Saturday 29 November 2014

Cách Ấn Độ tiếp cận Châu Á – Thái Bình Dương (Arvind Gupta - IDSA)



Arvind Gupta
IDSA (Viện nghiên cứu và phân tích quốc phòng Ấn Độ
Posted on Nov 29, 2014

Nhiều nhân tố chính trị, an ninh, kinh tế và văn hóa-xã hội đang biến Châu Á-Thái Bình Dương (CA-TBD) thành một khu vực năng động. Ấn Độ cần có một chiến lược dài hạn để tận dụng những cơ hội đang nổi lên tại CA-TBD trong khi xem xét những thách thức về an ninh. CA-TBD hiện được đánh dấu bởi những xu hướng chính sau đây: Sự nổi lên của Trung Quốc; chiến lược tái cân bằng của Mỹ; một cấu trúc khu vực, với ASEAN là trung tâm; tầm quan trọng ngày càng tăng của khu vực Ấn Độ Dương và các vấn đề hàng hải; những mối đe dọa an ninh không truyền thống ngày càng tăng.
Bài phân tích chính sách này sẽ thảo luận về các xu hướng chính trong khu vực châu Á Thái Bình Dương và đưa ra một cách tiếp cận dài hạn giúp Ấn Độ tối đa hóa an ninh và cơ hội phát triển. Bài viết tập trung vào các mối quan hệ Ấn Độ-ASEAN trong khi các quốc gia khác sẽ được thảo luận vắn tắt.

Sự trỗi dậy của Trung Quốc

Sự nổi lên của Trung Quốc đã tạo nên sự thay đổi. Là một nền kinh tế khổng lồ, với GDP 7.300 nghìn tỷ USD (theo số liệu của Ngân hàng Thế giới năm 2011) và chi tiêu quân sự hàng năm xấp xỉ 103 tỷ USD trong năm 2012, Trung Quốc đã vượt Nhật Bản về kinh tế, quân sự, và có thể vượt Mỹ về kinh tế trong 10-20 năm, tùy thuộc vào tỷ lệ tăng trưởng giữa hai nước trong những năm tới.

Sự nổi lên của Trung Quốc đang làm thay đổi cán cân lực lượng khu vực và toàn cầu. Lòng tin về sự nổi lên và phát triên hòa bình của Trung Quốc đã bị sút mẻ nghiêm trọng do căng thẳng ngày càng tăng tại biển Hoa Nam (Biển Đông) và biển Hoa Đông. Ban lãnh đạo mới của Trung Quốc theo chủ nghĩa dân tộc và kiên quyết tập trung vào những lợi ích “cốt lõi” của Trung Quốc.

Tiến trình hiện đại hóa quân sự nhanh chóng của Trung Quốc và ý đồ thể hiện sức mạnh đối với những nơi xa hơn các nước láng giềng liền kề và tại khu vực Tây Thái Bình Dương, đã gây lo ngại cho các nước láng giềng của Trung Quốc. Bắc Kinh đã phát triển một lực lượng hải quân hùng mạnh, với các tàu sân bay, tàu ngầm, tên lửa chống tàu chiến. Trung Quốc đang theo đuổi chiến lược chống tiếp cận/chống xâm nhập khu vực (A2/AD) để ngăn chặn Mỹ vào các khu vực hải đảo nằm trong ảnh hưởng của Trung Quốc.

Làn sóng dân tộc chủ nghĩa đang nổi lên tại Trung Quốc đã gây lo ngại cho các nước láng giềng. Công thức về nhũng lợi ích “cốt lõi” của Trung Quốc, với trọng tâm là chủ quyền lãnh thổ, đã khiến các nước láng giềng nghi ngờ về ý đồ của Bắc Kinh. Trung Quốc coi Biển Đông như vùng biển của họ. Điều này sẽ ảnh hưởng lớn không chỉ đối với các nước láng giềng mà còn ảnh hưởng đến hàng hải quốc tế.

