"Sự
hoài nghi về lòng trung thành khi chưa 'có lửa để thử
vàng' thì cũng có thể sai lầm. Vì vậy, nếu vấn đề
hòa hợp và hòa giải dân tộc không được nghiêm chỉnh
thảo luận giữa những người, tuy từng cầm súng bắn
nhau trong chiến tranh nhưng biết tôn trọng giá trị của
nhau thì dân tộc sẽ mãi mãi mắc mưu chia rẽ của Cộng
sản. Do đó vấn đề khẩn trương và quan trọng của đất
nước hiện nay là làm thế nào đoàn kết được
trong-ngoài giữa người Việt Nam cùng lý tưởng để đấu
tranh loại đảng CSVN ra khỏi độc quyền lãnh đạo, để
Việt Nam có dân chủ tự do và để cứu được dân tộc
ra khỏi đói nghèo, chậm tiến và lạc hậu chứ không
phải là lúc tranh luận về lòng yêu nước ai hơn
ai..."
*
Vấn đề làm sao mà người Việt Nam có thể quên đi quá khứ, xóa bỏ hận thù do chiến tranh gây ra để đoàn kết xây dựng đất nước đã được viết trong “Hiệp định chấm dứt Chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” do 4 bên tham chiến: Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hòa, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam ký kết tại Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973.
*
Vấn đề làm sao mà người Việt Nam có thể quên đi quá khứ, xóa bỏ hận thù do chiến tranh gây ra để đoàn kết xây dựng đất nước đã được viết trong “Hiệp định chấm dứt Chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” do 4 bên tham chiến: Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hòa, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam ký kết tại Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973.
Từ
đó đến nay (2014) đã 41 năm mà người Việt Nam ở hai
bờ chiến tuyến vẫn còn xa cách như khi chiến tranh chưa
kết thúc ngày 30/04/1975 phải có nguyên nhân.
Lỗi
này, trước hết và duy nhất phải quy kết vào trách
nhiệm của đảng và nhà nước Cộng sản mang danh Việt
Nam Dân chủ Cộng Hòa ở miền Bắc và những người Việt
miền Nam đi theo Cộng sản được đại diện bởi Chính
phủ Lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam, hay Mặt trận
Dân tộc giải phóng miền Nam.
Tại
sao?
Bởi
vì Hiệp định Paris đã nói rõ trong Chương IV về “VIỆC
THỰC HIỆN QUYỀN TỰ QUYẾT CỦA NHÂN DÂN MIỀN NAM VIỆT
NAM” gồm những Điều rất rõ như sau:
Điều
9:
Chính
phủ Hoa Kỳ và Chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng Hòa
cam kết tôn trọng những nguyên tắc thực hiện quyền tự
quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam dưới đây:
a)
Quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam là
thiêng liêng, bất khả xâm phạm và phải được tất cả
các nước tôn trọng.
b)
Nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai
chính trị của miền Nam Việt Nam thông quan tổng tuyển
cử thật sự tự do và dân chủ, có giám sát quốc tế.
c)
Các nước ngoài sẽ không được áp đặt bất cứ xu
hướng chính trị hoặc cá nhân nào đối với nhân dân
miền Nam Việt Nam.
Điều
10:
Hai
bên miền Nam Việt Nam cam kết tôn trọng ngừng bắn và
giữ vững hòa bình ở miền Nam Việt Nam; giải quyết các
vấn đề tranh chấp bằng thương lượng và tránh mọi
xung đột bằng vũ lực.
Điều
11:
Ngay
sau khi ngừng bắn, hai bên miền Nam Việt Nam sẽ:
-
Thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc, xóa bỏ thù
hằn, cấm mọi hành động trả thù và phân biệt đối
xử với những cá nhân hoặc tổ chức đã hợp tác với
bên này hoặc bên kia;
-
Bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân: tự
do cá nhân, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội
họp, tự do tổ chức, tự do hoạt động chính trị, tự
do tín ngưỡng, tự do đi lại, tự do cư trú, tự do làm
ăn sinh sống, quyền tư hữu tài sản và quyền tự do
kinh doanh.
Điều
12:
a)
Ngay sau khi ngừng bắn, hai bên miền Nam Việt Nam sẽ hiệp
thương trên tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc, tôn
trọng lẫn nhau và không thôn tính nhau để thành lập Hội
đồng quốc gia hòa giải và hòa hợp dân tộc gồm ba
thành phần ngang nhau (các bên ký kết hiểu với nhau
gồm có: Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, Lực lượng thứ
ba - hay phe Dương Văn Minh -, Chính phủ Cộng Hòa miền Nam
Việt Nam). Hội đồng sẽ làm việc theo nguyên tắc
nhất trí. Sau khi Hội đồng quốc gia hòa giải và hòa
hợp dân tộc nhậm chức, hai bên miền Nam Việt Nam sẽ
hiệp thương để thành lập các hội đồng cấp dưới.
