Trần Đĩnh và Đèn Cù
Nguyễn Văn Trần
http://danlambaovn.blogspot.com/2014/11/tran-inh-va-en-cu.html
Đến
nay, những người cộng sản ở Hà Nội viết về chế độ
của họ và những người lãnh đạo chế độ ấy vẫn
còn quá ít ỏi. Mỗi người phơi bày những điều họ
nghe thấy hoặc chứng nghiệm khi họ là nạn nhân của
chế độ. Nghe, thấy và chứng nghiệm thường bị giới
hạn nên những điều được tiết lộ vẫn còn là một
phần cực nhỏ của một bộ máy kìm kẹp, gian ác khổng
lồ bao trùm kín mít toàn xa hội từ hơn nửa thế kỷ
nay.
Chỉ
có tên Hồ Chí Minh mà cho tới nay, nhiều sử gia đã mất
bao nhiều thì giờ, công sức vẫn chưa biết được hết
về con người này một cách rõ ràng. Riêng một chi tiết
cực nhỏ là ngày sinh của ông ấy, cũng chưa dứt khoát
được. Hay ông có bao nhiêu tên giả? Lấy bao nhiêu phụ
nữ, có bao nhiêu con rơi, thủ tiêu bao nhiêu người? Hãy
còn trong bóng tối dầy đặc!
Trần
Đĩnh trong Đèn Cù hơn 600 trang giấy cũng chỉ ghi lại
được đây đó một số sự việc của chế độ, tức
về người,và việc trong phạm vi quan hệ với ông. Nhưng
ông đã nói hết chưa?
Cách
Trần Đĩnh kể chuyện làm cho người đọc dễ nghe, dễ
ghi nhận. Như có gì chân chất.
Trần
Đĩnh và Hồ Chí Minh
Trần
Đĩnh là một nhà báo, nhà văn của đảng cộng sản Hà
Nội. Ông viết từ báo Sự Thật, copy của Nga, tiền thân
của Nhân Dân, nay là copy của Tàu. Trước sau Hồ Chí
Minh, từ tên đảng cộng sản cho tới tên báo, tên nhà
xuất bản, nhứt nhứt phụ thuộc Nga và Tàu, không hề
dám có một tên hiệu của Việt Nam do chính mình chọn.
Trần Đĩnh là một người viết suốt đời trong hệ
thống lệ thuộc đó.
Tới
Đèn Cù, ông mới hé lộ ra ông "thất tình thần
tượng Hồ Chí Minh" của ông khi Lê Duẩn và phe
cánh chủ trương theo Mao Trạch Đông áp dụng tối đa bạo
lực võ trang với chiến thuật biển người xâm lược
Miền Nam mà Hồ Chí Minh không dám lên tiếng can thiệp
như ông mong đợi. Thần tượng trong tim ông sụp đổ vì
Hồ Chí Minh không phải là anh hùng, một vị lãnh tụ anh
minh như ông tưởng.
Cũng
may chớ nếu ông nghĩ Hồ Chí Minh muốn can thiệp để Lê
Duẩn không đẩy mạnh chiến tranh vào Nam ngay vì muốn
hòa hoãn để có giải pháp chánh trị, ông sẽ thất
vọng nhiều hơn. Hồ Chí Minh không dám cả quyết theo Lê
Duẩn dốc toàn lực đánh mạnh chỉ vì sợ thất bại mà
thôi. Cái do dự của người lớn tuổi, khác hơn bản
tánh du côn, liều mạng của Lê Duẩn. Mà thất bại thì
sự nghiệp lãnh tụ của Hồ Chí Minh từ ngày "xin
học trường thuộc địa" sẽ bỗng chốc thành mây
khói hết. Nên nhớ Hồ Chí Minh đã từng tuyên bố "Sẵn
sàng đốt cả dãy Trường Sơn để giải phóng Miền Nam"
kia mà. Hồ Chí Minh là người sẵn sàng làm tất cả cho
đảng cộng sản của ông! Tên tuổi, danh vọng và cả
cuộc đời của ông gắn liền với đảng cộng sản!
Nhưng
khi ông phải xuôi theo Lê Duẩn là để bảo vệ ngôi vị
Chủ tịch nước và tên tuổi đã lỡ có nồi cợm quá
lớn của ông, khi chết được quốc táng, mồ mả hoành
tráng. Suốt đời Hồ Chí Minh khéo léo lách mình như lươn
chỉ để thực hiện tham vọng tột cùng là làm Chủ tịch
nước, "Cha già dân tộc", phục hận thời trẻ
khó khăn, gian khổ, cha bị bãi chức vì say rượu xử
phạt đánh chết phạm nhân, phải tìm đường vào Nam mưu
sanh. Khó nói Hồ Chí Minh là người yêu nước vì bàn tay
của ông chỉ bết đầy máu những người yêu nước
lương thiện. Trong quá khứ, có bao nhiêu cơ hội đã có
thể giải quyết vấn đề Việt Nam bằng chính trị để
đem lại độc lập và thống nhất đất nước nhưng ông
đều từ khước vì giải pháp đó không phải cho quyền
lợi cộng sản Đệ tam. Cũng như Võ Nguyên Giáp chịu xếp
hia mão trước uy quyền của Lê Duẩn và Lê Đức Thọ
chỉ để bảo vệ danh tiếng Đại tướng, người hùng
Điện Biên, chết được đám ma rùm beng, bảo vệ sự
nghiệp của con cháu. Đã "Chịu đấm [để] ăn xôi
mà xôi lại [không] hẩm", thì còn gì hơn?
Trần
Đĩnh có kể Hồ Chí Minh, nhờ Mao giới thiệu, qua
Mạc-tư-khoa năm 1952 được yết kiến Staline và sau đó,
Staline đưa qua cho Mao "phụ trách" để chuẩn bị
mở chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất. Nhưng không thấy
ông kể lại một giai thoại khá lý thú này. Trong lúc hội
kiến Staline, Staline kéo 2 chiếc ghế chỉ cho Hồ Chí
Minh và nói "Đây là ghế địa chủ, còn đây là ghế
nông dân. Đồng chí muốn ngồi ghế nào?". Lúc về
Việt Nam, Hồ Chí Minh chỉ ra lệnh chuẩn bị làm cải
cách ruộng đất, chọn cán bộ gởi qua Tàu thụ huấn,
không kể lại chuyện này và cũng không nghe ông nói là
ông đã chọn chiếc ghế nào (Pierre Brocheux, Ho Chi Minh, du
révolutionnaire à l’icône, Paris, 2003).
