10/12/2013
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Quận 9, ngày 04 tháng 12 năm 2013
ĐƠN
TỐ CÁO
Ông
Lê Hoàng Quân, Ủy viên TW Đảng, Chủ tịch UBND TP HCM,
Trưởng
Ban phòng chống tham nhũng TP HCM
Kính gửi - ÔNG NGUYỄN PHÚ TRỌNG, TỔNG BÍ THƯ ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM,
ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI - TRƯỞNG BAN CHỈ ĐẠO TRUNG ƯƠNG
VỀ PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG
- ÔNG NGUYỄN BÁ THANH - TRƯỞNG BAN NỘI CHÍNH
TRUNG ƯƠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Người
tố cáo: Nguyễn Xuân Ngữ - 71 tuổi, cựu chiến binh,
cán bộ hưu trí, gia đình liệt sĩ, chủ quyền nhà, đất hợp pháp số 166/6 khu
phố Mỹ Thành, P.Long Thạnh Mỹ, quận 9, CMND số 023030668 CATPHCM cấp ngày
13/9/2004. ĐT: 0913777040. Email: xuanngu@ymail.com .
Hiện bị chính quyền Q9 phá hết nhà cửa, cướp
hết tài sản, đất đai, trang trại, dồn ép vào khu phòng trọ (tạm cư
trá hình), phòng C9, nhà số 41, Tăng Nhơn Phú, P. Phước Long B, Q.9, TP HCM -
theo mô hình “khu dồn dân – khu trù mật” do chính quyền quận 9 và UBND
TP HCM dựng lên.
Người
bị tố cáo: Ông Lê Hoàng Quân, UVTW Đảng,
CTUBNDTP,
Trưởng ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng TP
HCM
Địa chỉ: 86 Lê Thánh Tôn, Quận 1, TPHCM.
Cơ
sở pháp lý để tố cáo:
Căn cứ khoản 1,2,3 - Điều 2 ; Điều 19, Luật tố
cáo số 3 QH 13
NỘI DUNG TỐ CÁO
1. Chủ tịch UBNDTPHCM cưỡng ép, sai pháp luật, mất dân chủ. Cụ thể:
Ông Lê Thanh Hải, tiếp sau là ông Lê Hoàng Quân
không tống đạt quyết định thu hồi đất đến tôi (QĐ 2666/QĐ-UB ngày 26/7/2002) mà
buộc tôi phải thi hành, mặc dù trong rất nhiều đơn, tôi đã nhiều lần yêu cầu
tống đạt quyết định 2666/QĐ-UBND đến tôi, nhưng CTUBNDTP không thực hiện. Đây
là việc mất dân chủ và vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Ông Tổng Bí thư và ông
Trưởng Ban Nội chính hãy trả lời là tôi có phải thi hành QĐ 2666 này không? Nếu
phải thi hành, thì các ông phải chỉ rõ là căn cứ vào điểm nào của QĐ 2666 cũng
như của các quy định của pháp luật? Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền, việc gì
cũng phải rõ ràng minh bạch trên cơ sở pháp luật.
2. Ông Lê Hoàng Quân, buông lỏng quản lý, để ông Nguyễn Thành Tài, Phó Chủ
tịch UBNDTP lộng quyền, chỉ đạo Chủ tịch UBND Q9
cưỡng chế sai pháp luật, bằng cách ban hành công văn 9928/VP-ĐTMT ngày
14/12/2008 của VP HĐND&UBND TP có nội dung:
“… Qua xem xét, Phó Chủ tịch Thường trực Ủy ban nhân
dân thành phố Nguyễn Thành Tài có ý kiến giải quyết như sau:
Chấp thuận cho Ủy ban Nhân dân quận 9 áp dụng biện
pháp cưỡng chế hành chính đối với 22 hộ dân để thu hồi đất do không chấp hành
bàn giao mặt bằng…”. Việc cưỡng chế 22 hộ dân này là trái quy định của pháp
luật vì họ chưa nhận được quyết định thu hồi đất theo Điều 21 (Luật Đất đai
1993, 1998, 2001) và Điều 32 (Luật Đất đai 2003). Giao đất, cho thuê đất đối
với đất đang có người sử dụng cho người khác. Nội dung điều luật này là:
“Việc quyết định giao đất, cho thuê đất đối với đất
đang có người sử dụng cho người khác chỉ được thực hiện sau khi có quyết định
thu hồi đất đó”.
