Trần Vũ
Tháng 12 13, 2013
Thắng lợi vĩ đại của quân và dân Việt Nam trong sự
nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước được ví như một cuộc “chiến đấu thần kỳ”
và trở thành biểu tượng của lương tri và phẩm giá con người. Mỗi chiến công
trong cuộc chiến đấu ấy là một kỳ tích. “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không” 40
năm trước là một chiến công như thế – tiêu biểu cho khí phách anh hùng, tầm cao
trí tuệ và bản lĩnh Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.
Đại tướng Phùng Quang Thanh
Điều làm nên một quân nhân, là phẩm chất suy nghĩ
độc lập biết lĩnh hội sức mạnh phản chiếu từ nhiều tấm gương lịch sử.
Gerhard von Scharnhorst
*
1.
Tập san quân đội Pháp
Nhìn vào một tập san quân đội, trông thấy sức mạnh
của quân đội ấy.
Không ngẫu nhiên mà vào thời hoàng kim của đế chế
Pháp, đầu thế kỷ 19, Journal Militaire dầy 800 trang đậm đặc các tranh
luận học thuật về đạn đạo, cự ly, cách vẽ xạ bảng hay phân bố đại bác trên trận
địa… Pháo binh, là một vũ khí mới ở thời kỳ này. Trung pháo 75 ly là vũ khí
xương sống làm nên sức mạnh của quân đội Pháp.
Từ giữa thế kỷ 19, Journal Militaire đổi tên
thành Journal Militaire Officiel [Tập san Quân đội Chánh thức] mất dần
đi chất học thuật, số trang mỏng đi và thay vào các chủ đề Hướng dẫn Tác xạ [Instructions
du Tir] là những huấn thị của Bộ Quốc phòng, rồi danh sách các sĩ quan được
thăng thưởng phía sau. Tính chất tuân thủ nhiều thêm, cùng lúc tính kỹ thuật
giảm đi, và, một cách trùng hợp, quân đội Pháp suy yếu.
Khi chiến tranh tái diễn, các hậu duệ của Nã Phá
Luân nhanh chóng thảm bại. Tuy quân số đông hơn và các chiến xa nặng Renault B1
được bọc thép dầy hơn, nhiều hơn, so với kẻ thù truyền kiếp là quân Đức, quân
Pháp vẫn phải đầu hàng. Các sử gia đều đồng thuận khi phán quyết: Học thuyết
chiến tranh của Pháp lỗi thời là nguyên nhân chính. Lấy vận tốc hành binh dựa
trên bước chân bộ binh trong Thế chiến thứ nhất làm chuẩn, các tướng lãnh Pháp
không theo kịp vận tốc động cơ của quân Đức. Vắn tắt, tụt hậu tư duy so với
thời đại.
Journal Militaire Officiel trưng bày những tụt hậu này.
Khác tập san quân đội Đức đương thời tràn ngập các
tiểu luận mổ xẻ ưu khuyết điểm giữa hai học phái quân sự đối nghịch, giữa
Clausewitz Phổ và Antoine-Henri de Jomini từng làm tham mưu cho Nã Phá Luân,
các khảo luận trên tập san quân đội Pháp về những trận đánh xưa cũ Marengo,
Ulm, Austerlitz, Jena, Wagram thiên về ca ngợi thiên tài của Nã Phá Luân, hoặc,
ca ngợi công trạng của Pétain và Foch khi viết về những trận đánh gần hơn nhưng
không đúc kết, không đề xuất chiến lược mới. Một góc cạnh khác: Clausewitz gần
như vắng bóng trên Journal Militaire Officiel, trong lúc Clausewitz đã
trở thành bậc thầy tư duy của Bộ Tổng Tham mưu Đức. Các quân nhân Pháp sở hữu
duy nhất một bản dịch Clausewitz của trung tá de Vatry xuất bản năm 1866 bị xem
là rối rắm đầy lỗi. Cho đến bản dịch thứ nhì của Denise Naville in năm 1955,
không có bản hiệu đính, chú giải hay diễn dịch nào khác. Không phân tích kẻ thù
suy nghĩ gì nên không hiểu học thuyết chiến tranh của kẻ thù, là khiếm khuyết
lớn nhất của quân đội Pháp. Khiếm khuyết càng nặng nề vì Moltke kế thừa
Clausewitz, Schlieffen kế thừa Molkte và Manstein tiếp nối truyền thống. Chính
các thống chế Đức kể trên tiêu hủy nền Đệ nhị rồi Đệ tam Cộng hòa Pháp.