Trong
Đèn Cù và trả lời đài phát thanh, Trần Đĩnh thú nhận
rất rõ trước kia ông mê Hồ Chí Minh vô cùng nhưng sau
này, ông thất vọng lắm. Nhưng lại không thấy phản ứng
tự nhiên phải có của ông trong Đèn Cù về sự gian ác
có một không hai của Hồ Chí Minh trong vụ đấu tố và
xử tội địa chủ của Bà Nguyễn Thị Năm khi ông kể
lại Hồ Chí Minh bịt râu để ngụy trang và Trường
Chinh mang kiếng đen che bớt mặt tới dự khán. Vâng lệnh
Tàu làm cải cách ruộng đất, phá tan hoang đất nước
là đã quá dã man rồi. Ra lệnh giết người lương thiện
yêu nước là cái gian ác chánh trị, viết báo tố cáo
tội ác của Bà Năm mà những tội ác hoàn toàn do Hồ
Chí Minh bịa đặt ra dưới tên CB, ngụy trang đi chứng
kiến phiên xử tội của người lương thiện, ân nhân
của kháng chiến, của đất nước, là thứ gian ác thuộc
bản chất của con người cộng sản tinh ròng.
Cũng
về Hồ Chí Minh, Trần Đĩnh kể cuối năm 1942 ở Hoa Nam,
Tưởng Giới Thạch tổ chức Đại hội thành lập Việt
Nam Độc lập Đồng minh Hội để thống nhất các Tổ
chức Việt Nam chống Nhật và làm tình báo cho Tàu. Tưởng
Giới Thạch biết Hồ Chí Minh là cộng sản nên bắt giam
để Hồ Chí Minh phải ngả theo Tưởng. Nhờ Tập thơ
(Ngục Trung Nhật ký) bày tỏ tâm sự "tôi đây yêu
nước chứ không cộng sản" rồi nhờ có thêm người
như Hồ Học Lãm nói với Trương Phát Khuê. Hồ Chí Minh
ra tù và lãnh đạo Việt Nam Cách mạng Đồng Minh Hội
(Đèn Cù, tg 39).
Trần
Đĩnh ở chỗ này không nói rõ Hồ Chí Minh ra tù lúc nào.
Nhưng trong thời gian đó, Hồ Chí Minh không thể ở tù và
cũng không thể làm những bài thơ tù về hoàn cảnh lúc
đó được. Bởi lúc đó, Hồ Chí Minh ở Cao Bằng và làm
báo Việt Nam Độc lập. Xin mời xem Bee.net.vn, 05/02/2010,
trích dẫn lại từ báo Việt Nam Độc lập:
"Ngày
5/2/1943 ứng với ngày mùng 1 Tết Quý Mùi, bài thơ “Mừng
năm mới” vốn được đăng trên báo "Việt Nam Độc
lập số đầu năm dương lịch 1943 ("Báo Việt Nam Độc
Lập 1941-1945”, cơ quan tuyên truyền của Việt Minh
tỉnh Cao Bằng, NXB Lao Động, Hà Nội 2000), đã đến với
nhân dân trong không khí đang sục sôi cách mạng.
Bài
thơ là một bản phân tích tình hình thế giới và đón
chờ cơ hội:
Mừng
Năm Mới
“Một
nghìn chín trăm bốn mươi ba
Năm
mới tình hình hẳn mới
Đông
Á chắc rồi Tàu thắng Nhật
Tây
u nhất định Đức thua Nga
Nhân
dân các nước đều bùng dậy
Cách
mệnh nhiều nơi sẽ nổ ra
Đức,Nhật
chết, rồi Tây cũng chết
Ấy
là cơ hội tốt cho ta
Ấy
là cơ hội tốt cho ta
Cơ
hội này ta chớ bỏ qua
Phấn
đấu hy sinh đừng quản ngại
Tuyên
truyền tổ chức phải xông pha
Đồng
tâm một triệu người như một
Khởi
nghĩa ba kỳ giậy cả ba
Năm
mới quyết làm cho nước mới
Non
sông Hồng Lạc gấm thêm hoa”.
Nếu
cuối năm 1942 qua đầu năm 1943, Hồ Chí Minh có ở tù
thiệt, và có làm thơ tù trong thời gian này thì Báo Việt
Nam Độc lập phải đem đốt đi. Hoặc trái lại, Tập
thơ tù phải đem trả lại cho tác giả thật của nó.
Đây
là một vụ án văn học rất quan trọng cần phải sớm
được giải quyết sòng phẳng.
Trần
Đĩnh sau 30 tháng 4/1975
Một
năm rưỡi sau 30/04, Trần Đĩnh mới được phép vào Sài
Gòn vì ông mang tội xét lại chống đảng, tức chống
chủ trương đánh mạnh, đánh gấp rút chiếm cho được
Miền Nam, nên ông không có quyền chia sẻ cái chiến thắng
đó. Sự từ chối cấp phép cho ông có ý nghĩa rất cụ
thể. Ông không dấy máu nên không được ăn phần. Những
ngày đầu, của cải của Miền Nam hãy còn đầy ắp. Hơn
năm rưỡi sau, vào Nam chỉ còn đi Chợ Trời Huỳnh Thúc
Kháng, Lăng Cha Cả...
Ngày
đầu tiên vào Sài Gòn, bà Dương Thu Hương ngồi bẹp
xuống lề đường ôm mặt khóc ngất. Bà giác ngộ cách
mạng cộng sản làm giải phóng Miền Nam được Hà Nội
tuyên truyền làm động lòng người là nơi bà con ta bị
Mỹ Ngụy kìm kẹp, bốc lột, không có cái bát ăn cơm!
Bà đã vượt Trường Sơn, đem "tiếng hát át tiếng
bom". Có nhiều lúc phải ăn thức ăn của heo vì đói.
Để vào cứu đồng bào Miền Nam! Bà khóc vì thực tế
đã làm tan biến cái quyết tâm mãnh liệt trước đây
của bà.
Ông
Trần Đĩnh ngủ đêm ở Đà Nẵng và tỉnh giấc trông
thấy tượng Quan Thế Âm Bồ Tát, tĩnh lặng, tỏa
sáng ngay trên đầu. Ông chợt thấy lòng êm ả lạ. Được
an ủi. Một điềm lành rất lớn, rất hãn hữu, đem lại
cho ông một thứ hạnh phúc chân thật tuyệt vời. Đã
tiếp nhận ánh sáng của Đấng Cứu khổ nhưng không biết
đủ để ông giác ngộ chưa?
Trần
Đĩnh rất buồn vì chưa được tin tức cha mẹ và các em
ở trong Sài Gòn. Buồn hơn vì không biết nhân dân Miền
Nam sẽ sống ra sao trong những ngày tới khi đảng đã bố
trí đầy đủ bộ máy lãnh đạo xã hội chủ nghĩa. Một
hôm gặp một người bạn vào Sài Gòn trước trở về
thuật lại cho ông biết về đởi sống của dân ở Miền
Nam. Ồ, sung sướng lắm! Họ toàn tư sản cả. Ông bạn
mê nhứt là đi toa-lết vì phòng toa-lết rộng, thoáng,
sang và thơm phức. Văn phòng của Phó Ban ta thua xa!