Phải thừa nhận rằng sự nổi lên của Trung Quốc cũng có lợi cho các nước láng giềng, đặc biệt về lĩnh vực kinh tế. Đối với hầu hết các nước láng giềng, Trung Quốc là đối tác thương mại số một. Kim ngạch thương mại Trung Quốc-ASEAN đã lên tới 380 tỷ USD; các mối tiếp xúc nhân dân giữa Trung Quốc và các nước láng giềng cũng trở nên sâu sắc với sự kết nối, cởi mở và minh bạch hơn.
Trung Quốc đang có sự liên kết với các cấu trúc khu vực và điều này đã tăng cường vai trò của Trung Quốc trong sự ổn định khu vực. Chẳng hạn, Trung Quốc đã có Hiệp định thương mại tự do (FTA) với ASEAN. Các nước ASEAN là một phần trong chuỗi cung ứng toàn cầu đi qua Trung Quốc để tới các thị trường trên thế giới, do đó, sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế và xã hội tăng lên. Trung Quốc đang tham gia các cuộc thương lượng về Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP). Hiệp định này sẽ mang lại mức độ liên kết kinh tế cao hơn giữa ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản, Australia và Ấn Độ.

Tương lai là không chắc chắn. Thành tích kinh tế của Trung Quốc đáng nghi ngờ và khó hiểu với nhiều vấn đề. Trung Quốc sẽ duy trì tốc độ tăng trưởng được bao lâu và những gì sẽ bị tác động bởi sụt giảm kinh tế Trung Quốc trong khu vực này có đáng nghiên cứu không? Trung Quốc thể hiện một bức tranh phức tạp. Câu chuyện ngăn chặn Trung Quốc là có vấn đề khi xét đến sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng giữa Trung Quốc và các nền kinh tế lớn nhất của khu vực.

Chiến lược tái cân bằng của Mỹ

Mỹ là một “bên tham gia” chính trong cấu trúc an ninh và kinh tế của khu vực CA-TBD. Thách thức lớn nhất đối với Mỹ là điều chỉnh sự nổi lên của Trung Quốc. Bị kẹt trong các cuộc chiến tranh tốn kém tại Afghanistan, Iraq và ảnh hưởng của tình trạng suy giảm kinh tế, Mỹ buộc phải giảm ngân sách quốc phòng do thiếu nguồn.

Nhiều nhà phân tích cho rằng Mỹ đang sa sút so với Trung Quốc mặc dù vẫn là một thế lực về kinh tế và quân sự đứng đầu trong tương lai gần. Mỹ cũng có khả năng bật dậy trở lại nhờ khả năng to lớn trong lĩnh vực sáng tạo. Thế nhưng theo một số phỏng đoán, Trung Quốc sẽ soán ngôi “quán quân” của Mỹ về kinh tế trong hại thập niên tới và điều đó sẽ là động lực tâm lý quan trọng đối với thế giới.

Bị bao vây bởi nhũng thay đổi cơ bản trong trật tự quốc tế, Mỹ đã bật tín hiệu thay đổi các chính sách đối với châu Á. Những hoài nghi đã nổi lên trong các đồng minh của Mỹ về khả năng Washington sẽ nâng đỡ được các đồng minh quân sự chủ chốt trong khu vực như Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippines, Australia và Thái Lan. Đối mặt với một Trung Quốc đang nổi lên và một nước Mỹ đang suy thoái, nhiều nước áp dụng các chiến lược nước đối với Trung Quốc. Hầu hết các nước đang tìm kiếm sự can dự lớn hơn với Trung Quốc trong khi vẫn tìm cách bảo vệ mình trước sự quyết đoán của Trung Quốc.

Mỹ đã tuyên bố chính sách tái cân bằng và xoay trục sang châu Á. Song chính sách này vẫn mơ hồ và tạo nên sự lộn xộn đáng kể. Đã bao giờ Mỹ rời châu Á? Nếu chưa, tại sao lại nói đến chuyện quay lại? Điều gì sẽ là bản chất tình hình quốc phòng của Mỹ? Liệu tỷ lệ 60:40 lực lượng quân sự Mỹ triển khai tại châu Á và những nơi khác trên thế giới có đủ để tăng cường vị thế quốc phòng của Mỹ tại CA-TBD?

Trong thời gian gần đây, chiến lược tái cân bằng của Mỹ đã được các quan chức trong Chính quyền Obama nhiệm kỳ thứ hai thảo luận tỉ mỉ hơn, trong đó có cả lĩnh vực kinh tế và văn hóa. Mục đích của chiến lược tái cân bằng đã được xác định nhằm tăng cường các đồng minh hiện hành và tìm kiếm thêm các đối tác mới (Ấn Độ, Indonesia), thiết lập các đối tác kinh tế và đạt được mối quan hệ có tính chất xây dựng với Trung Quốc.