Điều 39, Điều 40, Điều 44 Luật Đất đai 2003 cũng bắt
buộc cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải ra QĐ thu hồi đất đối với tổ chức, cá
nhân đang sử dụng đất.
3. Chủ tịch UBND TP HCM, buông lỏng quản lý để cấp phó ngang ngược ra lệnh
không tiếp nhận giải quyết khiếu nại, tố cáo của tôi một cách tùy tiện, theo
kiểu luật rừng.
Tôi không đồng ý QĐ giải quyết khiếu nại của UBND
Q9, từ năm 2005 tôi liên tiếp gửi đơn khiếu nại tiếp lên chủ tịch UBND TP theo
luật định, nhưng đến nay tôi vẫn chưa nhận được quyết định giải quyết khiếu nại
của CT UBND TP HCM.
Tôi tiếp tục tố cáo việc làm sai trái của lãnh đạo
quận 9. Ngày 19/01/2011 Chủ tịch UBND TP ban hành công văn 227/UBND-PCNC về
việc giải quyết tố cáo do ông Nguyễn Thành Tài, Phó Chủ tịch thường trực ký
thay, sau khi bênh vực một cách trắng trợn, mà không đưa ra được chứng lý biện
minh cho các quan chức đảng và nhà nước quận 9 không sai phạm, CV 227 còn có
đoạn rất trịch thượng: “UBNDTP trả lời cho ông rõ và thông báo chấm dứt tiếp
nhận để xử lý, xem xét các nội dung tương tự như trên”, trong khi đó Chủ tịch
UBND TP HCM chưa một lần ra QĐ giải quyết khiếu nại cho tôi theo luật Khiếu nại
tố cáo kể cả khi Văn phòng Chính phủ có văn bản truyền đạt ý kiến Thủ tướng
Chính phủ yêu cầu Chủ tịch UBND TP HCM giải quyết khiếu nại cho tôi theo quy
định của pháp luật.
Hành xử của Chủ tịch UBND TP HCM như thế là vi phạm
Luật Đất đai, Luật Khiếu nại, Tố cáo, Luật Cán bộ, Công chức, vi phạm Quy định
số 94/QĐ-TW ngày 15/10/2007 của Bộ Chính trị về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm
(trường hợp này phải xử lý!!!), vi phạm Thông báo số 130-TB/TW ngày 10/01/2008
của Bộ Chính trị… và coi thường Thủ tướng Chính phủ. Hành vi này tôi đề nghị cơ
quan có thẩm quyền phải nghiêm túc xem xét và phải công khai kết luận từng nội
dung vi phạm.
4. Ông Nguyễn Văn Thành, Phó Chủ tịch UBND Q9 có dấu hiệu gian trá, lừa
dân, kiểu chợ trời, xã hội đen… mà Chủ tịch
UBNDTP vẫn bao che cho là đúng pháp luật! Cụ thể:
- QĐ 3144, ban hành 12/2005, QĐ 13, ban hành 2009,
nêu căn cứ Luật đất đai 2003 (nhưng chỉ là lừa bịp, thực tế Quận 9 không thực
hiện (bị vạch mặt, ông Thành phải công nhận tại Công văn 690).
- QĐ cưỡng chế số 13/UBND), nêu căn cứ QĐ
422/QĐ-UBND-TTr v/v giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND TP cũng chỉ là lừa
bịp. Vì QĐ 422 mới chỉ là QĐ giải quyết khiếu nại lần đầu của Chủ tịch UBND Q9
(sáu tháng sau UBND Q9 phải “ đính chính” bằng QĐ 95, khi việc cưỡng chế đã
thực hiện xong!?).