Nhờ
Thép Mới tìm được gia đình của ông ở đường Nguyễn
Thông, gần Kỳ Đồng, Quận 3 Sài Gòn. Khu gia cư tiểu tư
sản. Ông Cụ của ông nhờ Thép Mới làm giấy chứng
nhận là "tủ sách gia đình hiến cho báo Nhân Dân"
để còn giữ lại được. Trần Đĩnh, mang bản án xét
lại chống đảng, không thể làm giấy giới thiệu "gia
đình cách mạng" được. Bùa Lỗ Bang hết linh với
âm binh. Ông gởi vào mấy cái huân chương kháng chiến
nhưng trẻ con đã lấy làm cầu đá chơi rồi.
Cơ
quan báo chí họp nghe truyền đạt ý kiến của Thủ tướng
Phạm Văn Đồng về chánh sách đối với quân nhân và
viên chức Chính phủ VNCH mà lạnh xương sống "Ta
nhân đạo đưa họ đi cải tạo để trở lại làm người,
kẻ nào không chịu mà chống lại thì ta sẽ đối xử
như chó". Bữa ấy cũng truyền đạt lời Lê Đức
Thọ "Ta để cho họ tạm buôn bán thế mà đã có
anh em chất vấn. Họ như con chim ta nắm trong lòng bàn
tay: cần đến ta bóp lại ngay thôi mà".
Trần
Đĩnh thấy rõ bà con trong Nam từ nay là đồng minh không
cần cam kết, họ sẽ bị đày ải như dân ngoài Bắc
trước đây.
Ông
gặp lại bà con ở Sài Gòn nói chuyện, hỏi han, gặp lại
cán bộ, bộ đội từng vượt Trường Sơn, đi B, nay về
vườn, cũng mò vào Nam sanh sống. Có ngưòi không muốn gì
khác hơn, không muốn biệt thự, không muốn xe hơi, chỉ
muốn Mỹ trở lại bỏ bom cho chết hết. Cái uất hận
của người dân vì thực tế đã đập vỡ mộng của họ
từng ôm ấp trước kia. Mộng là sức mạnh làm cho con
người ta vượt qua mọi gian lao, nguy hiễm, để chiến
đấu, để sống, để mong đợi. Cộng sản động viên
được lòng dân vì giỏi xây mộng cho nhân dân. Ngày mai
này, khi cách mạng giải phóng được Miền Nam thì bao
nhiêu quyền lợi, bạc tiền, đất đai đều là của nhân
dân cả.
Mộng
là kết tinh của lòng tham con người. Trần Đĩnh chứng
nghiệm thực tề ở Việt Nam sau khi im tiếng súng. Kẻ có
quyền đạt được mộng giàu có, nhà cao, cửa rộng, xe
cộ bóng nhoáng, người ở người hầu. Kẻ "áo chưa
khô máu" thì mới bị vỡ mộng, trở lại thân phận
khố rách, áo ôm. Riêng nông dân chủ lực của cách mạng,
là khổ hơn ai hết!
Trần
Đĩnh thấy thấm thía câu "Chiến thắng mang gương
mặt khổ đau cùng cực" của nữ thi sĩ Nga, Bà
Olga Bergolzt, bị đày ải suốt đời vì bà sáng suốt và
can đảm nói thay cho tất cả những ai sống với cộng
sản. Thấy mà không dám nói. Hay không nói vì vô minh.
Giờ
đây, ông thấy rõ cộng sản chỉ còn lo bành trướng
quyền lực là nhu cầu duy nhất phải làm để bảo vệ
quyền lực của phe cánh cầm quyền. Còn dân, vỡ mộng,
dân có nhu cầu trừng phạt cái tội của đảng lừa dân.
Và cậy bất cứ cái gì không phải cộng sản. Cả Ngụy
trở về, Mỹ trở lại cũng được!
Ông
Cụ của Trần Đĩnh hài lòng thấy con của mình đã "sáng
mắt, sáng lòng" nên viết báo tin với người thân
"Il faut célébrer la grande sortie de Đĩnh".
Nhưng thật sự Trần Đĩnh đã giác ngộ lẽ phải chân
thật, đã thật sự tách đạo đức khỏi chánh trị, đã
tự tiêu hủy con người cộng sản của mình chưa? Dứt
khoát, rốt ráo như lúc ông đưa tay trái lên thề trước
búa liềm, trước hình Lê-nin, Staline và Mao? Hay ông chỉ
mới "sorti" trong suy nghĩ, trong "nhật ký"
mà cũng mới định viết?
Khi
nghe đảng viên kêu gọi nhau chú ý theo dõi phản ứng của
quần chúng trước sụ kiện này, sự kiện nọ, ông đôi
khi còn cảm thấy xấu hổ. Vì bị án xét lại chống
đảng nó ám ảnh. Tư cách đảng viên là cái mộc che
chắn nay bị rơi xuống và ông muốn rên thành tiếng. Ông
cảm thấy ông không còn là ông nữa vì không còn trong
đảng, tức trong thứ "bầy đàn". Chính "bày
đàn" đã làm ra con người Trần Đĩnh từ năm 19
tuổi. Nhưng ông thừa nhận còn giữ được ở trong sâu
thẩm con người ông cái bản tánh lương thiện, cái chất
"thú hoang", nó giúp ông tự vệ.
Sống
thật với người thân, với đất nước, dần dần ông
nhận diện được kẻ đã đày ải ông và ông thấy hạnh
phúc. Theo thời gian qua, ông đã nhận ra tội ác và lên
án nó. Ông đã không quì gối trước nó cũng như ngay
thẳng nhận mình từng có đi theo nó, tội ác .
Ở
điểm này, Trần Đĩnh không nói rõ "Tội ác" là
Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, những kẻ đã đày ải ông vì
tội xét lại chống đảng hay "Tội ác" là cái
đảng cộng sản mà suốt đời ông phục vụ? Hồ Chí
Minh có phải thật sự là nhà cách mạng ái quốc không?
Hay chỉ là kẻ đại gian, đại ác? Nhưng nếu chỉ một
mình Hồ Chí Minh thì không đủ. Phải có thêm những
người cùng mang chủng tử ác mới "gian nhân hiệp
đảng" được. Vì vậy mà đảng cộng sản mới gây
nên tội ác tày trời, đày đọa cả dân tộc được.
Ở
Việt Nam ngày nay, Trần Đĩnh thấy người dân bình thường
được đảng dạy trong đời sống hằng ngày "cái
đẹp là đểu, chỉ có cái xấu là thật".
Không
biết sau khi viết Đèn Cù, Trần Đĩnh có chuyển biến
thêm tư tưởng nữa không? Có thật sự giác ngộ như
ngày xưa đã giác ngộ cách mạng? Hay chỉ một thái độ
bất mãn vì bị khai trừ khỏi đảng? Và ông còn ray rứt
không?
Vài
nhận định của Trần Đĩnh về chế độ
Đọc
qua Đèn cù, người đọc có thể ghi lại vài nhận định
của Trần Đĩnh về chế độ ở Hà Nội của ông. Tư
tưởng của ông có chuyển biến, nhưng con người ông đã
thật sự mới chưa?