Nhưng Bắc Kinh coi chính sách tái cân bằng của Mỹ như một âm mưu kiềm chế Trung Quốc. Trung Quốc đang phát triển các chiến lược A2/AD để ngăn chặn Mỹ tiến quá gần tới các bờ biển Trung Quốc. Hành động hiếu chiến của Trung Quốc tại Biển Đông, biển Hoa Đông và các khu vực khác là một phần trong chiến lược của Bắc Kinh nhằm ngăn chặn Mỹ và để gửi đi tín hiệu rằng đây là khu vực nằm trong phạm vi ảnh hưởng của Trung Quốc.

Mỹ quan ngại về Trung Quốc, song tránh đối đầu công khai. Các tuyên bố của Mỹ về Trung Quốc chứng tỏ nguyện vọng của Washington muốn can dự với Bắc Kinh sâu hơn. Đối thoại chiến lược và kinh tế giữa hai nước đã được thể chế hóa, song quan hệ song phương còn lâu mới suôn sẻ. Các yếu tố cạnh tranh và đối đầu là rõ ràng nhất trong quan hệ Mỹ- Trung. Các nước khác trên thế giới không dám chắc về khuynh hướng tiến triển của quan hệ Mỹ-Trung.

Các quốc gia khác điều chỉnh như thế nào?

Chính trên bối cảnh chuyển đổi này mà các nước khác cũng đang điều chỉnh chính sách của mình .
Khu vực ASEAN, mà theo truyền thống vốn là khu vực bị phân chia bởi nhiều đường đứt gãy nội bộ, đã tìm cách hành động cùng nhau đặc biệt là kể từ cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997. Các nước ASEAN đã tìm cách giải quyết tranh chấp thông qua sự đồng thuận và đối thoại. Họ đã tham gia với thế giới bên ngoài trong khi nhấn mạnh vai trò trung tâm của ASEAN cho đến nay khi khu vực của họ có liên quan. Với GDP kết hợp đạt hơn 2 nghìn tỷ đô-la (năm 2011) và tổng kim ngạch thương mại là $2,4 nghìn tỷ đô-la (năm 2011) , ASEAN đã nổi lên như một lực lượng kinh tế đáng gờm. Tuy nhiên, sự ổn định trong ASEAN phụ thuộc rất nhiều vào các nhân tố nội bộ cũng như bên ngoài. Các yếu tố Trung Quốc và Mỹ đã đưa ASEAN đến ngã ba đường. Đoàn kết của ASEAN bị căng thẳng. Việt Nam và Philippines bị ảnh hưởng trực tiếp bởi sự trỗi dậy của Trung Quốc. Biển Đông là một điểm nóng căng thẳng và có thể sẽ vẫn như vậy. Sự thiếu tin cậy giữa Trung Quốc và ASEAN ngày càng tăng vì vùng biển Đông .

ASEAN đang cố gắng để tạo thành một liên minh kinh tế vào năm 2015. ASEAN +6 có quan hệ đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP ) ngay cả khi Hoa Kỳ đang thúc đẩy quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) không bao gồm Trung Quốc. Một số quốc gia như Myanmar, Lào, Campuchia và Indonesia có ý nghi ngờ về việc tham gia các cuộc đàm phán TPP .

Nhật Bản

Nhật Bản đang được hồi sinh. Thủ tướng Abe quyết tâm khôi phục lại tính ưu việt của Nhật Bản. Hướng dẫn chính sách quốc phòng mới của Nhật Bản cho thấy Nhật Bản có thể dành nhiều sự quan tâm đến tái thiết chiến lược quân sự của mình và tăng cường tư thế phòng thủ. Sự quyết đoán của Trung Quốc và chương trình hạt nhân của Bắc Triều Tiên là mối quan tâm an ninh nghiêm trọng đối với Nhật Bản. Trong các kịch bản đã thay đổi, Nhật Bản đang tập trung vào Ấn Độ như là một đối tác an ninh. Chuyến thăm của Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh tới Nhật Bản được các báo trên toàn thế giới đề cập khi nó báo hiệu quan hệ đối tác chiến lược và an ninh của Ấn Độ – Nhật Bản đã sâu sắc hơn. Thủ tướng Abe được cho là đã đề xuất “một chiến lược theo đó Úc, Ấn Độ, Nhật Bản và tiểu bang Hawaii tạo thành một chuỗi đảo để bảo vệ các vùng biển chung kéo dài từ khu vực Ấn Độ Dương tới Tây Thái Bình Dương… Tôi sẵn sàng đầu tư đến mức độ lớn hơn có thể, các khả năng của Nhật Bản vào chuỗi đảo an ninh này.” Thủ tướng Ấn Độ nói về Ấn Độ và Nhật Bản như là “đối tác tự nhiên và không thể thiếu vì một tương lai hòa bình, ổn định, hợp tác và thịnh vượng cho khu vực châu Á Thái Bình Dương và khu vực Ấn Độ Dương. “Rõ ràng, quan hệ Ấn Độ – Nhật Bản rất quan trọng trong bối cảnh hòa bình và ổn định ở châu Á Thái Bình Dương.

