cơ quan điều tra lấy lời khai ngay từ khi mới
phát hiện vụ án.
Báo
Thanh Niên ngày 16-1-2008 bài “Liên quan đến vụ giết
hại 2 nhân viên Bưu điện Cầu Voi: Triệu tập khẩn cấp
4 thanh niên”
“Gần
đây người ta còn thấy nạn nhân (Hồng) có mối quan hệ
thân thiết với một thanh niên khác, quê ở Tiền Giang.
Hằng tuần, người thanh niên này thường ghé Bưu điện
Cầu Voi chơi rất lâu nên xung quanh rất nhiều người
biết mặt. Và ngay trong đêm xảy ra án mạng, có người
xác nhận chính anh ta xuất hiện tại Bưu điện Cầu
Voi, nhưng đi về lúc nào, bằng phương tiện gì thì
không ai biết”
Ngay
trong chiều 14.1, các trinh sát hình sự Công an tỉnh Long
An đã triệu tập khẩn cấp một nghi can tên là Nguyễn
Văn Nghị, 28 tuổi (cư trú huyện Cai Lậy) tới CQĐT để
làm rõ mối quan hệ với nạn nhân Ánh Hồng, đặc biệt
là những dấu hiệu bất thường trong đêm xảy ra án
mạng. Theo các trinh sát thì nghi vấn lớn nhất là sau
khi xuất hiện tại Bưu điện Cầu Voi vào đêm 13.1, Nghị
đã đi đâu không rõ rồi đến chiều hôm sau mới trở
về nhà”.
Bài
“Vụ sát hại 2 nhân viên Bưu điện Cầu Voi: Xuất hiện
nhiều tình tiết mới” ngày 17-1-2008
Theo
lời khai ban đầu của Nghị, thì vào khoảng hơn 20 giờ
đêm 13.1, anh ta có "nhìn thấy một thanh niên khác
ghé vào Bưu điện Cầu Voi và người này cũng chính là
bạn trai của Hồng (?!)". Nghị nói: "Chỉ nghe
nói người thanh niên kia tên Trung, là kỹ sư đang làm
việc cho một công trình đi ngang qua địa bàn tỉnh Long
An. Còn quê quán, địa chỉ cụ thể thì không nắm
được". Thông tin này cũng được một nhân chứng
cung cấp tại cơ quan điều tra. Theo nhân chứng này,
người kỹ sư tên Trung cũng quen với nạn nhân Ánh Hồng,
ngoài ra, còn có một tài xế của cơ quan cấp tỉnh
thỉnh thoảng cũng hay ghé ăn cơm trưa tại bưu cục.
Một
nhân chứng khác ở thị xã Tân An cũng đã đến cơ quan
công an cung cấp thông tin: Vào khoảng hơn 20 giờ đêm
xảy ra án mạng, anh có vào Bưu điện Cầu Voi để mua
thẻ cào điện thoại di động. Lúc đầu anh thấy tại
phòng giao dịch chỉ có một nữ nhân viên; nhưng khi cô
này bước ra đưa thẻ cào cho anh thì anh nhìn thấy ở
phía trong còn có một thanh niên mặc áo khoác, quần
jeans ngồi quay mặt ra ngoài. Nhân chứng cam đoan, nếu
gặp lại anh sẽ nhận dạng được người thanh niên
này.
Báo
Người Lao Động ngày 17-1-2008, bài “Nghi can thứ 5 là
một kỹ sư xây dựng?”
“Liên
quan đến vụ hai nạn nhân bị giết tại Bưu điện Cầu
Voi – Long An, ngày 16-1, theo lời khai ban đầu của 4 nghi
can, trong đêm xảy ra vụ án còn có một nghi can thứ 5,
cao to, có nước da sáng, tóc xoăn, mặc quần jeans và áo
khoác rộng.