Không phải đã không có những cố gắng cập nhật. Một
vài trường hợp lẻ loi, như thiếu tá Henri Navarre thuộc Phòng Nhì, từ 1938 đến
1939 cho phiên dịch và đăng tải một số lý thuyết chiến xa của Guderian nhưng đã
quá muộn, chiến tranh đã áp sát. Trước đó, trong một nỗ lực cá nhân về sau được
xem là viễn kiến, trung tá de Gaulle yêu sách tái cơ cấu và cơ khí hóa tức khắc
quân đội Pháp: thay vì phân tán các thiết đoàn thành những đơn vị độc lập làm
nhiệm vụ hỗ trợ hỏa lực cho bộ binh, cần tập trung chiến xa thành lập những sư
đoàn thiết giáp làm nên mũi nhọn kỵ binh. Tiếng nói của de Gaulle lạc lõng trên
mặt báo ưu tiên cho những trang về quy chế hưu bổng, cấp dưỡng, và chìm
dưới các huấn lệnh của Weygand, Gamelin là những đại tướng của chiến tranh quá
khứ. Tiểu luận Hướng về Quân đội Nhà nghề [Vers l’Armée de Métier] của
de Gaulle không gây tiếng vang, không tạo ra tranh luận, ít tác động, vì hầu
hết các tác giả viết bài trên Journal Militaire Officiel là những sĩ
quan cao tuổi, quyền chức, trung thành với đường lối suy nghĩ của các thống chế
Pétain, Joffre, Foch. Khái niệm “Vận tốc tương đương với hỏa lực” của de
Gaulle, xa lạ đối với họ.
Có thể viết: Tập san quân đội Pháp vào nửa đầu thế
kỷ 19 mang sức mạnh chinh phạt của quân đội Pháp; đến nửa đầu thế kỷ 20 phản
ảnh tính cách hoài niệm thụ động của quân đội này. Tuy vinh danh Nã Phá Luân,
nhưng quân đội Pháp không kế thừa vị hoàng đế. Thiếu tá Henri Navarre, mà về
sau trở thành Tổng Tư lệnh quân viễn chinh Đông Dương, không biết đến những phê
phán kịch liệt của Moltke đối với tính hữu dụng của những pháo đài cố định. Nếu
đã biết, Navarre sẽ, hay không xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ? Navarre
biểu trưng cho giai cấp tướng lãnh quên đi lời dặn của Nã Phá Luân: “Một trong
hai đối thủ, kẻ nào ngồi lại trong giao thông hào, kẻ đó bị tiêu diệt.” Điện
Biên Phủ, chính là cánh tay nối dài của chiến lũy Maginot đã bất lực trước các
xa đoàn Panzer của Guderian. Điện Biên Phủ sẽ bất lực trước Việt Minh.
Hôm nay khi sùng bái các chiến thắng anh hùng của
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, tập san Quân đội Nhân dân Việt Nam khá giống với tập
san Quân đội Pháp vào thời kỳ suy vi: Say sưa với Nã Phá Luân mà quên đi học
thuật, trống vắng dự phóng vào tương lai, cùng lúc tránh né uy hiếp hiện tại.
Càng giống ở tính chính thống lặp lại tư duy độc nhất của thượng tầng lãnh đạo
quân đội. Tiếng nói của các sĩ quan trẻ bị gạt sang bên, như de Gaulle từng bị
buộc im tiếng.
2.
Tập san quân đội Đức
Nhìn vào một tập san quân đội, trông thấy sức mạnh
của quân đội ấy.
Giám định này đúng với tập san quân đội Đức. Không
ngẫu nhiên mà tập san Militär-Wochenblatt, xuất bản từ 1816 đến 1942,
trải qua ba thời kỳ sinh động: Thời gian Moltke rồi Schlieffen làm Tổng Tham
mưu trưởng và giai đoạn khi Hitler lên cầm quyền. Cả ba thời kỳ trên, đạt đến
sức mạnh tối ưu, quân đội Đức làm nên những chiến thắng sấm sét: Sedan 1870,
Tannenberg 1914, Sedan 1940, Kiev 1941, Sébastopol 1942 và Tobrouk cùng năm.
Cũng vẫn trùng hợp như khi Journal Militaire Officiel đánh mất tính chất
học thuật thì quân đội Pháp suy yếu, sau khi Militär-Wochenblatt phải
đình bản vì bị kiểm duyệt, quân đội Đức đi từ thất bại này sang thất bại khác.
Stalingrad, El Alamein, Koursk, Normandie là chuỗi thất trận mà những chiến
thắng địa phương Monte Cassino, Kharkhov không thể cứu vãn. Cái chết của quân
đội Wehrmacht, tuy vậy, vẫn không ngăn các sử gia đánh giá quân đội này như một
đạo quân tiên phong trong nhiều lĩnh vực và giá trị học thuyết chiến tranh Đức
tiếp tục được giảng dạy. Tập san quân đội Đức, trước và giữa hai Thế chiến,
đóng góp không nhỏ cho sức mạnh trí tuệ của quân đội hoàng gia, rồi quân đội
Cộng hòa Reichswehr, sau cùng quân đội Wehrmacht.