Úc

Sẽ là hữu ích khi xem xét cách Úc đang điều chỉnh trước sự trỗi dậy của Trung Quốc. Úc nhìn thấy cơ hội cho mình trong cái gọi là “thế kỷ châu Á”. Úc hoan nghênh sự nổi lên của Trung Quốc và chấp nhận tăng trưởng quân sự của nước này là “tự nhiên”. Úc được có mặt ở tất cả các điểm dừng để làm sâu sắc hơn quan hệ với Trung Quốc ở mọi cấp độ. Đồng thời, Úc cũng bảo hiểm rủi ro đối với Trung Quốc bằng cách xây dựng khả năng phòng thủ của mình và hỗ trợ Mỹ tái cân bằng và xoay trục đến khu vực châu Á Thái Bình Dương. Úc đang tìm kiếm quan hệ đối tác với Ấn Độ, Nhật Bản và Hàn Quốc. Đặc biệt, Úc lưu ý đến sức nặng chiến lược đang gia tăng của Ấn Độ trong khu vực và nhận ra tầm quan trọng đặc biệt của Ấn Độ trong bối cảnh “Ấn Độ- Thái Bình Dương”. Úc co Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương là “một vòng cung chiến lược”. Ấn Độ cần phải làm sâu sắc thêm mối quan hệ với Úc, đặc biệt là trong bối cảnh Úc xuất hiện như một nhà cung cấp chính về than và urani có thể trong tương lai. Úc cũng giúp Ấn Độ trong phát triển giáo dục và kỹ năng.

Hàn Quốc

Hàn Quốc phải đối mặt với một môi trường an ninh không ổn định, đặc biệt trong bối cảnh của chương trình hạt nhân và tên lửa của Bắc Triều Tiên và hành vi không thể đoán trước của quốc gia này. Hàn Quốc đặt trọng tâm vào bảo vệ các tuyến giao thông đường biển trong khu vực Đông Á và tìm kiếm sự hợp tác với Ấn Độ trong lĩnh vực này. Họ cũng lưu ý triển vọng bá quyền của Trung Quốc trong khu vực. Trong khi duy trì quan hệ chặt chẽ với Ấn Độ, sự cố Cheonan và pháo kích đảo Yeon Pyieng trong năm 2010 đã cho thấy xu hướng quân sự ngày càng gia tăng trong khu vực này. Hàn quốc phụ thuộc rất nhiều vào các tuyến đường hàng hải và vận chuyển quốc tế. Trong các cuộc thảo luận cấp tuyến 2 gần đây, Hàn Quốc đã nhấn mạnh mong muốn có một cơ chế hợp tác và đối thoại giữa Hải quân Hàn Quốc và Ấn Độ, thể chế hóa cơ chế song phương chính thức để lập kế hoạch và điều phối các vấn đề trên biển trên các tuyến hàng hải củatrong cuộc đối thoại hàng năm. Hàn Quốc cũng muốn hợp tác trên biển với Ấn Độ như tập trận hải quân chung.

Những cơ hội của Ấn Độ

Chuyến thăm của Thủ tướng Manmohan Singh tới Nhật Bản hồi tháng 5/2013 đã được dư luận quan tâm rộng rãi. Quan hệ chiến lược mạnh mẽ với Nhật Bản sẽ cố lợi cho Ấn Độ. Ấn Độ đã có quan hệ đối tác chiến lược với Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Australia. Những nước này muốn có quan hệ hợp tác an ninh chặt chẽ hơn với Ấn Độ, đặc biệt trong lĩnh vực hàng hải. Cuộc đối thoại ba bên Ấn-Nhật-Mỹ tập trung vào những vấn đề của CA-TBD, trong đó có hợp tác an ninh. Những mối quan hệ đối tác này sẽ thúc đẩy ổn định trong khu vực. Trung Quốc phải nhận thấy rằng Ấn Độ có lợi ích hợp pháp trong khu vực.