- Khi trả lời cho tôi tại CV 690 ngày 20/05/2009
UBNDQ9 nêu: “… ngày 29/5/2008, UBNDQ9 đã tổ chức công bố quy hoạch chi tiết
1/2000 Khu Công nghệ cao tại Nhà Thiếu nhi quận”. Câu trả lời này cũng chỉ là
bịp bợm. Xin mời quý ông xem thư mời và bài báo để thấy ông Nguyễn Văn Thành
gian manh đến cỡ nào?
Thư mời VP HĐND và UBND Q9 ghi rõ “ …công bố quy
hoạch chung xây dựng tỉ lệ 1/5.000 Khu Công nghệ cao của UBND thành phố” (làm
gì có công bố bản đồ 1/2000). Tiếp theo bài “Đẩy nhanh tiến độ dự án Khu Công
nghệ cao TP HCM” số ra ngày 8/6/2009 trên báo Sài gòn Giải phóng, thì:
“dự kiến đến tháng 6-2009 KCNC mới có phê duyệt quy hoạch xây dựng chi tiết
1/2000”. Đúng là một tên bịp trắng trợn phải không các vị?
5. UBND Q9 áp dụng các quy định pháp luật đã hết hiệu lực.
- Theo thừa nhận của UBND Q9 tại CV 690: 12/2005 (QĐ
3144) UBND Q9 áp dụng theo Luật Đất đai 1993, 1998, 2001. Trong khi Điều 145
(LĐĐ 2003), đã công bố Luật Đất đai 1993, 1998, 2001 hết hiệu lực từ
01/07/2004. Đó là điều không thể chấp nhận.
- Tháng 12 năm 2005 mà UBND Q9 tính giá đất bồi
thường theo QĐ 121 của UBND TP ban hành 1998 (theo NĐ 22/1998 đã hết hiệu lực
năm 2005, do khoản 2 Điều 50 NĐ 197/2004), đồng thời là sai với khoản a Điều 9
NĐ 197/2004:
“a) Bồi thường chậm do cơ quan, tổ chức có trách
nhiệm bồi thường gây ra mà giá đất tại thời điểm bồi thường do Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh công bố cao hơn giá đất tại thời điểm có quyết định thu hồi thì bồi
thường theo giá đất tại thời điểm trả tiền bồi thường; nếu giá đất tại thời
điểm bồi thường thấp hơn giá đất tại thời điểm có quyết định thu hồi thì bồi
thường theo giá đất tại thời điểm có quyết định thu hồi”.
Các ông trả lời cho tôi biết đặt trong hoàn cảnh của
các ông, các ông có chấp nhận chính quyền của một nhà nước pháp quyền mà thi
hành pháp luật một cách tùy tiện như vậy không? Còn tôi thì không thể chấp nhận
trong chính quyền của dân, vì dân, do dân… mà tôi và gia đình tôi đã chiến đấu
góp phần dựng nên lại có một nhóm người nhân danh nhà nước mà hành xử với dân,
với cựu chiến binh, có những hành vi thủ đoạn, đểu cáng như vậy!
6. UBND Q9 áp dụng không đúng pháp luật.
Trong QĐ cưỡng chế hành chính số 13/UBND ngày
03/04/2009 của UBND Q9, có nêu căn cứ nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/07/2007
của chính phủ. Nhưng gần như toàn bộ các quy định bắt buộc từ điều 49 đến điều
59 (NĐ 84/2007) trước khi cưỡng chế UBND Q9 không thực hiện. Cụ thể:
Điều 49. Xác định và công bố chủ trương thu hồi đất
(cán bộ phường công bố miệng, không có QĐ, bản đồ quy hoạch được duyệt, không
đúng theo quy định. Đến nay Chính phủ có 3 QĐ: QĐ 95/2003/QĐ-TTg ngày
13/05/2003 quy mô 804 ha; QĐ 458/QĐ-TTg ngày 18/04/2007 quy mô 913,1633 ha; QĐ
24/QĐ-TTg ngày 06/01/2010 quy mô 872 ha. Theo luật hành chính, quyết định của
cùng một cấp, quyết định sau phủ định quyết định trước và phủ định quyết định
của cấp dưới về một nội dung. Vậy chúng tôi kính đề nghị quý ông yêu cầu cơ
quan chức năng cung cấp cho chúng tôi bản đồ được duyệt KCNC 872 ha và bản đồ
KCNC 913,1633 ha để chúng tôi đối chiếu xem đất của chúng tôi có nằm ngoài KCNC
được duyệt sau cùng hay không? Luật Đất đai và Luật phòng chống tham nhũng bắt
buộc phải công khai thông tin này cho người dân.