Hai bên miền Nam Việt Nam sẽ ký một hiệp định về các
vấn đề nội bộ của miền Nam Việt Nam càng sớm càng
tốt, và sẽ làm hết sức mình để thực hiện việc này
trong vòng chín mươi ngày sau khi ngừng bắn có hiệu lực,
phù hợp với nguyện vọng của nhân dân miền Nam Việt
Nam là hòa bình, độc lập và dân chủ.
b)
Hội đồng quốc gia hòa giải và hòa hợp dân tộc có
nhiệm vụ đôn đốc hai bên miền Nam Việt Nam thi hành
Hiệp định này, thực hiện hòa giải và hòa hợp dân
tộc, bảo đảm tự do dân chủ. Hội đồng quốc gia hòa
giải và hòa hợp dân tộc sẽ tổ chức tổng tuyển cử
tự do và dân chủ như đã nói trong Điều 9(b) và quy định
thủ tục và thể thức của cuộc tổng tuyển cử này.
Các cơ quan quyền lực mà cuộc tổng tuyển cử đó sẽ
bầu ra sẽ do hai bên miền Nam Việt Nam thông qua hiệp
thương mà thỏa thuận. Hội đồng quốc gia hòa giải và
hòa hợp dân tộc cũng sẽ quy định thủ tục và thể
thức tuyển cử địa phương theo như hai bên miền Nam
Việt Nam thỏa thuận.
Điều
13:
Vấn
đề lực lượng vũ trang Việt Nam ở miền Nam Việt Nam
sẽ do hai bên miền Nam Việt Nam giải quyết trên tinh thần
hòa giải và hòa hợp dân tộc, bình đẳng và tôn trọng
lẫn nhau, không có sự can thiệp của nước ngoài, phù
hợp với tình hình sau chiến tranh. Trong số những vấn
đề hai bên miền Nam Việt Nam thảo luận có các biện
pháp giảm số quân của họ và phục viên số quân đã
giảm. Hai bên miền Nam Việt Nam sẽ hoàn thành việc đó
càng sớm càng tốt.
Điều
14:
Miền
Nam Việt Nam thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình,
độc lập. Miền Nam Việt Nam sẵn sàng thiết lập quan hệ
với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính
trị và xã hội trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ
quyền của nhau và nhận viện trợ kinh tế, kỹ thuật
của bất cứ nước nào không kèm theo điều kiện chính
trị. Vấn đề nhận viện trợ quân sự sau này cho miền
Nam Việt Nam sẽ thuộc thẩm quyền của chính phủ được
thành lập sau tổng tuyển cử ở miền Nam nói trong Điều
9(b).
Sự
thật phũ phàng
Trên
giấy trắng mực đen là như thế với chữ ký cam kết
của 4 bên gồm: Bộ trưởng Ngoại giao William P. Rogers
(Hoa Kỳ), Trần Văn Lắm (Việt Nam Cộng Hòa), Bộ trưởng
Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh (Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa)
và Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Thị Bình (Chính phủ
Cách mạng Lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam).
Nhưng
trong thực tế trên chiến trường vào thời điểm này,
ngót 300,000 quân đội miền Bắc vẫn hành quân trên lãnh
thổ Việt Nam Cộng Hòa trong khi Quân đội Hoa Kỳ và đồng
minh phải rút hết khỏi miền Nam Việt Nam.
Từ
đó Quân lực Việt Nam Cộng Hòa phải tiếp tục chiến
đấu một mình với sự viện trợ rất hạn chế về vũ
khí và lương thực của Hoa Kỳ.
Theo
các tài liệu của Quốc tế phổ biến trên Internet thì
vào năm 1973, Việt Nam Cộng Hòa có 450.000 quân chủ lực
và hơn 700.000 quân địa phương và dân vệ. Quân Đội
Cộng sản Nhân Dân Việt Nam có 525.000 quân (Hoa Kỳ ước
đoán 500.000-600.000), kể cả lối 220.000 trong số đó đang
có mặt ở miền Nam.