Hơn nửa thế kỷ sau, lật bất kỳ những số Militär-Wochenblatt
nào in trong khoảng từ 1930 đến 1939, người đọc cũng đều choáng ngợp vì tính
chất học thuật cao cấp của tuần san này. Đôi khi người đọc bắt gặp những tên
tuổi sẽ lừng danh: Erich von Manstein phác thảo chiến lược Phòng ngự Co giãn
[Elastische Verteidigung]; Walter Model, một trung tá đang đảm nhiệm giảng dạy
môn lịch sử quân sự ở Bộ Quốc phòng đề xuất lập những Chiến đoàn Liên Binh
chủng [Kampfgruppen] bên trong hệ thống sư đoàn mà về sau được Hoa Kỳ cấu trúc
thành những Brigade Combat Team và tướng Jean de Lattre áp dụng xây dựng
những Binh đoàn Lưu động trên chiến trường Đông Dương. Sang phần hồi ký, một
đại úy khiêm tốn, Erwin Rommel khởi đăng những chương trong tập Bộ binh Tấn
công [Infanterie greift an]. Đến phần dich thuật, Guderian giới thiệu những
lý thuyết cấp tiến Anh-Pháp của John Frederick Charles Fuller, Liddell Hart và
Charles de Gaulle. Vẫn chính Guderian sẽ tổng hợp các bài viết lý thuyết của
mình làm nền cho binh chủng thiết giáp Đức dưới tựa Achtung Panzer!
Không duy nhất dành riêng cho các sĩ quan Lục quân, Militär-Wochenblatt đăng
tải nhiều nghiên cứu chiến tranh tiềm thủy đỉnh [U-bootswaffe und U-Bootkrieg]
của đại tá hải quân Hugo von Waldeyer-Hartz và trung tá hải quân Karl Dönitz,
bên cạnh các phân tích chiến thuật oanh kích đâm bổ của phóng pháo cơ Junkers
87 Stuka qua ngòi viết của trung tá Heinz Greiner và thiếu tá Braun. Nổi bật
trên nhiều số báo là tranh luận giữa trung tướng pháo binh Ludwig Ritter von
Eimannsberger và trung tá Heinz Guderian về học thuyết chiến xa. Với Guderian,
nếu phải hành binh vì mục đích gì, toàn Xa đoàn Panzergruppe cùng hành quân tấn
công mục tiêu ấy mà không nên phân tán từng đơn vị. Von Manstein thêm vào tranh
luận này một tiên đề khác: Một quân đoàn thiết giáp Panzerkorps chỉ an toàn
cạnh sườn một khi di chuyển liên tục khiến đối phương không bắt kịp vận tốc
hành binh. Hai tiên đề trên gộp lại làm nên nguyên nhân thất trận của quân đội
Pháp trên chiến trường Sedan tháng 5-1940. Von Manstein, Rommel, Model, Dönitz,
Guderian là những gương mặt hoàn toàn vô danh khi ấy, và trừ von Manstein, hầu
hết giữ những chức vụ thấp không quyền quyết định. Nhưng chính họ phô bày sức
mạnh tri thức của quân đội Wehrmacht.
Đặc điểm của Militär-Wochenblatt là qua tiêu
chí “Tuyển chọn các đề xuất quân sự khả thi do các sĩ quan trẻ đóng góp” đã
tiếp nối một truyền thống có từ Moltke và Schlieffen. Một truyền thống xem tập
san quân đội phải là diễn đàn của giai cấp sĩ quan trung cấp, nơi trao
đổi những tư duy quân sự mới mẻ, chưa chính quy hóa, để từ đây Bộ Tổng Tham mưu
quy nạp những phát kiến từ hạ tầng không thông qua hệ thống quân giai. Militär-Wochenblatt
tuân thủ các yêu sách của Moltke: đặt việc nghiên cứu lịch sử chiến tranh trên
mặt bằng sự thật làm tâm điểm phát triển tri thức quân sự của quân nhân, với
điều kiện – phải xây dựng những chiến thuật thích ứng làm nền cho chiến lược
mới; nếu không, việc nghiên cứu chỉ thỏa mãn duy nhất hành động thưởng ngoạn.