Chiến lược dài hạn của Ấn Độ tại CA-TBD là gì? Với sự chuyển đổi trọng tâm của khu vực CA-TBD, Ấn Độ phải tìm kiếm một vai trò định hình tiến trình chính trị, kinh tế, xã hội và an ninh trong khu vực. Không làm như vậy có thể ảnh hưởng lớn đến lợi ích của Ấn Độ. Chiến lược của Ấn Độ phải tìm cách can dự và liên kết kinh tế sâu hơn với khu vực CA- TBD. Đặc biệt, Ấn Độ phải tham gia các cuộc đối thoại an ninh và các tiến trình trong khu vực. Ấn Độ có uy tín cao trong ASEAN và khu vực Đông Á. Ấn Độ và ASEAN đã nâng quan hệ đối tác lên mức chiến lược, song cần làm sâu sắc hơn mối quan hệ này.

Ấn Độ có uy tín cao trong khối ASEAN và Đông Á. Ấn Độ và ASEAN đã nâng quan hệ đối tác lên mức độ chiến lược. Thách thức là phải làm sâu sắc hơn nữa quan hệ này.

Tuyên bố “Tầm nhìn” ASEAN-Ấn Độ được đưa ra tại hội nghị cấp cao kỷ niệm 20 năm quan hệ đối tác đối thoại ASEAN-Ấn Độ ở New Delhi tháng 12/2012 đã xác định một số dự án họp tác trong các lĩnh vực chính trị, an ninh, kinh tế, văn hóa-xã hội, phát triển và kết nối trong cấu trúc khu vực. Trước đó, Báo cáo nhân vật nổi tiếng ASEAN-Ấn Độ (2013) đã xác định ngay cả một sự mở rộng lớn hơn các dự án hợp tác. Do đó, không có sự thiếu hụt các ý tưởng. Tuy nhiên phải xác định nguồn, thiết lập khuôn khổ thể chế, các cơ chế giám sát, phối hợp… để bảo đảm triển khai thực hiện các dự án này đúng tiến độ.

Xu hướng lớn tiếp theo của khu vực ASEAN sẽ là Liên minh kinh tế ASEAN và RCEP. Điều này sẽ mở ra những cơ hội cho Ấn Độ. Thành công của quan hệ hợp tác ASEAN-Ấn Độ phụ thuộc vào việc hai bên sẽ tiến nhanh như thế nào để liên kết kinh tế thông qua FTA về dịch vụ và trong tương lai sẽ thông qua RCEP. Sự kết nối giữa ASEAN và Ấn Độ đã được nói đến nhiều từ lâu nhưng tiến bộ vẫn chậm chạp. Tương tự như vậy, hợp tác khu vực, đặc biệt trong khuôn khổ sáng kiến Bengal về hợp tác kinh tế và kỹ thuật đa phương (BIMSTEC), hợp tác khu vực Ganga- Mekong, xây dựng đường cao tốc ba bên… cũng được triển khai chậm chạp. Hai bên cần tập trung thúc đẩy triển khai thực hiện những dự án này.

Một trong những điểm yếu trong chính sách “Hướng Đông” (LEP) của Ấn Độ là sự tham gia khá ít của khu vực Đông Bắc Ấn Độ trong việc triển khai thực hiện chính sách này. Đây là thiếu sót cần khắc phục ngay. Lợi ích của chính sách “Hướng Đông”, đặc biệt trong thương mại, kết nối, liên kết văn hóa-xã hội, hợp tác trong lĩnh vực xây dựng năng lực, giáo dục… phải được nhân dân khu vực Đông Bắc Ấn Độ, vốn đang hoài nghi về LEP, nhận thấy. Do đó, điều quan trọng là các chính quyền khu vực Đông Bắc và các thể chế văn hóa-xã hội trong khu vực này phải tham gia việc hình thành và thực hiện các chính sách Ấn Độ-ASEAN.