Trần
Đĩnh trước đây vẫn bảo thủ ý “phi cải cách
ruộng đất bất thành chiến sĩ cách mạng chân chính”.
Nhưng
sau đó ông lại phản tỉnh [Hãy cảnh giác với thần
tượng, và bỏ thần tượng]!
Do
đó hãy tin trước hết ở lương tri, bản chất mình,
gắng là chính mình, chớ nghe sai phái. Hãy dám phê phán,
dám lên tiếng, và dám chịu đựng. Cái đó nhờ phong
trào phái hữu (ở Bắc Kinh lúc du học), mà ông say sưa,
sung sướng chứng kiến, phủ nhận chủ nghĩa xã hội,
độc quyền lãnh đạo, những mỹ từ có tính bùa phép
khiến một lớp người ít ỏi bỗng trở thành thần
thánh. Phong trào chống sùng bái cá nhân ở Liên Xô ông
tiếp nhận tại Bắc Kinh. Rồi kế theo là phong trào đòi
dân chủ của phái hữu Trung Quốc (Đèn Cù, trg 156).
Ông
phê phán tư tưởng Mao hiếu chiến. Ông muốn phải có
một đảng theo đúng học thuyết cộng sản khoa học yêu
hòa bình (Đèn Cù, trg 354).
Ở
ta, yêu nước không được đảng đóng dấu xác nhận là
công cốc, thậm chí còn là điều nguy hiểm. Bởi theo
đảng thì ranh giới giữa yêu nước và phản động vô
cùng mong manh.
Tự
do này là nhằm cho loài người, do đó nó phải giam tự
do của cá nhân vào trong cái lồng tập thể, đúc bằng
kỷ luật thép mang tên chế độ tập trung dân chủ. Thế
là cuộc đời liền bị giằng xé giữa 2 thứ tự do đối
chọi nhau vô cùng nước lửa. Để không chóng thì chầy
tất nhiên đi tới chống đảng, cái tổ chức độc quyền
tất cả: bao cấp toàn bộ độc lập, tự do, chính nghĩa,
đạo đức, nhân dân, đất nước, chân lý, quy luật, rồi
miếng ăn, chỗ ở, hôn nhân, ma chay, quyền sống, phận
chết đã được đảng thiết kế cho mỗi hạng người,
mỗi con người (Đèn Cù, trg 44- 45).
Trần
Đĩnh sám hối đã viết truyện Bất Khuất như bồi bút.
Ông
đề cập phái hữu ở Bắc Kinh. Phải hiểu nó gồm một
lớp người khá đông học ở ngoại quốc về và họ
hoạt động mạnh, gần như công khai, trong giới Đại
học, nghiên cứu, sau khi Mao chết, Đặng Tiểu Bình đưa
ra chánh sách đổi mới. Họ chủ trương phải cất tư
tưởng Mao Trạch Đông vào tủ, lấy học thuyết Khổng
Mạnh thay thề làm kim chỉ nam (Emilie Frenkiel, Parler
politique en Chine, Puf, Paris, 4/2014). Vì ảnh hưởng Tây
phương, họ chủ trương phải dân chủ hóa chế độ.
Nhưng hoạt động của họ vẫn trong khuôn khổ Đại học,
chưa phổ biến vào quần chúng. Việt Nam chưa có điều
kiện nhân sự như ỏ Bác Kinh.
Còn
ông cho rằng “học thuyết cộng sản khoa học yêu hòa
bình” thì quả thật ông bị thấm nhuần cộng sản
quá lâu nên vẫn còn mơ hồ. Ông không thấy thực tế
cộng sản đã sụp đổ trọn vẹn trên ngay quê hương
của nó chỉ vì nó không khoa học, nó không đủ sức mở
ra tương lại. Cộng sản chỉ dùng bạo lực cướp chánh
quyền chớ chưa bao giờ được dân chúng ủy nhiệm bằng
bầu cử và cầm quyền. Quyền lực đến từ họng súng,
như Mao đây. Có nơi nào cộng sản yêu hòa bình chơn thật
không? Hay hòa bình là phải theo cộng sản?
Nhưng
dẫu sao, viết Đèn Cù, Trần Đĩnh đã đặt vấn đề
theo đảng cộng sản là theo tội ác. Có đặt vấn đề,
có suy nghĩ, có thấy vẫn hơn vạn lần những kẻ ngày
nay ăn cơm Tây, cơm Mỹ, nằm nhà thương Tây, nhà thương
Mỹ, lảnh phụ cấp của Tây, Mỹ, ỏm tỏi phê bình dân
chủ, tự do ở xứ tự do, mà ôm đầu chạy về phủ
phục với cộng sản Hà Nội đang khủng bố dân chúng,
cướp tài sản của dân và bán nước cho Tàu.
Về
Hồ Chí Minh
Ông
sanh năm 1891. Cả Khiêm, anh của ông xác nhận, có bằng
chứng hẳn hoi trong gia đình và họ hàng. Cả Bà Thanh,
chị của ông, cũng xác nhận năm sanh 1891. Báo cáo với
ông thì ông nói “của người ta thế nào thì cứ để
thế không sửa gì hết”.
Lãnh
tụ lúc nào cũng được phục vụ chu đáo tuy đang ở
trên rừng. Những năm 1949, Lang Bách thường kỳ chế rượu
thuốc cho Hồ Chí Minh uống. Một lần được hỏi giá
bao nhiêu tiền 4 chai này, anh cho biết giá bằng sinh hoạt
phí mấy tháng của những người ngồi đây. Thuốc bắc
quý thì đắt mà lại phải mua trong Hà Nội. Có khi người
mang ra bị Tây phục kích chết ở Đường số 5 nữa ấy
chứ (Đèn Cù, trg 196). Rượu thuốc Minh Mạng hay toa thuốc
bổ dương của Mao rất có tiếng?
Một
hôm Tố Hữu đưa cho Trần Đĩnh 2 tập sách của mật
thám Pháp sưu tra Nguyễn Ái Quốc, kể đầy đủ những
việc ông ta làm dưới con mắt 2 mật thám sưu tra cùng ký
tên. Như "Nguyễn đi bệnh viện Cochin (Paris, XIV) trích
áp-xe (abcès) tay lúc mấy giờ. M., người tình của Nguyễn
mấy giờ đến, mấy giờ đi. Nguyễn học thôi miên buổi
tối ở đâu" (Đèn Cù, trg 176).
Ở
An toàn khu, Lý Ban phụ trách Hoa kiều vụ. Lý Ban hoạt
động ở Quảng Đông, vợ Tàu, và nói tiếng Việt thua
Tàu phá sa Bờ Hồ. Ông là người đầu tiên sang Bắc
Kinh chuẩn bị cho việc Hồ Chí Minh lần đầu tiên với
tư cách Chủ tịch nước sang Bắc Kinh để trình diện
Bắc Kinh mong được thừa nhận.