Trong nhãn quan của Moltke, chính sức mạnh tri thức của một tập thể sĩ quan ưu
tú tạo ra chiến pháp tinh vi và vũ khí tương ứng. Trước vũ khí tân kỳ uy hiếp
của đối phương, cũng chính sức mạnh này tìm ra kế sách phòng ngự. Nếu một tri
thức cần phô diễn và tranh luận, thì một tập san quân đội phải làm phương tiện
truyền bá và kho trữ liệu đóng góp cho tri thức ấy. Tập san quân đội Đức không
ra ngoài đề cương này.
Tập san Quân đội Nhân dân Việt Nam, ngược
lại, không chú trọng chức năng trí tuệ này.
3.
Tập san Quân đội Nhân dân Việt Nam
Bước sang thế kỷ 21, học thuyết Chiến tranh Nhân dân
xây dựng trên lý thuyết của Mao và nguyên soái Chu Đức vẫn tiếp tục được đề cao
trên tập san quân đội Việt Nam, tuy rất ít phân tích và trống vắng kiểm định.
Trong bản đăng ngày 23 tháng 12-2012, sau khi đánh giá “chiến thắng Hà Nội –
Điện Biên Phủ trên không là tầm cao trí tuệ và bản lĩnh Việt Nam thời đại Hồ
Chí Minh”, Đại tướng Phó Quân ủy Trung ương kiêm Bộ trưởng Quốc phòng Phùng
Quang Thanh viết: Lực lượng và thế trận của chiến tranh nhân dân Việt Nam
thời đại Hồ Chí Minh, trên hết và hơn hết biểu hiện cho ý chí ngoan cường, dũng
cảm, trí tuệ và sức sáng tạo của con người Việt Nam, của nghệ thuật quân sự
Việt Nam độc đáo, thể hiện trong phương châm chiến lược “lấy ít địch nhiều, lấy
nhỏ đánh lớn” và thắng địch bằng “Mưu, Kế, Thế, Thời”.
Đại tướng Thanh không giải thích thế nào là Mưu, Kế,
Thế, Thời và chừng như phương châm “lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ đánh lớn” chỉ là
khẩu ngữ viết cho tranh cổ động. Trên thực tế chiến trường, Quân đội Nhân dân
thường xuyên có khả năng mở đồng loạt nhiều mặt trận từ Quảng Trị lên Pleiku,
xuống An Lộc, vào Tây Ninh cùng một lúc, tức đông quân và lấy lớn đánh lớn.
Ngay trong chiến tranh Việt- Pháp, Quân đội Nhân dân luôn dụng nhiều đánh ít.
Trận Đông Khê tháng 9 năm 1950, Tổng bộ Việt Minh
dùng hai trung đoàn chủ lực 174 và 209 đánh hai đại đội Lê dương của tiểu đoàn
2 trung đoàn 3 Lê dương [II/3e REI] dưới quyền đại úy Allioux có cấp
số 250 binh sĩ. Chưa tính đến trung đoàn Sông Lô 209 của Lê Trọng Tấn, chỉ
riêng trung đoàn 174 Cao-Bắc-Lạng đã đông gấp 20 lần quân Pháp. Trong hồi ký Người
lính già Đặng Văn Việt, Chiến sĩ Đường số 4 Anh hùng, Nxb Trẻ 2003, cựu
trung tá Đặng Văn Việt, hùm xám đường biên giới, là trung đoàn trưởng trung
đoàn 174 trong trận này, ở trang 149 ghi rõ: Thế và lực giữa ta và địch đã
thay đổi. Để đẩy mạnh cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, Bộ Tổng Tư lệnh và
Trung ương Đảng cho thành lập hai trung đoàn mạnh – hai đơn vị chủ lực mạnh đầu
tiên của của quân đội ta: E174 – E209. E174: Lập nên bởi các lực lượng
tinh nhuệ của ba trung đoàn địa phương ba tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn: E74
+ E72 + E28 = E174. Quân số lên đến 5.500 (gần một lữ) gồm 6 tiểu đoàn:
3 tiểu đoàn bộ binh, 1 tiểu đoàn pháo binh (6 khẩu pháo 75 ly), 1 tiểu đoàn cao
xạ (12 khẩu 12,7 ly), 1 đại đội trợ chiến (6 cối 81 ly, 6 súng không giật 75
ly), 1 đại đội trinh sát, 1 đại đội công binh, 1 đại đội thông tin liên lạc, 1
đại đội cảnh vệ. Chỉ huy: Đặng Văn Việt – trung đoàn trưởng, Chu Huy Mân –
chính ủy.