Tuy
nhiên về hỏa lực thì quân đội Cộng sản có số lượng
gấp 3 lần hơn vũ khí và đạn được của quân đội
miền Nam vì Liên bang Sô viết do Nga cầm đầu và Trung
Cộng vẫn tiếp tục đổ súng đạn và lương thực vào
miến Bắc để vượt Trường Sơn vào tiếp tế cho chiến
trường miền Nam.
Ngược
lại vì ràng buộc bởi Hiệp định Paris 1973, chính phủ
Hoa Kỳ đã bị Quốc hội hạn chế viện trợ cho miền
Nam Việt Nam từ 2 tỷ mỗi năm xuống còn 600 triệu, sau
ngày ký Hiệp định Paris 1973.
Sau
đó số tiền này bị chận lại ở Quốc hội khi phía Mỹ
thấy tình hình mất Việt Nam Cộng Hòa vào tay quân đội
miền Bắc không còn cứu vãn được nữa, sau cuộc tấn
công của lực lượng miền Bắc vào thành phổ Ban Mê
Thuột ngày 10 tháng 3/1975, mở đầu cho Chiến dịch Tây
Nguyên mang “mật danh Chiến dịch 275”.
Hành
động tiếp tục chiến tranh xâm lăng miền Nam ngay trong
lúc đàm phán để sau này miền Bắc chà đạp lên quyền
tự quyết của nhân dân hai bên miền Nam ghi trong Hiệp
định Paris 1973, đã được Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hà
thuộc Viện Lịch sử Đảng xác nhận trong bài viết
“Hoạt động quân sự trên chiến trường
miền Nam 1968-1973” vào dịp Kỷ niệm 40 năm ngày
ký Hiệp định Paris về Việt Nam của Tạp chí Thế
giới-Việt Nam (The World & Vietnam report) thuộc Bộ Ngoại
giao Hà Nội ngày 31/01/2013.
Ông
viết: "Ngày 23/3/1972, Bộ Chính trị thông qua phương
án của Quân ủy Trung ương, quyết định mở cuộc tiến
công chiến lược năm 1972, lấy Trị Thiên làm hướng
tiến công chủ yếu. Đông Nam Bộ và Tây Nguyên là hướng
phối hợp.
Ngày
30/3/1972, quân ta nổ súng ở Trị Thiên, mở màn cho cuộc
tiến công chiến lược 1972. Ngày 2/5/1972, ta giải phóng
tỉnh Quảng Trị. Đây là thắng lợi quân sự rất quan
trọng, có ý nghĩa trong năm bản lề 1972 có nhiều sự
kiện quân sự, ngoại giao lớn đan xen. Đó là hai chuyến
thăm Trung Quốc (2/1972), Liên Xô (5/1972) của Tổng thống
Mỹ Nixon gây chia rẽ và bất lợi cho cuộc kháng chiến
của nhân dân ta. Đó là việc Mỹ tiến hành cuộc chiến
tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân,
thả mìn, thủy lôi phong tỏa các cảng, cửa sông, cửa
biển của miền Bắc từ 6/4/1972 với quy mô và cường độ
ác liệt hơn trước, gây khó khăn cho vận chuyển tiếp
tế cho miền Nam cả đường bộ và đường thủy.
Cuộc
tiến công chiến lược ở Trị Thiên và Đông Nam Bộ,
Tây Nguyên đã giành được những thắng lợi rất quan
trọng song cũng chịu nhiều tổn thất hy sinh (đặc biệt
là trận chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị 81
ngày đêm, từ 25/6 đến 16/9/1972), đã tạo điều kiện
cho đấu tranh ngoại giao thu được kết quả. Đoàn đàm
phán Việt Nam tại Hội nghị Pari đã chủ động có bước
đột phá, đưa ra bản dự thảo Hiệp định về chấm
dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (10/1972),
đẩy Mỹ vào thế bị động, lúng túng, phải đi vào đàm
phán thực chất.
Đặc
biệt, quân và dân miền Bắc, chủ yếu là Hà Nội, Hải
Phòng, đã đánh bại cuộc tập kích đường không chiến
lược bằng máy bay B52 trong 12 ngày đêm cuối năm 1972 của
Mỹ, làm nên trận "Điện Biên Phủ trên không".
Đây là thắng lợi quân sự lớn nhất, góp phần quyết
định buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari ngày 27/1/1973,
rút hết quân Mỹ và quân đồng minh của Mỹ về nước,
mở ra thời cơ chiến lược để quân và dân ta tiến lên
"đánh cho ngụy nhào" vào mùa Xuân năm 1975, giải
phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, kết
thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ
đại của dân tộc.”