Tháng
10/1949, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời. Hơn 2
tháng sau, Hồ Chí Minh bí mật len qua vùng địch ở Phục
Hòa, Cao Bằng, đi Trung quốc qua Thủy Khẩu. Trần Đăng
Ninh, Vũ Đình Huỳnh, Phạm Văn Khoa theo ông. Lý Ban vốn
tỉnh ủy viên Quảng Đông đi tiền trạm.
Ông
sang kiểm thảo với Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Châu
n Lai. Sau đó, Staline đã phân công Trung Quốc "phụ
trách" Việt Nam. Nghe qua, Trần Đĩnh cụt hứng. Nghĩa
là Staline bàn giao cho Trung Quốc quản lý Việt Nam, tức
cai trị Việt Nam thay thế Liên-Xô ở xa. Chiến tranh biển
người ở Đông Dương của Mao Trạch Đông khởi động
từ sự phân công rất quan trọng năm 1950 của Staline!
Đúng như Hồ Chí Minh nói với vẻ ngụ ý khiêm tốn “Mao
mới có tư tưởng chánh trị”, tức có tài tính toán
xa, chớ ông chỉ có tác phong thôi, tức vâng lời.
Hồ
Chí Minh đã bị Lê Duẩn không cho tham dự họp Bộ chính
trị, còn ra tay hạ ông sát ván. Lê Duẩn cho lệnh công
bố Hồ Chí Minh là tác giả đích thực của 2 cuốn hồi
ký: “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của
Hồ Chủ Tịch của Trần Dân Tiên" (NXB Trẻ Sài
Gòn 2008) và "Vừa đi vừa kể chuyện của T. Lan”
(NXB Trẻ Sài Gòn 2007) và cho phổ biến thật rộng, đưa
cả vào sách giáo khoa của Hà Minh Đức (Hà Minh Đức,
Tác phẩm văn của chủ tịch Hồ Chí Minh, NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội 1985, trang 132 và trang 142).
Một
hôm, khoảng năm 1987, nhà toán- tin học số 1 Hà Nội, Ông
Phan Đình Diệu gặp bạn bè ở Paris, trả lời một câu
hỏi của bạn về trường hợp tại sao tiết lộ chánh
thức Hồ chí Minh là tác giả 2 tập sách kia, ông giải
thích: "Sau 30/4/1975, Lê Duẩn quyền khuynh thiên hạ,
tự nghĩ là mình tài trí cao hơn Hồ Chí Minh một bực,
bèn tìm cách hạ bệ Hồ Chí Minh thêm một cú ân huệ,
để tự nâng cao mình lên tột đỉnh. Công bố Hồ Chí
Minh là tác giả 2 quyển hồi ký trong đó Hồ Chí Minh tự
đề cao mình là nhằm lố bịch hóa Hồ Chí Minh! Cho
người đời nhìn thấy chính bác viết hồi ký để tự
bốc thơm bác! Phan Đình Diệu rất thân thiết với Võ
Nguyên Giáp."
Thế
lực bá quyền của Trung Quốc trên đảng CSVN từ 1950
Ở
Hội nghị 9, Lê Duẩn đã xác định rõ “tư
tưởng Mao Trạch Đông là tư tưởng Lê-Nin của thời đại
ba dòng thác cách mạng Á-Phi-La” (Á Châu,
Phi Châu, Châu Mỹ La-tinh).
Lê
Duẩn suy tôn Mao làm lãnh tụ thì mới hạ Hồ Chí Minh
được để lên ngôi thay thế. Áp dụng ngay chiến thuật
biển người của Mao ở Đông Dương, nắm trong tay quyền
lực chiến tranh, Lê Duẩn thực hiện tham vọng thay thế
Hồ Chí Minh trên thực tế trước. Và tham vọng của Lê
Duẩn làm thương vong hơn 10 triệu sinh mạng nhân dân Việt
Nam. Con số này, Bà 7 Vân, vợ bé của Lê Duẩn, xác nhận
trên BBC trả lời phỏng vấn của Ông Xuân Hồng. Bà còn
nói thêm, "Lê Duẩn có thể hi sinh thêm nữa nếu
Trung Quốc không viện trợ nhiều hơn".
Phần
2 tối mật của Nghị quyết 9, cuối năm 1963, là quyết
định tiến hành chiến tranh giải phóng Miền Nam! Lê Duẩn
và Nguyễn Chí Thanh theo chủ trương của Mao đã thắng
thế trong đảng. Nghị quyết 9 đưa ra nhắm lúc ở Miền
Nam cánh quân nhơn, sau khi hạ được chế độ Ngô Đình
Diệm, thừa thắng xông lên, tranh quyền thay phiên đảo
chánh, làm cho Miền Nam suy yếu. Lê Duẩn biết lợi dụng
thời cơ.
Năm
1954, những người đi kháng chiến thật sự vì lòng yêu
nước, nay hết chiến tranh, họ chọn ở lại làm ăn,
sống hạnh phúc với gia đình. Cuối những năm 50, chính
quyền Ngô Đình Diệm đưa ra chính sách rất hay, phục
hồi "Tinh thần kháng chiến" cho những người đi
kháng chiến chỉ thật vì lòng yêu nước, tách biệt với
Việt Minh cộng sản. Cho phát hành tờ báo "Kháng
Chiến" làm phương tiện tập hợp.
Nhưng
khi những người kháng chiến không cộng sản thật thà
tập hợp lại thì bị Chính quyền kiểm soát chặt chẽ,
như trình diện, khai báo, tối tập trung họ lại ngủ ở
trường học, đình chùa. Lo sợ, họ tìm cách lẩn trốn
tập hợp. Họ bắt đầu bị lùng bắt, gia đình họ bị
khủng bố. Còn những người đi tập kết, phần lớn tập
kết sang Miên, Lào. Và một số được lệnh chôn súng,
bám trụ. Khi Nghị quyết 9 chiến tranh ban hành cuối năm
1963, họ kết hợp lại và tràn ngập lãnh thổ VNCH bằng
đường bộ, đường sông, đường rừng!
Và
cũng từ đây, Hồ Chí Minh thôi họp Bộ Chính trị vì
sức khỏe. Võ Nguyên Giáp, Lê Liêm ngồi chơi xơi nước,
học nhạc lý và đánh piano. Ung Văn Khiêm thôi ngoại
giao.
Vậy
năm 1975, Mỹ thua Mao ở Cao Miên và Sài Gòn chớ không
phải thua Lê Duẩn và Pol Pot. Người đánh cờ thua nhau.
Riêng sự sụp đổ của VNCH có lẽ đã được báo trước
từ năm 1963. Nhưng VNCH sụp đổ ngoài sự quản lý của
Mao. Lúc đó Mao cũng đã già yếu, bệnh hoạn. Đặng
Tiểu Bình chưa kịp lên ngôi. Cơ hội tốt ngàn năm một
thuở cho Lê Duẩn tung hoành cả Đông Dương. Đây là giai
đoạn vàng son của đảng cộng sản Hà Nội. Và Việt
Nam được độc lập tạm thời trong khối xã hội chủ
nghĩa.