Trận đồi Him Lam (đồi Béatrice) chiều 13 tháng
3-1954, hai trung đoàn 209 và 141 tràn ngập tiểu đoàn 3 của Bán Lữ đoàn 13 Lê
dương [III/13e DBLE] dưới quyền thiếu tá Paul Pégot có quân số 450
binh sĩ. Không ngẫu nhiên phương Tây luôn nhìn huyền thoại của Đại tướng Võ
Nguyên Giáp song hành với chiến thuận biển người. Đại tá Pierre Rocolle trong
luận án Vì sao Điện Biên Phủ [Pourquoi Dien Bien Phu, Nxb
Flammarion,1968] mô tả chiến thuật này: Theo những tiêu chuẩn của chiến
thuật Việt Minh, tấn công một cứ điểm, cần tập trung nỗ lực trên một trận địa
thật thâu hẹp (vào chừng vài trăm thước) hầu đánh thủng hệ thống phòng thủ tại
một điểm. Tất nhiên cần lượng lớn súng cối và đại bác bộ binh đối diện khu vực
tấn công, đồng thời tập trung các đơn vị được chỉ định xung phong đông từ 10
đến 20 lần quân trú phòng trong một hành lang hẹp trên địa thế chọn lựa. Thực
hiện đầu tiên một xé rào rồi nới rộng dần bằng cách tung những làn sóng tiến
công tiếp theo cho đến khi trọn chu vi phòng thủ đối phương bị tràn ngập.
(trang 348)
Như thế, phương châm chiến lược “lấy ít địch nhiều,
lấy nhỏ đánh lớn” của “nghệ thuật quân sự Việt Nam độc đáo” mà đại tướng Phùng
Quang Thanh ca ngợi, ít tính khả tín. Càng thêm khó hiểu khi đại tướng nhấn
mạnh: tạo thế trận liên hoàn của “chiến tranh nhân dân đất đối không, đất
đối biển”. Hôm nay trước uy hiếp của Hải quân Trung Quốc, dân Việt
không khỏi băn khoăn làm cách nào dân miền Trung cách Trường Sa 248 hải lý có
thể lấy đất ruộng đương đầu với hạm đội thủy chiến Trung Hoa, đặc biệt đương
đầu với hàng không mẫu hạm Liêu Ninh mà chắc chắn Trường Sa sẽ là mục tiêu oanh
kích? Chiến tranh Nhân dân, từng là học thuyết quân sự chánh thức trong quá
khứ, cáo chung trên biển Đông. Ngay cả trong quá khứ, học thuyết này mang những
giới hạn, vì ẩn vào dân khi yếu, dùng tai mắt dân quan sát, lấy thóc dân nuôi
binh và dùng sức dân vận chuyển… không giúp ích cho một đạo quân tác chiến độc
lập tách rời dân chúng. Như khi hành quân ngoại biên, Quân đội Nhân dân không
bình định được Campuchia trong 10 năm chiếm đóng, chính vì dân xứ Khmer không
theo. Trên mặt biển, các hải đoàn Việt Nam sẽ hoàn toàn cô độc trước hải lực
hùng hậu của Trung Hoa.
Cập nhật học thuyết chiến tranh của quân đội trở nên
cấp thiết.
Càng cấp bách khi chiến tranh có thể nổ ra bất kỳ
lúc nào, một khi chính phủ đương quyền quyết định cương quyết trước Bắc Kinh.
Cương quyết, đòi hỏi chuẩn bị chiến tranh. Nhưng nhìn vào tập san Quân đội
Nhân dân, đọc trên tạp chí Quốc phòng Toàn dân, dân chúng không thấy
bất kỳ một thảo luận nào về phương thức đối phó một khi xung đột bùng nổ. Không
tranh luận về tình hình quân sự đất nước, không nghiên cứu học thuật thế giới,
không phân tích chiến lược Bắc Kinh, không dịch thuật binh pháp, không tìm hiểu
chiến thuật hiện đại của Giải Phóng quân Trung Quốc, không đề xuất phương cách
phòng ngự… là đặc điểm của tập san quân đội của đất nước.
Một cách vô tình hay hữu ý, tập san quân sự chính
thức của quốc gia rơi vào thường thức, đặt trọng tâm phổ biến các nghị quyết
Đảng, rồi tường thuật các chuyến viếng thăm của lãnh đạo thượng tầng với vài
văn bản tuyên dương công trạng chống Mỹ, bên cạnh là những thông tin thời sự xã
hội, du lịch biển đảo, bận tâm kinh tế và giải trí thể thao, văn nghệ. Hình ảnh
của các hoa hậu hoàn vũ hay siêu mẫu áo tắm càng làm người đọc thêm băn khoăn.