Hệ
lụy của chiến thắng
Nhưng
nhóm chữ “giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất
đất nước” đã nói lên được điều gì?
Thứ
nhất, đó là hành động tự nhổ bọt vào chữ ký
của hai Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh và Nguyễn
Thị Bình.
Thứ
hai, nó đã gây ra tình trạng chia rẽ và hận thù
dân tộc do đảng CSVN gây ra cho nhân dân miền Nam Việt
Nam.
Hàng
loạt những chủ trương trả thù quân nhân Việt Nam Cộng
hòa, công chức, các chính đảng Quốc gia và Văn nghệ sĩ
miền Nam đã được thi hành để đem hàng trăm ngàn con
người vào các trại tập trung tù đầy khổ cực được
mệnh danh “Cảo tạo” giả đạo đức. Nhiều ngàn
người đã chết mất xác tại các trại tập trung lao
động khổ sai này.
Thứ
ba, khi Thủ tướng Võ Văn Kiệt nói vào năm 2005
rằng: "Chiến thắng của chúng ta là vĩ đại,
nhưng chúng ta cũng đã phải trả giá cho chiến thắng đó
bằng cả nỗi đau và nhiều mất mát. Lịch sử đã đặt
nhiều gia đình miền Nam rơi vào hoàn cảnh có người
thân vừa ở phía bên này, vừa ở phía bên kia, ngay cả
họ hàng tôi cũng như vậy. Vì thế, một sự kiện liên
quan đến chiến tranh khi nhắc lại có hàng triệu người
vui mà cũng có hàng triệu người buồn” thì ông đã
nghỉ hưu, không còn tác động gì đến lớp người cầm
quyền nữa.
Bởi
vì lời nói, tuy tâm huyết, có suy tư của một người
Lãnh đạo gốc miền Nam đã từng mất vợ và con trong
cuộc oanh kích của máy bay trên một nhánh sông gần Bình
Dương đã quá muộn, không sao hàn gắn được vết
thương chiến tranh mà người miền Nam là nạn nhân.
Thứ
bốn, danh từ “giải phóng” miền Nam của bộ
đội Cộng sản miền Bắc Cộng sản, vì vậy sẽ không
bao giờ có thế trả hết nợ đối với hàng chục ngàn
phụ nữ Việt Nam đã bị Hải tặc cưỡng hiếp rồi
quăng xác xuống biển hay bắt đi bán cho các động Mãi
Dâm trong vùng Đông Nam Á. Ngàn người dân bình thường
khác, trong đó có vô số trẻ em, người già cũng đã
chết chìm trên Biển Đông trên đường trốn Cộng sản
tìm tự do sau ngày ngày 30/04/1975.
Tuy
nhiên người dân ở miền Bắc và ngay cả trong các vùng
được gọi là “giải phóng” trong Nam khi còn chiến
tranh cũng chẳng may mắn gì hơn đồng bào miền Nam. Họ
cũng đã phải gánh chịu những mất mát khôn lường
trong cuộc chiến 20 năm huynh đệ tương tàn bi thảm này.
Có
ai biết được đã có bao nhiêu triệu bà mẹ mất con,
người vợ mất chồng, hay thanh niên-thiếu nữ tuấn tú
đã bỏ xác tại các chiến trường hay dọc đường
Trường Sơn trên đường vào Nam?
Những
nấm mồ hoang hay nắm xương khô của người dân Việt
Nam-Bắc đã tan nát vào lòng đất Việt Nam đã nói lên
được điều gì đối với những người còn sống hôm
nay?
Vì
vậy, ta không ngạc nhiên khi thấy ông Thủ tướng Võ Văn
Kiệt đã nói vào năm 2005 rằng: “Đó là một vết
thương chung của dân tộc cần được giữ lành thay vì
lại tiếp tục làm nó thêm rỉ máu. Cho nên tinh thần hòa
hợp dân tộc phải được coi trọng. Chúng ta còn nhớ,
sau ngày 30-4-1975, khi đồng chí Lê Duẩn vào Sài Gòn, vừa
xuống thang máy bay, đồng chí nắm tay đưa lên cao, giọng
đầy cảm xúc: “Đây là thắng lợi của cả dân tộc,
không phải của riêng ai!”
Nhưng
trong suốt 40 năm qua những người lãnh đạo CSVN từ thời
Trường Chinh Đặng Xuân Khu đến Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng là 6 người, thử hỏi họ đã làm gì để hàn gắn
vết thương dân tộc, cải thiện đời sống cho dân hay
vẫn tạo ra những bất công trong đời sống hàng ngày,
kỳ thị kẻ thắng người thua và nuôi dưỡng hận thù
để bảo vệ đặc quyền đặc lợi cho đàng CSVN?