Xét
sự nghiệp của Lê Duẩn. Lê Duẩn giết hơn 10 triêu
người Việt Nam để làm "chiến tranh giải phóng cho
Trung Quốc và Liên-xô". Đó là tội diêt chủng và
tội xâm lược VNCH theo luật pháp quốc tế. Đối với
nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa, Lê Duẩn mang tội phản
nghịch. Đối với dân tộc Việt Nam, Lê Duẩn là tên nô
lệ ngoại bang và đưa Việt Nam vào tròng lệ thuộc ngoại
bang: tội trước Tòa án nhân dân và lịch sử Việt Nam.
Lê
Duẩn phải được đặt ngoài vòng pháp luật.
Mao
Trạch Đông chỉ chọn một mình Lê Duẩn làm chiến tranh
ở Việt Nam vì biết Lê Duẩn kiểm soát được đảng
cộng sản và bản tánh du côn, tham vọng lớn nên dễ sai
khiến. Chọn được một tay sai đắc lực thì phải loại
bỏ những người khác.
Về
Mao Trạch Đông
Mao
Trạch Đông từ lâu không cam làm "anh hai" trong
phe xã hội chủ nghĩa. Staline chết, đó là cơ hội cho
Mao đặt lại tư cách đại lãnh tụ. Mao lợi dụng hậu
quả đấu tố của Đại hội 20 ỏ Mạc-tư-khoa để công
khai đả kích Liên Xô.
Đã
ngờ câu nói "Thiên hạ đại loạn, Trung Quốc được
nhờ". Nhưng lúc ấy, Trần Đĩnh vẫn chưa bắt
được trúng nọc của nó. Đó là có xúi và giúp Việt
Nam và thiên hạ đổ máu đuổi Mỹ đi khỏi Việt Nam và
Đông Nam Á thì Trung Quốc mới quàng lấy được hết
Biển Đông và Châu Á.
Xúi
Hà Nội đánh Mỹ, Mao giấu đi mục tiêu chiếm Biển
Đông, tuy Chu Ân Lai đã công khai đòi chủ quyền biển
đảo từ 1949.
Mao
cho làm Chiến tranh biển người ở Đông Dương từ 1949,
phá bỏ cái Quốc tế Cộng Sản để Trung Quốc mới tiến
lên ngang ngửa với Nga và Mỹ được.
Từ
1957, Mao đã nhận định đúng tương quan thực lực giữa
Liên Xô và Trung Quốc. Hiện nay (2014), Nga chỉ có khoảng
150 triệu dân, kinh tế lụn bại như một nước chậm
tiến, trong khi đó Trung Quốc có từ 1,5 tỷ đến 2 tỷ
dân, kinh tế chỉ thua Mỹ. Trong tương lai không xa, Trung
Quốc sẽ khống chế vùng Tây Bá Lợi Á của Nga, Mông Cổ
và Trung Á, về kinh tế và dân cư, và tranh hùng với Mỹ
trong thế giới mới chỉ còn lưỡng cực! Lúc ấy, theo
Trần Đĩnh, ông không nghĩ nổi Việt Nam cần phải theo
Mao, vừa đánh phe "xét lại chống đảng", vừa
phải đánh Mỹ tới người Việt Nam cuối cùng như một
thế chấp nộp Trung Quốc. Nhưng chắc Mao vẫn chưa hài
lòng lắm vì Hà Nội vẫn chưa nộp Võ Nguyên Giáp.
Từ
vụ Nhân Văn Giai Phẩm phụ họa cho cộng sản Tàu đàn
áp cánh hữu nổi lên đòi tự do ngôn luận ở bên Tàu
tới 10 năm sau là vụ "xét lại chống đảng"
hưởng ứng cuộc vận động của Tàu nhằm sắp xếp lại
thế trận làm tan phe cộng sản quốc tế dưới trướng
Liên-xô mãi kìm hãm Trung Quốc ở vị trí phó tướng và
thay đổi cục diện thế giới có lợi cho Trung Quốc, tất
cả có thể nói Việt Cộng đã hăng hái dọn đường
rước Trung Cộng tới thống trị Việt Nam.
Tư
tưởng của Mao
Khoảng
1964, Đặng Thai Mai, Giáo sư Văn chương ở Đại học Hà
Nội, cho đăng ở trang nhất báo Văn Nghệ một bài ca
ngợi "Thơ và Từ" bất hủ của Mao chủ tịch.
Ông viết:
“Tính
tư tưởng và tính nghệ thuật trong Thơ và Từ của Mao
chủ tịch.
Trong
tập Thơ và Từ, chúng ta có thể nhìn thấy một người
anh hùng kiểu mới, người anh hùng của giai cấp vô sản,
người anh hùng lý tưởng của thời đại chúng ta.
Đọc
xong tập Thơ và Từ của Mao chủ tịch, chúng ta có lý do
để mà nghĩ rằng: Phải là con người vĩ đại mới có
thể viết được văn chương thật sự vĩ đại, vì một
tác phẩm văn chương vĩ đại bao giờ cũng biểu hiện
một cá tính vĩ đại”.
Đặng
Thai Mai khám phá ở Mao có tới 3 thứ "anh hùng vĩ
đại" nên phải bày tỏ lòng sùng bái. Hơn nữa, ông
sùng bái để còn vớt vát cho ông con rể Đại tướng
Võ Nguyên Giáp nữa.
Mời
đọc bài Núi Côn Lôn của Mao để thấy tư tưởng
“vĩ đại” của ông (Thơ và Từ của Mao chủ tịch,
Văn học, Hà Nội, 1966, trg 7-30 và 96-97).
Núi
Côn-Lôn
Mà
nay ta bảo Côn-Lôn:
Không
cần quá cao, không cần bấy nhiêu tuyết.
Sao
tựa được trời, rút bảo kiếm,
Đem
ngươi chặt làm ba khúc,
Một
gửi châu u,
Một
tặng châu Mỹ,
Một
trả về Đông quốc.
Phải
chăng Mao muốn chia thiên hạ làm 3, không để cho 2 siêu
cường Nga-Mỹ tranh hùng thế giới một mình? Mao chia phần
Nga thống trị toàn thể Châu Âu, biếu không Trung Nam Mỹ,
kể cả Cu-ba, cho Hoa Kỳ. Châu Á phải là của Mao.
Châu
Á được Mao trong bài thơ gọi là “Đông quốc”. Tại
sao là “Đông Quốc” mà không gọi đúng như tên gọi
xưa nay “Á Đông”? Phải chăng Mao có chủ ý trong mưu
đồ của ông ta? Và “Đông” trong “Đông Quốc” có
thể được hiểu rõ hơn. Đó là nước của Mao Trạnh
Đông theo cái nhìn đầy tham vọng của Mao... Những người
chủ trương theo Mao Trạch Đông, tưởng cũng nên biết
qua Mao vốn là một con người tàn ác vĩ đại và ngông
cuồng tham vọng.