Dân chúng hiểu, một quân nhân vẫn là một người đàn ông có nhu cầu nhìn ngắm da
thịt phụ nữ, nhưng vì sao các phòng đọc sách của các trung đoàn không lưu hành
các tạp chí đời thường cho các quân nhân muốn tìm hiểu thời trang mà phải dùng
ngân quỹ quốc phòng do dân góp thuế cho nhu cầu này? Các tiết mục “văn hóa” này
làm xa cách chức năng trí tuệ mà Moltke đòi hỏi.
Có thể phủ định: mỗi quân đội của mỗi quốc gia mang
một đặc thù và mỗi tập san quân sự có một hình thái riêng. Không thể lấy chức
năng của tập san này làm chuẩn cho tập san kia, không thể dùng Clausewitz và
Moltke áp đặt lên hệ thống suy nghĩ của Quân đội Nhân dân Việt Nam do Đại tướng
Võ Nguyên Giáp tạo lập. Phủ định này không sai – nếu tập san Quân Đội Nhân
dân có những đặc tính khác biệt và tư duy khác lạ so với các tập san quân
sự thế giới. Phủ định này – trở nên dễ dãi – như cách nhìn ưu điểm ở Đại
tướng Võ Nguyên Giáp và Tổng Tham mưu trưởng đầu tiên Hoàng Văn Thái là đã
không qua hàn lâm viện nào. Tiểu sử Đại tướng Hoàng Văn Thái ghi: Tháng 3
năm 1945, ông chỉ huy nhóm đội viên, khi đó đã phát triển lên đến hơn 100
người, tiến về xây dựng cơ sở ở Chợ
Đồn (Bắc
Kạn). Ngày 7 tháng 9 năm 1945, Chủ
tịch Chính phủ Lâm thời Hồ
Chí Minh ra chỉ thị thành lập Bộ Tham mưu và chỉ định Hoàng Văn Thái
làm Tham mưu trưởng. Với kinh nghiệm trận mạc duy nhất từ chỉ huy đội viên
sau bốn tháng lên làm Tham mưu trưởng mà Hoàng Văn Thái vẫn tham mưu cho Đại
tướng Võ Nguyên Giáp chiến thắng lẫy lừng trận Điện Biên Phủ, thì lập luận
không cần Moltke hay Clausewitz vẫn chiến thắng là không sai; nhưng lập luận ấy
phải giải thích những tranh công của La Quý Ba, Trần Canh, Vy Quốc Thanh, là những
cố vấn Trung Hoa đã khẳng định chiến thắng Biên giới và Điện Biên Phủ do một
tay họ quyết định, lên sách lược, đề xuất và được Chủ tịch Hồ Chí Minh chuẩn
thuận. Có phải vì bề dầy trận mạc của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và của Tổng Tham
mưu trưởng Hoàng Văn Thái quá mỏng khiến Chủ tịch Hồ Chí Minh phải viết thư xin
Mao Chủ tịch chi viện các tướng lĩnh tài năng nhất làm cố vấn cho quân đội Việt
Minh? Ít nhất, khi Vy Quốc Thanh phê phán khai trận ở đồng bằng châu thổ sông
Hồng của Tổng bộ Việt Minh là sai lầm, nên đánh lên miền Thái nơi quân Pháp ít
quân, Vy Quốc Thanh đã tuân theo binh pháp Tôn Tử: Đánh vào khoảng trống! Thất
bại đẫm máu ở Vĩnh Yên, Đông Triều, Mao Trạch, Mạo Khê, Sông Đáy, Ninh Bình năm
1951 không làm tăng thêm thiên tài của tướng Giáp mà tôn vinh hổ tướng de
Lattre, và, một cách gián tiếp, chứng thực luận cứ của Vy Quốc Thanh.