Trong vô số các hoạt động được nêu trong Tuyên bố Tầm nhìn, một số nên được đặt tại các bang Đông Bắc. Ví dụ, một trung tâm văn hóa Ấn Độ – ASEAN có thể được thiết lập tại Guwahati. Tương tự như vậy, Imphal có thể thiết lập một học viện thể thao Ấn Độ – ASEAN. Một nghiên cứu vê các nền văn hóa địa phương có thể được thực hiện thông qua một trường đại học miền Đông Bắc. Một chương trình đặc biệt có thể được thiết kế để nâng cao năng lực nhắm mục tiêu là các thanh niên ở Đông Bắc. Các trung tâm xúc tiến thương mại khuyến khích thương mại giữa Đông Bắc và Đông Nam Á có thể được thiết lập ở miền Đông Bắc. Chính phủ cũng có thể xem xét việc thiết lập các chi nhánh của các tổ chức này ở miền Đông Bắc.

Tuyên bố Tầm nhìn bàn về hợp tác an ninh giữa Ấn Độ và ASEAN. Một khuôn khổ thể chế cần phải được thiết lập cho mục đích này. Ví dụ, báo cáo an ninh Ấn Độ – Nhật Bản năm 2008 có thể được áp dụng cho đối thoại an ninh và hợp tác Ấn Độ – ASEAN. Điều này sẽ giúp thiết lập một cuộc đối thoại an ninh trên diện rộng giữa Ấn Độ và các tổ chức ASEAN. Đối thoại chống khủng bố Ấn Độ – ASEAN cần được tăng cường và chia sẻ thông tin cần được tạo điều kiện. Hiệp định tương trợ tư pháp và các hiệp ước dẫn độ phải được thiết lập. Đối thoại an ninh hàng hải nên được bắt đầu.
Các đảo Andaman và Nicobar nên được đưa vào khuôn khổ quan hệ Ấn Độ – ASEAN. Xem xét những mối quan tâm của các bộ lạc ở đây, có thể phát triển một số hòn đảo, đặc biệt là Nicobar, để phục vụ du lịch. Giới trẻ Nicobari đều mong muốn tiến đến hiện đại. Học bổng cho giới trẻ hai vùng đảo này có thể được cấp để làm cho họ trở thành đối tác có lợi ích.

Xét về các liên kết thương mại, cảng Dawei cung cấp nhiều cơ hội. Trong khi Thủ tướng Thái Lan viếng thăm Ấn Độ, Ấn Độ và Thái Lan đã đồng ý phát triển các dự án hành lang Chennai – Dawei. Dawei là một thành phố ở đông nam Myanmar và là thủ phủ của khu vực Tanintharyi. Chính phủ Myanmar đã phê duyệt kế hoạch phát triển một cảng lớn và khu công nghiệp tại Dawei với công ty TNHH phát triển công cộng Ý – Thái (ITD ) là nhà thầu chính. Toàn bộ dự án ước tính có giá trị ít nhất 58 tỷ USD. Trong tháng 11 năm 2010, ITD đã ký một thỏa thuận khung 60 năm với Cảng vụ Myanmar xây dựng cảng và khu công nghiệp trên 250 km vuông đất ở Dawei. Điều này có khả năng biến Thái Lan thành một trung tâm trung chuyển lớn trong hành lang kinh tế Đông-Tây. Nhật Bản cũng muốn đầu tư vào dự án Dawei. Ấn Độ phải đầu tư vào dự án Dawei cũng như các công trình trên hành lang Chennai – Dawei.

Kết nối người với người cần phải được cải thiện. Nhưng điều này sẽ đòi hỏi giải phóng chế độ thị thực nhập cảnh giữa các quốc gia Ấn Độ và ASEAN .

Ấn Độ cần phải đặc biệt chú ý đến Myanmar, Thái Lan, Việt Nam, Indonesia và Singapore ở cấp độ song phương. Các quốc gia này có thể giúp Ấn Độ trong việc nâng vị thế của Ấn Độ trong khu vực.
Ngoài ra, Ấn Độ cần tập trung vào các vấn đề của Ấn Độ Dương; cần đóng vai trò tích cực trong việc định hình chương trình nghị sự của Hiệp hội hợp tác khu vực vành đai Ấn Độ Dương (IOR-ARC). Trong thời gian gần đây Australia và Nhật Bản đã thảo luận về khái niệm Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.



---------------------------

CUỘC CHẠY ĐUA QUÂN SỰ TẠI CHÂU Á – THÁI BÌNH DƯƠNG








1 comment:

View My Stats