Điều 50. Chuẩn bị hồ sơ địa chính cho khu đất bị thu
hồi (đến 25.8.2008 vẫn chưa có bản đồ 1/2000, như trên đã nêu).
Điều 51. Lập, thẩm định và xét duyệt phương án tổng
thể về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư (có/không?, chưa thấy công bố).
Điều 52. Thông báo về việc thu hồi đất (không làm).
Điều 53. Quyết định thu hồi đất (chưa có/chưa tống
đạt, lấy gì làm căn cứ để tôi thực hiện hoặc khiếu nại?).
Điều 54. Giải quyết khiếu nại đối với quyết định thu
hồi đất (không có QĐ thu hồi đất nên dân không biết căn cứ vào đâu để khiếu
nại).
Điều 55. Kê khai, kiểm kê và xác định nguồn gốc đất
đai (không công khai minh bạch, chỉnh sửa nhiều lần vẫn không đúng).
Điều 56. Lập, thẩm định và xét duyệt phương án bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư (theo quy định tại Nghị định số 197/2004/NĐ-CP và
Nghị định số 17/2006/NĐ-CP. Nhưng Quận 9, TP HCM không thực hiện
197/2004/NĐ-CP, 17/2006/NĐ-CP mà thực hiện theo NĐ 22/1998/NĐ-CP)!
Điều 57. Công khai phương án bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư (không thực hiện).
Điều 58. Thực hiện chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ
và bố trí tái định cư (lập lờ việc bồi thường, chưa trả đủ tiền, chưa có chỗ
tái định cư, nói có quyết định phân nền, nhưng đến giờ này tôi chưa thấy, chỉ
nêu trong công văn trả lời và báo cáo)!
Điều 59. Thời điểm bàn giao đất đã bị thu hồi (chưa
có QĐ thu hồi đất nên dân không biết thời điểm nào thu hồi để giao) .
Điều 60. Cưỡng chế thu hồi đất
1. Việc cưỡng chế thu hồi đất theo quy định tại
khoản 3 Điều 39 của Luật Đất đai chỉ được thực hiện khi có đủ các điều kiện sau
đây:
a) Thực hiện đúng trình tự, thủ tục về thu hồi đất,
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư quy định tại các Điều 49, 50, 51, 52, 53, 54,
55, 56, 57, 58 và 59 Nghị định này;
Theo điểm a) này bắt buộc chính quyền phải thực hiện
đầy đủ từ Điều 49 đến Điều 59 mới được cưỡng chế. Nhưng quận 9 TP HCM không
thực hiện mà đem công lực đến cưỡng chế phá nhà lấy đất dân.
Thế mà Chủ tịch UBND TP HCM nói UBND Q9 là đúng theo
pháp luật?
7. Lập lờ việc giải quyết khiếu nại và tố cáo, báo cáo không trung thực với
cấp trên và công luận.
- Theo luật định giải quyết khiếu nại (bằng quyết
định), là nghĩa vụ, trách nhiệm của cơ quan, công chức nhà nước khi người dân
khiếu nại quyết định hành chính của mình.
Thế nhưng Chủ tịch UBNDQ9 chưa ra quyết định giải
quyết khiếu nại của tôi đối với quyết định cưỡng chế số 13/QĐ-UBND ngày
03/04/2009 nhưng tại công văn 338/UBND-BBT ngày 17/03/2010 của UBNDQ9 có đoạn:
“ Bằng văn bản này, UBNDQ9 kết thúc thụ lý đơn kiến nghị của hộ ông Nguyễn Xuân
Ngữ. Nếu hộ ông Ngữ tiếp tục nộp đơn kiến nghị với các nội dung như trên thì
UBNDQ9 sẽ xử lý lưu tham khảo theo quy định”. Rõ ràng UBNDQ9 đứng trên luật
pháp. Văn bản nào cho phép UBND quận ra quyết định cưỡng chế mà không cho dân
khiếu nại?