Bằng
chứng trong đời sống hiện nay, sau gần 30 năm được
gọi là “đổi mới” (1986-2014), hai tầng lớp công nhân
và nông dân là thành trì của “cách mạng vô sản” đã
hy sinh xương máu giúp cho đảng CSVN tồn tại và độc
quyền cai trị đất nước lại vẫn là tầng lớp phải
chịu thiệt thòi và kém may mắn nhất trong xã hội Việt
Nam ngày nay.
Tương
lai ở đâu?
Vậy
tương lai của con cháu họ sẽ đi về đâu trong vũng bùn
đói, nghèo, lạc hậu, chậm tiến và kéo dài xung đột
địa phương trong khi Việt Nam đang mất dần biển đảo
vào tay Trung cộng ở Biển Đông?
Tình hình bế tắc này chỉ có thể mở ra bằng con đường duy nhất là Việt Nam phải có dân chủ và tự do và đoàn kết, hòa hợp, hòa giải dân tộc để xây dựng đất nước.
Những
hành động bóp nghẹt tự do dân chủ, không cho dân được
quyền nói lên suy nghĩ của mình và hạn chế những quyền
cơ bản con người chỉ làm kiệt quệ sinh lực dân tộc
và làm mồi cho ngoại bang cai trị bằng cách này hay cách
khác, trực tiếp hay gián tiếp qua tay sai và bởi những
lãnh đạo nhu nhược.
Lãnh
đạo CSVN cần phải chui ra khỏi “vỏ sò của trí tuệ”
lạc hậu chủ nghĩa để thấy đất nước và nhân dân
đang đòi hỏi một cuộc Cách mạng xã hội để tự chủ,
tự cường và bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ và tài
nguyên của đất nước.
Nhà
nước phải biết lắng nghe tiếng nói thiện chí và chấp
nhận những đóng góp của mọi tầng lớp nhân dân để
xây dựng đất nước. Đảng CSVN không thế cứ nói “nhà
nước ta là nhà nước pháp quyền, của dân, do dân và vì
dân” mà lại tước đoạt quyền làm chủ đất nước
của người dân như đã diễn ra trong quá khứ và đang
xảy ra trên mọi lĩnh vực trong hiện tại.
Lãnh
đạo đảng CSVN cũng phải biết không có gì trên cõi đời
này tồn tại mãi mãi. Cuộc đời có sinh thì phải có tử
như đã xẩy đến cho Thế giới Cộng sản do Nga lãnh đạo
trong thời gian từ 1989 đến 1991 ở Mạc Tư Khoa và tại
các nước theo Xã hội Chủ nghĩa Cộng sản Đông Âu.
Hai
văn kiện “Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lện Xã hội Chủ nghĩa” (bổ sung và
phát triển năm 2011) và Hiến pháp sửa đồi năm 2013 vẫn
kiên định lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng (Cộng
sản) của Hồ Chí Minh làm nền tảng xây dựng đất nước
đang kéo đất nước lùi lại và ngăn chặn bước tiến
của dân tộc.
Lãnh
đạo đảng và nhà nước chắc phải biết rõ tại sao
nhân dân Nga và hàng triệu người dân khác ở Đông Âu
đã vùng lên lật đổ bạo quyền, phi dân chủ và độc
tài để tự cởi trói và dân chủ hóa đất nước?
Bằng
chứng của tư duy lạc hậu, tiếp tục cù nhầy để “cố
đấm ăn xôi Trung cộng” và tự trói mình chỉ tiếp tục
tác hại đến tiền đồ của Tổ quốc mà thôi.
Đó
chính là lý do mà mấy năm gần đây, các Tổ chức dân
sự tự nguyện thành lập của nhiều tầng lớp nhân dân
đã ra đời ở Việt Nam để dành lại quyền làm chủ
đất nước.
Nếu
năm 1975, Tổng Bí thư Lê Duẩn nói ngày 30/4/1975 là “thắng
lợi của cả dân tộc, không phải của riêng ai” thì
có lẽ không ai nghĩ ông đã nói dối vì sau đó cũng
chính ông và Bộ Chính trị đã đưa ra quyết định đày
đọa dân-quân Việt Nam Cộng hòa xuống tận bùn đen để
cho “vượn nhảy lên bàn thờ”, xóa bỏ hệ thống kinh
tế phồn thịnh của miền Nam và phá sạch nếp văn hóa
nhân bản của 25 triệu người dân miền Nam.