Mao
khi để Tần Thủy Hoàng không có gì siêu quần. Y chỉ
chôn 460 nho sĩ; còn chúng tôi, chúng tôi chôn 46.000 người
(M.H.Bernard, Mao Tsé-toung, 1893-1976, VOIX, Paris 2003).
Tất
cả phe cộng sản phải là "một chậu nước lớn,
nhưng đã ngầu đục, bị Mao lắc cho nổi sóng cuộn gió,
và bên trong chậu đó, các anh hùng hảo hán, các kẻ vệ
đạo nghiêng ngửa hò hét hủy diệt nhau."
Đến
1963, bị ba bề Tây Tạng, Ấn Độ, Đài Loan áp lực
mạnh, Bắc Kinh cần làm chiến tranh ở Việt Nam để bắt
Mỹ phải đem quân vào can thiệp, tạo nên "cuộc
đại loạn toàn thiên hạ cho Trung Quốc được nhờ"!
Quả
thật Bắc Kinh đã góp phần làm tan phe cộng sản và chấm
dứt chiến tranh lạnh. Nhưng mà tốn máu Việt Nam quá
nhiều mà lại không cho Việt Nam! (Đèn Cù, trang 215).
Mao
không muốn gởi quân lính Tàu qua tham chiến ở Đông
Dương, vì Mao cho rằng một đại cường quốc như Trung
Quốc không nên vi phạm Hiệp Định quốc tế như Hiệp
Định Genève 1954, Hiệp Định Paris 1973? Một nước nhược
tiểu cộng sản chậm tiến như Việt Nam thì có thể xóa
bỏ bất cứ Hiệp Định nào!
Cái
chết đột ngột của Nguyễn Chí Thanh
Tháng
6/1967, Mao hạ Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, gần hết
Bộ chính trị cùng 11 vị nguyên soái, thì ở Hà Nội,
bất ngờ xảy ra cái chết của Tướng Nguyễn Chí Thanh
sau bữa cơm tối hôm 6/7/1967 do Võ Nguyên Giáp mời, trước
hôm Thanh đáp máy bay qua Cao Miên để về cục R.
Cái
chết đột ngột của Tướng Nguyễn Chí Thanh thuộc phe
thân Tàu không tránh khỏi gieo nghi ngờ ở nhiều người
ở Hà Nội. Người ta bàn tán nhiều hơn khi đọc được
lời phân ưu của Mao “Xin các đồng chí chớ đau buồn
nhiều”. Tại sao có lời chia buồn kỳ lạ như vậy?
Hay đó là một thông điệp gởi cho phe “xét lại chống
đảng” ngụ ý hăm dọa phục thù?
Mao
Trạch Đông còn đích thân đến Tòa Đại sứ Hà Nội ở
Bắc Kinh phúng điếu, điều mà Mao không làm khi Hồ Chí
Minh chết. Mao muốn biểu lộ sự nghi ngờ và nhấn mạnh
ý thầm kín của Mao về cái chết của Thanh?
Nguyễn
Chí Thanh chết mồng 6/7/1967, thì 28/7/1967, Lê Duẩn cho bắt
bốn đảng viên xét lại đầu tiên, trong đó có Hoàng
Minh Chính, Hoàng Thế Dũng, Phạm Viết, Trần Châu. Tháng
9/1967, Giáp thình lình đi Bratislava “dưỡng bệnh”. Lê
Đức Thọ vào Quân Ủy trung ương, thế lực Thọ hùng
mạnh lên nhiều.
Trong
vòng 6 tháng người ta dọn sạch các trợ lý đắc lực
của Giáp. Nhưng rồi Tết Mậu Thân thua thiệt, cần đến
Giáp, người ta lại đành để cho Giáp về nước (Đèn
Cù, trg 319).
Hồ
Chí Minh cũng điêu đứng vì cũng bị liên can. Theo Lê
Xuân Đức, “Đi tìm xuất xứ thơ Hồ Chí Minh”
(NXB Văn Học, Hà Nội 2012, trang 224), Bác chấp hành nghiêm
chỉnh quyết định của Bộ chính trị, hàng năm đi nghỉ
và chữa bệnh ở Bắc Kinh. Lần này, Bác đi từ ngày
5/9/1967 đến ngày 22/4/1968!
Gần
7 tháng! Lê Duẩn không cho Hồ Chí Minh tham dự cuộc tấn
công Tết Mậu Thân 1968 vĩ đại của Lê Duẩn!
Trần
Đĩnh nhận xét một hôm ấy máy bay Mỹ ầm ầm bay qua,
rất thấp. Có lẽ dòm xem các băng-rôn lính Trung Quốc
căng trắng sườn đồi: “Kháng Mỹ viện Việt. Đả
đảo đế quốc Mỹ”.
Lê
Duẩn bắt đầu thử đẩy mạnh chiến tranh giải phóng
Miền Nam. Thừa cơ hội hưu chiến Tết Mậu Thân, Miền
Nam lo đón Tết, Lê Duẩn ra lệnh tổng công kích các yếu
điểm trên toàn Miền Nam, tin tưởng dân chúng sẽ hưởng
ứng nổi dậy. Nhưng cuộc tổng công kích bị quân lực
Miền Nam đẩy lui, gây tổn thất nặng nề cho phía Hà
Nội. Theo nhà kinh tế học Võ Nhân Trí ở Pháp về Hà
Nội làm việc từ năm 1960, thì Võ Nguyên Giáp phê phán
lén cuộc tấn công Tết Mậu Thân 1968 của Lê Duẩn là
"thắng lợi tơi bời"!
Lúc
mở tổng công kích Miền Nam, Hà Nội gần như bỏ ngỏ
vì đã đưa gần hết chủ lực vào Miền Nam. Sợ Mỹ có
thể trả đũa, Hà Nội nhờ quân chí nguyện Trung cộng
vốn luôn luôn đóng trực ở biên giới sẵn sàng can
thiệp cho Hà Nội theo thỏa ước từ đầu của cả hai
bên. Nhưng muốn được như vậy, Hà Nội phải có thế
chấp lớn nộp gấp Bắc Kinh. Vụ án xét lại ra đời!
Tháng 2/1968 đánh, tháng 7/1967, Lê Duẩn cho hốt đợt đầu
tiên những người có tư tưởng chống lại chủ trương
đánh chiếm gắp Miền Nam (Đèn Cù, trang 318).
Từ
nay, Lê Duẩn một mình làm vua một cõi, chỉ cần chấp
hành mệnh lệnh Thiên triều.