- Ngày 19/01/2011 tại công văn 227/UBND-PC của Chủ
tịch UBND TP về việc giải quyết tố cáo, do ông Nguyễn Thành Tài, Phó Chủ tịch
thường trực ký thay, cũng có đoạn: “UBND TP trả lời cho ông rõ và thông báo
chấm dứt tiếp nhận để xử lý, xem xét các nội dung tương tự như trên” (phần trên
đã nêu).
Xin nói rõ hơn, CV 227 là văn bản giải quyết tố cáo
(không phải quyết định giải quyết khiếu nại). Nhưng bằng các văn bản lập lờ này
UBND quận 9 và UBNDTP chỉ đạo cho các cơ quan chức năng là vụ việc của tôi quận
và thành phố đã giải quyết xong, không nhận đơn khiếu nại của tôi nữa.
- Tiếp theo, ngày 27/03/2013, trước khi lên làm Phó
Ban Nội chính Trung ương, ông Lê Minh Trí, Phó Chủ tịch UBND TP HCM còn kịp ký Thông
báo 73/TB-UBND Về chấm dứt thụ lý giải quyết vụ việc tố cáo của ông Nguyễn Xuân
Ngữ, quận 9.
Bằng các văn bản này UBND TP báo với các đoàn thanh
tra, kiểm tra của Trung ương là vụ khiếu nại của tôi thành phố đã giải quyết
xong, từ đó Trung ương cũng bị thành phố qua mặt từ đó mà bỏ qua vụ việc khiếu
nại của tôi. Thực tế vụ việc khiếu nại của tôn UBND TP HCM chưa có quyết định
giải quyết khiếu nại và tôi vẫn tiếp tục gửi đơn khiếu nại, thì làm sao gọi là
đã giải quyết xong vụ việc của tôi?
Kính
thưa ông Tổng Bí thư và ông Trưởng Ban Nội chính Trung ương, ngày 22/04/2013 vừa qua 65 hộ dân (trong đó có tôi) bị lấy đất xây Khu
Công Nghệ cao TPHCM tố cáo Lê Thanh Hải và Nguyễn Văn Đua (xem tại
http://lehienduc2013.blogspot.com/2013/04/cong-dan-quan-9-to-cao-le-thanh-hai.html
; hoặc tại http://lehienduc2013.blogspot.com/2013/11/cac-cong-dan-quan-9-sai-gon-to-cao_6865.html
và tại http://caunhattan.wordpress.com/2013/04/21/dan-quan-9-tp-hcm-to-cao-uy-vien-bo-chinh-tri/
).
Chúng tôi ký đơn có ghi địa chỉ, số CMND, nghĩa là
chúng tôi phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những nội dung chúng tôi nêu
ra. Đơn tố cáo gửi bưu điện bằng thư phát chuyển nhanh có hồi báo, các trang
mạng cũng đã đăng… Thế mà từ đó đến nay không một ai đối thoại với chúng tôi để
xem xét, xử lý sai trái, tiêu cực… Điều mà tôi không biết lý giải như thế nào
về “quyết tâm” chống tham nhũng của Trung ương, chúng tôi chỉ có thể suy đoán
chỉ có lý do là: “các vị ở Trung ương chắc cũng được chia chác, nhúng chàm nên
ém luôn” mà thôi.
Tôi hy vọng là suy đoán của chúng tôi không đúng nếu
như Đơn tố cáo này của tôi được các vị trực tiếp thẩm tra, có kết luận cụ thể,
khách quan các vấn đề tôi nêu ra trong đơn tố cáo này.
Tôi trân trọng kính chào.
Người ký đơn tố cáo
Nguyễn
Xuân Ngữ
Đường dẫn xem hình ảnh phá nhà ông Nguyễn Xuân Ngữ:
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 03:18
No comments:
Post a Comment