Những
nỗi đau oan nghiệt của đại đa số người dân hai miền
Nam-Bắc nói mãi cũng không hết, nhưng làm gì để thay
đổi mới là vấn đề của tất cả con dân Việt Nam
trong và ngoài nước bây giờ.
Bởi
lẽ nếu mọi người cứ ngồi nguyền rủa bóng tối mà
mỗi người không đốt lên một ngọn nến hay ngọn đèn
dầu thì biết đến bao giờ mới tìm ra ánh sáng ở cuối
đường hầm?
Thông
điệp đòi tự do và một chế độ dân chủ từ mấy năm
qua đã bung ra ở Việt Nam bởi các Nhà báo độc lập,
các nhà trí thức, cựu đảng viên, và một số tướng
lĩnh trong Quân đội CSVN hoạt động Dân chủ, đấu tranh
đòi quyền sống con người và bảo vệ nhân quyền.
Tuy
kết quả vẫn còn hạn chế nhưng những người can đảm
thành lập các tổ chức dân sự xã hội vẫn không nản
chí và tiếp tục dấn thân, bất chấp bị công an, côn
đồ khống chế, tấn công, xuyên tạc hay bị phạt tù
bất công trong nhiều năm.
Họ
rất cần sự tiếp tay của mọi người Việt Nam trong và
ngoài nước để tạo thành một phong trào quần chúng đòi
lại quyền làm chủ đất nước và xóa bỏ độc tài
Cộng sản.
Trường
hợp Điếu Cày Nguyễn Văn Hải
Một
trong những người tù lương tâm này là Nhà báo tự do
Điếu Cày Nguyễn Văn Hải. Ông mới bị trục xuất ra
khỏi Việt Nam ngày 20/10/2014 sau 6 năm 6 tháng bị hành hạ,
đày đọa qua 11 nhà tù từ Nam ra Bắc.
Một
số đông đồng hương người Việt đã tự ý ra phi
trường Los Angeles tối 2/10/2014 đón ông trong không khí
nồng ấm đầy tình người với nhiều Cờ Vàng 3 Sọc đỏ
mang theo. Nhưng chỉ ít ngày sau, một làn sóng dữ của dư
luận đã cáo buộc ông đã từ chối nhận lá cờ Vàng 3
Sọc Đỏ của Việt Nam Cộng hòa, và coi ông đã “không
muốn đứng vào hàng ngũ những người đã đấu tranh cho
ông và những người tù lương tâm khác.”
Tuy
nhiên, câu chuyện đã không được nói đúng như những
gì đã xảy ra khiến cho vấn đề “hòa hợp, hòa giải
dân tộc” giữa người Việt ở 2 bờ chiến tuyến gặp
nhiều khó khăn.
Trong
cuộc phỏng vấn của Thông tín viên Mặc Lâm đài Á Châu
Tự do (RFA) ngày 29/10/20134, Ông Ngô Chí Thiềng, người
chứng kiến sự việc ngay từ đầu cho biết những gì
ông thấy:
“Hôm
đó tôi cũng có mặt ở đó để đi đón anh Điếu Cày.
Nói thực ra là đồng bào rất háo hức rất nhiều người
mang theo cờ. Cá nhân tôi không biết là có nên mang cờ
theo hay không vả lại mình cũng nghĩ nhiều khi tế nhị
nhưng khi tới nơi thì tôi thấy rất nhiều cờ. Trước
khi anh Điếu Cày xuất hiện thì chúng tôi nói chuyện gặp
gỡ nhau, đi tới đi lui vòng vòng.
Đùng
một cái ông Điếu Cày và hai người Hoa Kỳ trong Bộ
ngoại giao đi theo với ông Điều Cày đi ra bằng một
cổng khác, đi bọc hậu đàng sau lưng mình. Tất cả mọi
người bu vô rất đông, người thì sờ anh Điếu Cày,
người thì cầm bao thư đưa tiền, tôi biết chắc là anh
Điếu Cày khi đó mệt mỏi lắm mà bà con người thì
muốn sờ tay người thì muốn sờ lưng ổng, đập đập
ổng muốn giúi cho ổng bao thư.