Người
này cũng là bạn trai của nạn nhân Nguyễn Thị Ánh
Hồng. Nghi can Nguyễn Văn Nghị khai khi vào bưu điện đã
thấy “tình địch” (biết mặt nhưng không rõ tên) đã
ngồi bên Hồng từ lâu. Nghị còn khai sau khi chạm trán
“tình địch”, anh ta bỏ ra ngoài và không quay trở lại
Bưu điện Cầu Voi cho đến sáng hôm sau.
Với
những đặc điểm mà Nghị đã miêu tả, nghi can Nguyễn
Văn Sol khai đó là Trung, một kỹ sư xây dựng, quê ở
tỉnh Bình Dương, đang thi công một công trình ở tỉnh
Long An. Sol cũng đã nhiều lần gặp người này và được
Hồng giới thiệu là bạn mới.
Toàn
bộ các tình tiết ở trên đã không có trong hồ sơ vụ
án. Vì sao?
.
Phần
VIII. Qui kết Hải phạm tội “cướp tài sản” không
đúng luật
.
Ngoài
tội danh giết người, Hải còn bị kết án về tội
“cướp tài sản”. Cáo Trạng kết luận về tội cướp
tài sản như sau: “Hải muốn quan hệ nhưng Hồng không
đồng ý, nên tức giận cắt cổ Hồng chết”, và “sợ
Vân phát hiện nên giết chết Vân”, “rồi cướp tài
sản của Hồng và Vân đem bán được 3.500.000 đồng”.
Theo
chúng tôi, Hồ Duy Hải không thể phạm tội cướp tài
sản - vì những lý do sau:
.
I.
Hành vi giết hai nạn nhân không thể bị xử cùng lúc 2
tội:
Theo
điều 133 BLHS, dấu hiệu tội cướp tài sản là “dùng
vũ lực, de dọa, dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có
hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình
trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt
tài sản”.
Đây
là tội phạm do lỗi cố ý, về mặt chủ quan người
phạm tội có mục đích chiếm đoạt tài sản từ trước.
Về mặt khách quan, để thực hiện mục đích này, phải
có hành vi dùng vũ lực/đe dọa dùng vũ lực hay có hành
vi khác làm cho nạn nhân không thể chống cự.
Tuy
nhiên, cả hai yếu tố trên, dấu hiệu bắt buộc để
cấu thành tội phạm - đều không thỏa.
Về
mặt chủ quan, khi giết hai nạn nhân Hải hoàn toàn không
có mục đích chiếm đoạt tài sản. Trong bản án và Cáo
trạng đều xác định Hải giết Hồng vì “tức giận”
do không đạt được ý định quan hệ sinh lý, còn động
cơ giết Vân là vì sợ bị Vân “phát hiện”.
Về
mặt khách quan: cho dù chính Hải là thủ phạm giết hai
nạn nhân, thì hành vi “bạo lực” đã bị truy tố và
xử về tội giết người. Như vậy, việc lấy ngay hành
vi giết người này để “áp dụng” tiếp thành điều
kiện cấu thành đối với tội cướp tài sản là không
đúng. Vì như vậy, cùng một hành vi đã cùng lúc bị
kết vào 2 tội là “giết người” và “cướp tài
sản”. Điều này vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc cơ
bản của khoa học hình sự.
Giả
sử rằng thực sự Hải đã lấy tài sản, thì rõ ràng
cũng chỉ nảy sinh ý định này sau khi đã giết chết
hai nạn nhân. Lúc này do hai nạn nhân đã chết (và Hải
biết rõ việc này) nên không còn khả năng bảo quản
tài sản của mình nữa. Như vậy, hành vi lấy tài sản
lúc này nếu so sánh ra bên ngoài thì là “lén lút”,
còn ngay trong bưu điện thì là “công nhiên”. Nên chỉ
có thể là dấu hiệu của tội “trộm cắp” (điều
168 BLHS) hoặc tội “công nhiên chiếm đoạt tài sản”
(điều 137 BLHS) mà thôi.