Có thể biện luận cách khác: Không thể viết ra hết
suy nghĩ chiến lược của sĩ quan Việt Nam trên tập san Quân đội Nhân dân,
vì như thế sẽ lộ bí mật quốc phòng và Bắc Kinh sẽ thấu rõ quyết sách của Việt
Nam. Lập luận trên có thể đúng, tuy kiểm duyệt triệt tiêu phần lớn tính sáng
tạo của quân nhân và phát kiến hạ tầng không nhất thiết phản ánh sách lược
chính quy. Tập san quân đội Đức từng bị kiểm duyệt hai lần: Lần thứ nhất vào
năm 1848, Militär-Wochenblatt phải chuyển sang đăng tải những chuyên
luận khoa học để không vi phạm luật bảo vệ bí mật quốc phòng. Trong hai thập
niên liền quân đội Đức giẫm chân trong học thuyết. Đến 1866, Hoàng đế Wilhelm
Friedrich Ludwig quyết định trả lại cho Militär-Wochenblatt chức năng
nguyên thủy: chức năng khai phá quân sự. Từ đây, dưới ảnh hưởng của Moltke, tập
san quân đội Đức chuyển mình, đến 1904 trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu thay vì Bộ
Quốc phòng. Đến 1942, Dr Paul Joseph Goebbels, quyền tương đương với chức
Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, ra lệnh kiểm duyệt vì Martin Bormann, Chánh
Văn phòng Trợ lí Quốc trưởng, nhân vật quyền lực số 2 ngay sau Hitler, nghi ngờ
Bộ Tổng Tham mưu âm mưu đảo chánh. Tập san quân đội Đức hiện diện từ 1816 quyết
định đình bản. Đình bản thay vì chịu kiểm duyệt, để giữ độc lập tinh thần và
danh dự quân nhân. Lập luận gìn giữ bí mật quốc phòng trước đôi mắt Bắc Kinh
đứng vững – nếu – tập san Quân đội Nhân dân biết thôi thúc tri thức quân
sự Việt Nam bằng cách khác: nghiên cứu chiến tranh Việt-Pháp trên mặt bằng sự
thật gạt bỏ tuyên truyền; nghiên cứu các canh tân quân đội thế giới và đặc biệt
nghiên cứu chiến tranh tiềm thủy đỉnh, là vũ khí của kẻ yếu như Dönitz nhìn
thấy ngay từ đầu. Các chủ đề trên, ít kỵ húy, ít vi phạm vùng cấm, ít đụng chạm
bài vị thiêng liêng của các gia đình đương quyền, là cánh cửa rộng mở cho tri
thức quân nhân Việt Nam đang phải đối diện với quân Tàu đã chiếm ngự biển.
Vì sao phải nghiên cứu chiến tranh Việt-Pháp quá xưa
cũ khi hôm nay vũ khí hiện đại thay đổi hẳn diện mạo chiến tranh? Vì một khi
chưa chấp nhận các thất bại đẫm máu thì Quân đội Nhân dân còn rơi chìm vào chủ
nghĩa anh hùng lạc quan. Cần phân tích minh bạch những sai lầm phạm phải và ghi
lại những tổn thất thật sự để giúp tập thể quân nhân rộng lớn có cái nhìn trung
thực về hiệu năng của quân đội mình… Thiếu xác tín trận địa, các sĩ quan tham
mưu không thể lượng định đúng mức chiến quả và càng nguy hiểm khi tạo ra ảo
tưởng ở các đơn vị tác chiến. Vô vàn các chủ đề nghiên cứu cho tập san quân
đội: như trận công đồn Phủ Thông Hóa không thành công hay trận đánh công kiên
Xóm Pheo của trung đoàn 102 là trung đoàn Thủ đô của đại đoàn 308 để lại 800
xác chết mà không tiêu diệt được đồn, hoặc thất bại hoàn toàn của trận Mạo Khê mà
chính Đại tướng Võ Nguyên Giáp ở trang 170, dòng thứ 2, trong tập Đường tới
Điện Biên Phủ, phải viết: Ngày 5 tháng 4 năm 1951 chiến dịch Hoàng Hoa
Thám kết thúc. Chiến dịch để lại cho tôi một ấn tượng nặng nề.
Nếu nghiên cứu chiến tranh tiềm thủy đỉnh là thiết
yếu, cũng cần nghiên cứu kỹ lưỡng thiên tài quân sự của Đại tướng Võ Nguyên
Giáp mà không duy nhất tự bằng lòng với chiến thắng Điện Biên. “Người anh cả
của quân đội” chịu ảnh hưởng của Clausewitz đến mức nào và để lại tư tưởng quân
sự gì cho hôm nay? Nghệ thuật hành binh của Đại tướng khác ra sao với Nghệ
thuật Hành binh [L’Art opératif] của Thống chế Nga Mikhaïl Nikolaïevitch
Toukhatchevski rất có ảnh hưởng với những sĩ quan Sô-viết nhiệt huyết như
Joukov, Vassilievski, Koniev hay Rokossovski?