Người
thì cầm cờ Mỹ người thì cầm cờ vàng... Người cầm
cờ vàng thì đưa lên thôi chứ không thấy người nào
đưa vào mặt bảo ảnh cầm cả. Tôi chỉ đứng cách anh
Điếu Cày chừng 4 người thôi. Lúc đó anh Điếu Cày
quay sang bên trái của tôi còn anh Truật đưng ngay bên
phải của anh Điếu Cày mới đưa lá cờ lên. Anh Điếu
Cày lúc ấy chưa nhìn thấy. Trước khi giơ lá cờ thì
anh Truật vỗ vai anh Điếu Cày nhưng anh ấy vẫn không
quay lại anh Truật lại đưa lá cờ lên nhưng ngay khi ấy
anh chàng Mỹ đi theo bảo vệ anh Điếu Cày rất vất vả
đề đẩy những cánh tay ra ngoài tại vì họ sợ nhỡ có
ai làm gì bậy bạ thì sao? Tôi thấy anh ta đẩy lá cờ
qua tay phải của anh Điếu Cày thì anh Truật ảnh thấy
vậy ảnh chỉ rút là cờ lại và ảnh cười.”
Mặc
Lâm viết tiếp: “Ông Đinh Quang Truật, người cầm lá
cờ đưa cho ông Điếu Cày Nguyễn Văn Hải thuật lại sự
việc cũng giống với những gì mà nhân chứng kể, ông
Truật nói:
Tên
tôi là Đinh Quang Truật nguyên là cựu sĩ quan hải quân
Quân lực VNCH. Tôi và một số anh em có mang theo một số
cờ quốc gia và một ít cờ Mỹ, mục đích là tới có
hình thức chào đón anh Điếu Cày cho nó được long
trọng.
Chính
tôi cầm một số cờ đó tôi phân phát cho đồng hương
tới đón anh Điếu Cày. Khi anh xuất hiện có một số bà
con bảo tôi anh cố gắng anh đưa lá cờ cho anh ấy...
thành ra tôi cũng cố gắng len lỏi đám đông đang vây
anh Điếu Cày. Ngoài bà con vây anh Điếu Cày còn một số
phóng viên của các đài và lúc đó anh đang tập trung trả
lời phỏng vấn. Tôi vỗ vai anh ấy để anh chú ý và anh
ấy hơi quay ngang về phía tôi một chút. Lúc ấy người
nhân viên Bộ Ngoại giao bảo vệ cho anh ấy gạt tay tôi
ra.
Trong
lòng tôi nghĩ rất thành thật như thế này thái độ của
anh Điếu Cày cũng như động tác của anh nhân viên Bộ
ngoại giao thì tôi không coi đó là sự khước từ việc
cầm lá cờ vì tôi nghĩ rằng lúc đó anh Điếu Cày được
đồng bào vây kín như là nêm cối. Anh Điếu Cày có đưa
tay lên để lấy lá cờ cũng khó vì lúc ấy anh đang tập
trung trả lời phỏng vấn của các phóng viên.”
Câu
chuyện giản dị chỉ có thế thôi, nhưng tiếng lành thì
ít là tiếng dữ lại bay xa khiến cho có nhiều người
Việt Nam ở Hoa Kỳ và một số nơi khác đã “tam quốc
diễn nghĩa” với nhiều thêu vẽ làm cho vấn để nghiêm
trọng và gây tranh cãi mất nhiều công sức của người
tham gia.
Thậm
chí có người còn đặt cả điều kiện tiên quyết “nếu
không đứng chào cờ nghiêm chỉnh, không nhận lá cờ
Vàng 3 Sọc Đỏ” thì sẽ không được tiếp xúc, dù
anh Điếu Cày chỉ muốn đến để cảm ơn!
Và
tại cuộc gặp gỡ đồng hương tại Washington D.C, tối
ngày 23/11/2014, có một số người đã chất vấn anh Hải
như “tra khảo” quyết liệt không kém như anh bị lấy
cung tại các nhà giam Việt Nam!
Tôi ngồi nghe mà trong lòng nghẹn ngào để nhớ lại 4 trường hợp lịch sử đã xảy ra trong chiến tranh Việt Nam cũng liên quan đến “là cờ và lòng con người”.
-
Trường hợp thứ nhất ở ngay trong Dinh Độc Lập thời
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, khi người Phụ tá Chính
trị của Tổng thống là Vũ Ngọc Nhạ bị phát giác là
“điệp viên của Cộng sản” gài vào Dinh để thu góp
tin tức cho Hà Nội.
Chắc
hẳn đã nhiều lần trong đời ở miền Nam thì Vũ Ngọc
Nhạ, sau 1975 lên chức Thiếu tướng tình báo Cộng sản,
đã đứng nghiêm chào lá Quốc kỳ Việt Nam Cộng Hòa!