.
II.
Chưa đủ cơ sở kết luận về số tài sản bị cướp
là có thật hay không:
Theo
bản án, Hải đã chiếm đoạt được tài sản của hai
nạn nhân và sau đó đem đi tiêu thụ. Cụ thể, Hải đã
lấy những tài sản sau:
Về
nữ trang: lấy của Vân: 1 dây chuyền, 1 vòng đeo tay
vàng và 01 nhẫn. Hồng: 1 đôi bông tai, 1 dây chuyền
vàng, 1 lắc đeo tay và 2 nhẫn vàng kiểu”. Sau đó
đem bán tại Cửa hàng vàng bạc chợ An Đông được
3.500.000 đồng”.
Tài
sản khác: “điện thoại Nokia 1100, bán cho tiệm
Thiện Mỹ được 200.000 đồng” và “khoảng 40-50
sim điện thoại” sau đó “bỏ vào bọc rác phi tang
gần nhà số 111/2 Trần Bình Trọng, Q5”.
Bản
án nhận định kết luận trên “Phù hợp với lời khai
của anh Nguyễn Văn Mừng, Nguyễn Văn Hộ, Lê Thị
Thu Hiếu, Nguyễn Mi Sol, Đinh Phú Hùng, Đặng Thị
Phương Thảo là những người thân của 2 bị hại”.
Tuy nhiên, hồ sơ vụ án cho thấy thực chất không hề
có sự “phù hợp”. Cụ thể:
Về
tài sản của Hồng, bản án nói Hải lấy “1 lắc đeo
tay”, có sự khác biệt về kiểu dáng. Theo ông Mừng
(ba Hồng) và chị Hiếu thì Hồng có “1 chiếc lắc gọng
vàng cứng”. Nhưng anh Nguyễn Mi Sol, tại “BB ghi lời
khai” lại khai Hồng có “1 cái lắc kiểu trái châu móc
máy”. Còn Hải khai lấy của Hồng “1 vòng đeo tay dạng
xích”.
Về
tài sản của Vân: Bản án nói Hải lấy: “1 vòng đeo
tay và 01 nhẫn”. Nhưng theo ông Hộ (ba Vân), chị Hiếu
và anh Mi Sol - thì Vân có “1 đôi bông tai và 1 sợi dây
chuyền”- không hề có vòng đeo tay. Như vậy bản án đã
kết luận Hải lấy tài sản mà Vân không có (?).
Chưa
kể theo “Biên bản xét nghiệm ở hiện trường” (BL
45), thì két sắt bưu cục vẫn còn chùm chìa khóa và
trong đó vẫn còn: “2 nhẫn vàng và 893.000 đồng”. Như
vậy 2 chiếc nhẫn này của ai? Sao lại cho rằng Hải đã
lấy?
.
III.
Việc tiêu thụ tài sản không rõ ràng:
Theo
Cáo trạng, Hải bán nữ trang tại “Cửa hàng vàng
bạc đá quý chợ An Đông” và cửa hàng “có làm
hóa đơn nhưng Hải vứt bỏ sau đó. Nhưng chị Nguyễn
Kim Chi, người giao dịch (tại BL 169, 170) khai “không
thể xác định, không nhớ được” ai là người
bán. Còn bà Đặng Thị Liên, chủ cửa hàng thì cho biết
“ khi mua chỉ viết giấy tính tiền”, không có hóa
đơn. (BL 171, 172).
Chiếc
điện thoại Nokia 1100: ban đầu Hải khai bán cho một
thanh niên lạ mặt, sau đó khai bán cho cửa hàng ĐTDĐ
không nhớ tên. Theo Cáo trạng, Hải bán điện thoại cho
Cửa hàng điện thoại di động Thiện Mỹ. Nhưng bà
Nguyễn Thị Huệ – chủ tiệm Thiện Mỹ khai “không
nhớ được người bán”. (BL 178, 179).