Đại tướng Võ Nguyên Giáp là tướng lãnh hiếm của Quân
đội Nhân dân trích dẫn Clausewitz. Không trong bản Việt ngữ của hồi ký Chiến
đấu trong vòng vây, nhưng trong phiên bản Pháp văn của hồi ký này: Mémoires,
tome 1, La Résistance Encerclée, Editions Anako, Fontenay-sous-bois, 2003. Ở
trang 105, Đại tướng cho biết ông đem theo bản dịch Clausewitz của Denise
Naville khi rời Hà Nội lên Việt Bắc kháng chiến đầu năm 1947. Ông khẳng định đã
suy nghiệm Clausewitz. Các trích đoạn dẫn chứng Clausewitz của Đại tướng đều
trích từ bản dịch của Denise Naville. Tuy nhiên, bản dịch của Denise Naville do
nhà xuất bản Minuit ấn hành, mãi đến năm 1955 mới ra mắt. Đa phần, đại tướng Võ
Nguyên Giáp chỉ biết đến Clausewitz sau khi vào tiếp quản Hà Nội, do vậy ông
không thể áp dụng trước đó. Hoặc áp dụng “thông thoáng”, vì bản dịch trước của
trung tá de Vatry xuất bản 1866 bị giới nghiên cứu Pháp đánh giá dịch tối tăm
và dịch sai các từ học thuật của Clausewitz. Bản dịch này cũng tuyệt bản từ rất
lâu. Ở địa vị của Đại tướng, vì sao Đại tướng không khẳng quyết: “Tôi không cần
biết đến Clausewitz của phương Tây, vẫn chiến thắng.” Vì sao Đại tướng phải cố
gắng chứng minh ông am tường Clausewitz? Vì cần thuyết phục rằng các quyết định
của ông đến từ suy nghiệm Clausewitz mà không từ đề xuất của Vy Quốc Thanh?
Phương châm “đánh chậm, đánh chắc, chắc thắng mới đánh” của Đại tướng cũng khá
gần với phương châm: “Không bao giờ tác chiến nếu cơ may quá mỏng (Ne jamais se
battre si les chances sont trop minces)” của tướng Thomas Jonathan Jackson trong
nội chiến Nam-Bắc Mỹ.
Nếu không thể nghiên cứu Đại tướng Võ Nguyên Giáp
giữa huyền thoại và thiên tài vì chạm đến bia mộ của người quá cố, vì bia mộ
này gắn liền với ước mơ cầu an của Đại tướng sau khi chứng kiến cái chết của
Lâm Bưu và Lưu Thiếu Kỳ do thanh trừng của Mao, nên cần thông cảm, thì tập san Quân
đội Nhân dân vẫn có thể nghiên cứu trường hợp tiểu quốc của các quốc gia
Tiệp Khắc, Hung Gia Lợi, Phần Lan… là những tiểu quốc nằm cạnh các đế quốc.
Tiệp Khắc đầu hàng Đức, Hung Gia Lợi chọn làm chư hầu rồi lầm than theo thăng
trầm của quân đội Đức, cho đến khi cả Tiệp Khắc và Hung Gia Lợi đều bị Hồng
quân Sô-viết chiếm đóng. Ngược lại, quân đội Phần Lan đã tử chiến đến cùng
trước tham vọng lấn đất của Staline, buộc Staline phải chấp nhận đình chiến vì
hiểu giá máu phải trả cho mỗi thước đất Phần Lan. Là một bán đảo như Việt Nam,
sát cạnh Liên bang Sô-viết và có quá khứ gắn liền với Nga, không được
Anh-Pháp-Hoa Kỳ và cả hai vương quốc láng giềng Na Uy và Thụy Điển hỗ trợ,
nhưng chính thống chế Carl Gustaf Emil Mannerheim và quân đội Phần Lan đã làm
nên sức mạnh phản chiếu từ tấm gương lịch sử mà Scharnhorst đặt để.
Hôm nay, trước lấn đất lấn biển đã diễn ra, không
dân Việt nào không ưu tư khi nhìn vào tập san quân đội của quốc gia. Trước hiểm
nguy Hán thuộc kề cận, đã áp sát, đã nhìn thấy, dân chúng không thể không đặt
câu hỏi: Vì sao phải cần một trung tướng làm Tổng biên tập Tập san Quân đội
Nhân dân, một thiếu tướng làm phó Tổng biên tập và ba đại tá với một thượng
tá phụ trách ban biên tập cho một nội dung không chuyên ngành mà thường thức
như trăm báo dân sự khác? Trống vắng tranh luận và hoang vu thao thức càng làm
nảy sinh những câu hỏi khác: Vì sao tiếng nói của các sĩ quan trẻ ưu tú đang
quan tâm đến tình hình đất nước không được cất lên trên chính diễn đàn của họ?
Vì sao những lo lắng cho biển cả của tổ tiên đang bị cướp giật không được hiện
diện trên trang Quân chủng Hải quân của chính tập thể đang mang trọng trách bảo
vệ vùng biển ấy?
Nhìn vào một tập san quân đội, trông thấy sức mạnh
của quân đội ấy. Nhìn vào Tập san Quân đội Nhân dân trông thấy kiểm
duyệt. Một kiểm duyệt mang tính tội ác. Vì là tội của Lê Chiêu Thống.
Plano, 10 tháng 12-2013
© 2013 Trần Vũ & pro&contra
No comments:
Post a Comment