-
Trường hợp thứ hai là Nhà “siêu tình báo chiến lược”
đội lốt Nhà báo Phạm Xuân Ẩn. Ông Ẩn cũng từng là
Sĩ quan Quân đội Quốc gia Việt Nam rồi Việt Nam Cộng
Hòa đã được gửi đi học tham mưu và báo chí ở Hoa Kỳ
bằng tiền thuế của người dân miền Nam.
Nhà
báo Phạm Xuân Ẩn làm cho nhiều báo ngoại quốc, nhưng
lâu năm và được tín nhiệm nhất khi ông làm cho Tạp
chí Times vì ông Ẩn có mối giao thiệp rộng rãi với
Chính quyền VNCH và các Tòa Đại sứ ngoại quốc, quan
trọng nhất là Hoa Kỳ tại Sài Gòn.
Cũng
như trường hợp Vũ Ngọc Nhạ, ông Ẩn được phong hàm
Thiếu tướng Tình báo CSVN sau 1975!
-
Trường hợp thứ ba là Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh,
sinh năm 1923 là phụ tá Tổng tham mưu trưởng cuối cùng
của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa sau khi Đại tướng
Dương Văn Minh nhận chức Tổng thống từ tay Cụ Trần
Văn Hương ngày 28/4/1975. Ông mang bí danh S7 hay Sao Mai là
cơ sở của Ban binh vận Mặt trận Dân tộc Giải phóng
miền Nam.
Chính
tướng Hạnh là người đã thúc đẩy Tổng thống Dương
Văn Minh quyết định kêu gọi Quân lực Việt Nam Cộng
Hòa buông vũ khí đầu hàng quân Cộng sản ngày
30/04/1975, khi lá Quốc kỳ Nền Vàng 3 Sọc Đỏ của VNCH
vẫn còn bay trên Dinh Độc Lập.
-
Người thứ bốn liên quan đến Thượng tá Tám Hà của
Quân đội CSVN đã bỏ hàng ngũ ra hồi chánh với Chính
phủ Việt Nam Cộng Hòa trước Cuộc tấn công miền Nam
Tết Mậu Thân của Cộng sản.
Tài
liệu của CSVN sau 30/4/1975 tiết lộ, những bí mật hành
quân và tấn công vào đô thị miền Nam năm 1968 bị ông
Tám Hà báo cáo với chính phủ VNCH đã gây thiệt hại to
lớn cho quân CSVN trong thời kỳ ấy.
Hiển
nhiên Thượng tá Tám Hà cũng đã rất nhiều lần đứng
chào cả 2 lá cớ Mặt trận Giải phóng miền Nam và cờ
Đỏ Sao Vàng.
Như
vậy, thiết tưởng chuyện “trung thành với lý tưởng
của lá cờ” của người cầm cờ hay chào cờ cũng chưa
chắc ai đã trung thành hơn ai trong mặt trận đấu tranh
tư tưởng.
Chỉ
khi nào người ta phải đối diện với thực tế thì
lương tâm mới hiện ra chăng, hay cũng có thể thay đổi
tùy hoàn cảnh?
Tuy
nhiên, sự hoài nghi về lòng trung thành khi chưa “có lửa
để thử vàng” thì cũng có thể sai lầm. Vì vậy, nếu
vấn đề hòa hợp và hòa giải dân tộc không được
nghiêm chỉnh thảo luận giữa những người, tuy từng cầm
súng bắn nhau trong chiến tranh nhưng biết tôn trọng giá
trị của nhau thì dân tộc sẽ mãi mãi mắc mưu chia rẽ
của Cộng sản.
Do
đó vấn đề khẩn trương và quan trọng của đất nước
hiện nay là làm thế nào đoàn kết được trong- ngoài
giữa người Việt Nam cùng lý tưởng để đấu tranh
loại đảng CSVN ra khỏi độc quyền lãnh đạo, để Việt
Nam có dân chủ tự do và để cứu được dân tộc ra
khỏi đói nghèo, chậm tiến và lạc hậu chứ không phải
là lúc tranh luận về lòng yêu nước ai hơn ai.
(11/014)
-------------------------------
ĐIẾU
CÀY N& CỜ VÀNG (RFA)
VIDEO
:
(SBTN-DC)
24-11-2014
ĐIẾU
CÀY THOÁT ĐỘC TÀI ĐỎ GẶP ĐỘC TÀI VÀNG
Đàn
Chim Việt
24/11/14
Định
Nguyên
23-11-2014
No comments:
Post a Comment