Như
vậy, rõ ràng không hề có sự “phù hợp” như Cáo
trạng đã nêu.
Kính
thưa Quí cơ quan,
Việc
Hồ Duy Hải một mực kêu oan tại cả hai phiên tòa sơ
thẩm và phúc thẩm là có thật, được báo chí phản
ánh.
Theo
Điều 72 BLTTHS, “lời nhận tội của bị can, bị
cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ, nếu phù hợp
với các chứng cứ khác của vụ án”.
Xét
rằng, gần như toàn bộ lời khai nhận tội của Hải
đều không phù hợp với hiện trường, với kết quả
giám định và lời khai của các nhân chứng khác. Trong
thực tế đó, việc các cơ quan tiến hành tố tụng đồng
loạt đánh giá là “hoàn toàn phù hợp” và trong bản
án phúc thẩm xác định “cho dù quá trình điều tra có
những thiếu sót về tố tụng nhưng không nghiêm trọng”
– khiến cho những người có kiến thức pháp luật như
chúng tôi cảm thấy không an tâm và bức xúc.
.
Qua
những điều trình bày trên, chúng tôi cho rằng trong vụ
án này:
.
-
Việc xét xử phiến diện, thiếu khách quan, bất chấp
kết quả giám định khoa học, bỏ qua tình tiết ngoại
phạm của bị cáo.
.
- Kết luận trong bản án không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án.
.
- Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, làm sai lệch hồ sơ vụ án.
.
- Áp dụng pháp luật không đúng, xét xử sai tội danh.
.
Với tư cách là một luật sư, có trách nhiệm tôn trọng sự thật khách quan, đấu tranh vì công bằng xã hội, vì sự nghiêm minh của pháp luật, căn cứ theo các điều 273 và 274 Bộ luật tố tụng hình sự, nay tôi có văn bản này, kính đề được Quí cơ quan xem xét, kháng nghị bản án số 281/2009/HSPT của Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại TP. HCM theo thủ tục giám đốc thẩm - để có điều kiện điều tra, xem xét và xét xử lại một cách khách quan và toàn diện hơn, tránh làm oan cho Hồ Duy Hải cũng như có thể bỏ lọt hung thủ thực sự.
.
- Kết luận trong bản án không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án.
.
- Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, làm sai lệch hồ sơ vụ án.
.
- Áp dụng pháp luật không đúng, xét xử sai tội danh.
.
Với tư cách là một luật sư, có trách nhiệm tôn trọng sự thật khách quan, đấu tranh vì công bằng xã hội, vì sự nghiêm minh của pháp luật, căn cứ theo các điều 273 và 274 Bộ luật tố tụng hình sự, nay tôi có văn bản này, kính đề được Quí cơ quan xem xét, kháng nghị bản án số 281/2009/HSPT của Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại TP. HCM theo thủ tục giám đốc thẩm - để có điều kiện điều tra, xem xét và xét xử lại một cách khách quan và toàn diện hơn, tránh làm oan cho Hồ Duy Hải cũng như có thể bỏ lọt hung thủ thực sự.
.
Kính
mong được xem xét. Xin chân thành cám ơn.
.
Người
đề nghị
(Luật sư Trần Hồng Phong, đã ký)
(Luật sư Trần Hồng Phong, đã ký)
.
----------------------
Đính
kèm:
-
Cáo trạng & Kết luận điều tra.
- Bản án sơ thẩm và phúc thẩm.
- Các bài báo về vụ án, phản ánh các dấu hiệu vi phạm tố tụng
- Bản án sơ thẩm và phúc thẩm.
- Các bài báo về vụ án, phản ánh các dấu hiệu vi phạm tố tụng
.
Được
đăng bởi Nguyễn
Tường Thụy vào lúc 11/30/2014
06:25:00 CH
.
------------------------
.
.
.
No comments:
Post a Comment