Tóm
lược
Trần
Đĩnh viết Đèn Cù với một sự thành thật của một
đảng viên kỳ cựu phản tỉnh sau thời gian dài sống
với đất nước, sau 30/04/1975, gặp lại gia đình ở Sài
Gòn. Ông cũng chứng kiến những trường hợp vỡ mộng
của những người trước kia từng hăng say xẻ dọc
Trường Sơn xâm nhập vào Nam đánh cho Mỹ cút, Ngụy nhào
để đem lại ấm no cho bà con trong Nam. Nay họ lại mong
Mỹ thả bom cho tang hoang hết. Cái uất hận của người
dân từng theo công sản nay tỉnh ngộ đã trào dâng tột
cùng của sức chịu đựng. Còn người dân trong Nam, khi
cái đảng của Trần Đĩnh tới thì họ chấp nhận thân
phận “một con nuôi má, hai con nuôi cá, ba má nuôi con”!
Số phận bi thảm này có tới hằng triệu người, đủ
mọi thành phần xã hội.
Trần
Đĩnh nhận diện được cái ác của chế độ. Nhưng ông
nhận diện bằng cặp mắt tranh chấp phe cánh của một
đảng viên "cộng sản khoa học yêu chuộng hòa bình",
chớ chưa bằng cái tâm trong sáng thuần túy của con người
Việt Nam! Thỉnh thoảng ông vẫn còn ray rứt vì chuyện
ông bị đuổi ra khỏi đảng. Ray rứt chính với lương
tâm của ông bởi khi vào đảng, ông đã long trọng đưa
cao tay trái lên thề “suốt đời trung thành với đảng”.
Người đảng viên phải biết bỏ tất cả để chỉ còn
giữ đảng trong trái tim của mình mà thôi. Nay bị khai
trừ thì làm sao ông trung thành như đã thề được nữa?
Trong Đèn Cù, nhiều lần ông viết "ông cảm thấy
khá xấu hổ vì bị đảng khai trừ. Nhưng ông cũng bảo
vết thương đó lành lặn khá nhanh nhờ ông không bịa
đặt".
Trong
việc thanh toán nhau về tội xét lại chống đảng, ông
đã không bị bản án tù như những người khác mà chỉ
bị hạ từng công tác, từ nhà báo xuống làm lao động
nhà in. Nhờ ông du học ở Tàu, có vợ Tàu và từng được
những “voi già” ưu ái? Đây cũng là một ưu điểm hơn
nhiều người khác.
Trong
Đèn Cù, điểm nổi cộm là Lê Duẩn và Nguyễn Chí Thanh
theo Mao Trạch Đông đánh chiếm Miền Nam cho Tàu “Thiên
hạ loạn, Trung Quốc nhờ” nên ngày nay Việt Nam lệ
thuộc Tàu bắt nguồn từ đó. Và Tàu tiến dần
làm chủ biển đông. Riêng Lê Duẩn theo Mao, đánh giặc
cho Mao, để được Mao cho thay thế Hồ Chí Minh. Hai con
bài của Mao là Lê Duẩn về chánh trị, Nguyễn Chí Thanh
về quân sự. Nhưng chẳng may, Nguyễn Chí Thanh chết sớm
đã làm cho Mao tức giận.
Đảng
cộng sản tranh chấp nhau, giết nhau, chỉ vì phe phái đi
theo hoặc Tàu, hoặc Liên-xô. Chưa có một ngày, đảng
cộng sản này theo Việt Nam.
Việt
Nam bất hạnh có Hồ Chí Minh, một thứ xách động
(agit-prop), vì tham vọng phục hận thời trẻ của mình mà
đem cái cộng sản về Việt Nam. Bất hạnh hơn là có một
số người vô minh đi theo, một số khác không thể làm
gì khác hơn là làm cách mạng cộng sản nên có hơn mười
triệu người dân đã ngã gục cho sự nghiệp tàn phá đất
nước của Hồ Chí Minh và cái đảng của ông để ngày
nay nước mất cho Tàu.
Giết
hại văn nghệ sĩ, trí thức trong vụ nhân Văn Giai Phẩm,
giết hại nông dân, cả gia đình, tại hiện trường và
kéo dài về sau, có cả nửa triệu, làm mất sự sản
xuất xã hội trong mấy năm liền. Tất cả đều do Mao
chỉ huy từ Bắc Kinh.
Phải
chi trước kia, thực dân Pháp đã sáng suốt thấy được
chân tướng tay sai trung kiên của Hồ Chí Minh mà nhận
ông vào học trường thuộc địa thì chắc chắn Việt
Nam đã có giải pháp chính trị đem lại độc lập
trước 1975, không bị nạn cộng sản như ngày nay.
Năm
2012, người ngoài cuộc, Tiến sĩ Nguyễn Thị Liên Hằng
trong quyển “Cuộc chiến tranh của Hà Nội”,
viết: “Lê Duẩn và Lê Đức Thọ đã chọn con đường
phát động chiến tranh (cho tàu). Trong nội bộ đảng đàn
áp, loại khỏi quyền lực những ai phản đối đường
lối theo Tàu...” (Đèn Cù, trg 557).
Quyển
Đèn Cù, với những thông tin chi tiết, rất có ích cho
độc giả, nhất là độc giả trong nước. Có nhiều
người cho rằng tác giả cũng chỉ nói lại những điều
được biết qua rồi. Thật ra, có nhiều chuyện phần lớn
độc giả chưa biết hoặc biết chưa rõ. Nhưng dù có
biết qua đi nữa, đọc Đèn Cù để những điều đã
biết được xác nhận thêm bởi người trong cuộc thân
cận thâm cung như Quan Thái giám và nhờ ở sự thành thật
của ông.
Nếu
hỏi Trần Đĩnh viết Đèn Cù phơi bày những chuyện
“thâm cung bí sử ” của đảng, nhất là tố cáo rõ
ràng đảng công sản Hà Nội theo Tàu, lệ thuộc Tàu từ
đầu thập niên 50 của thế kỷ trước cho tới ngày nay
mà sao ông vẫn an nhiên sống ở Việt Nam? Mà mai kia, có
thể ông sẽ ra chơi ngoại quốc, ký tên sách cho độc
giả? Tôi nghĩ những điều Trần Đĩnh nói đều phù hợp
với đường lối của đảng cộng sản Hà Nội hiện
nay. Tức ý muốn nói ông không làm gì khác hơn là công
khai và xác nhận thực tế chính trị của Việt Nam. Đồng
thời ông cũng xúc phạm đến thần tượng Hồ Chí Minh?
Nên nhớ người Hy Lạp thờ thần và giử nhiều huyền
thoại nhưng họ không tin thần và huyền thọai. Đảng
cộng sản Hà Nội thờ thần tượng Hồ Chí Minh và giử
đảng cộng sản nhưng chỉ tin Thần Tài và sự mầu
nhiệm của tham nhũng.
Mong
cuốn tiếp theo Đèn Cù II sẽ đem lại cho đông đảo độc
giả sự hài lòng nhiều hơn.
Và
cũng mong VN hiện nay sẽ có thêm nhiều Trần Đĩnh khác
và nhiều Đèn Cù khác.
Paris,
Thu 2014
No comments:
Post a Comment