Wed, 12/25/2013 - 12:36 —
tuongnangtien
Ban ngày soi đuốc để tìm
Một người tử tế mà tìm không ra
Chủ nghĩa xã hội nước ta,
Thật là tốt đẹp sinh ra lớp
người
Hễ trông thấy của là hôi.
Hà Long
Ngày 5 tháng 12 năm 2013,
đài truyền hình VTC
News buồn bã loan tin:
Hôm qua, tại TP Biên Hòa – Đồng
Nai, khi chiếc xe tải chở bia bị lật, người dân đã túa ra tranh cướp bia,
thậm chí còn lấy cả xe ba gác đến để chở bia về nhà mặc cho tài xế van
xin. Tình trạng hôi của trong tai nạn đang diễn ra ngày càng phổ biến. Đã
có nhiều lần, khi chiếc xe khách bị nạn, thay vì cứu nạn nhân, nhiều người dân
đã lao vào tranh cướp tài sản của những nạn nhân đang hấp hối. Hành vi này được
xem là mọi rợ trong một thế giới văn minh.
Báo Tuổi
Trẻ Online cho biết thêm chi tiết:
Những người “hôi của” tranh
nhau giành giật các thùng bia còn nguyên bị rớt xuống đường và thu gom các lon
bia văng ra khỏi thùng. Trong đó, nhiều người lấy cả những thùng bia còn nguyên
vẹn, một số người thì lấy túi đựng số lon bia lẻ...
Ảnh cắt từ clip do bạn đọc cung cấp. Nguồn: Tuổi
Trẻ Online
Hình ảnh thiên hạ nhặt
nhạnh những lon bia rơi vãi khiến tôi chợt thấy có chút gì ái ngại,
và không khỏi liên tưởng đến cảnh những anh bộ đội với con búp bế
cầm tay, hay cái khung xe đạp vác vai – sau ngày “cách mạng tiếp quản”
miền Nam. Vùng đất này, khi thất thủ, không chỉ mất đi vài con búp bê
hay mấy cái khung xe đạp.
- Những gì mà Cách mạng lấy
được của “nhà giàu” trên toàn miền Nam được liệt kê: “Về tiền mặt ta thu được
918,4 triệu đồng tiền miền Nam; 134.578 Mỹ Kim [trong đó có 55.370 USD gửi ở
ngân hàng]; 61.121 đồng tiền miền Bắc; 1.200 đồng phrăng (tiền Pháp)…; vàng:
7.691 lượng; hạt xoàn: 4.040 hột; kim cương: 40 hột; cẩm thạch: 97 hột; nữ
trang: 167 thứ; đồng hồ các loại: 701 cái. Trong các kho tàng ta thu được: 60
nghìn tấn phân; 8.000 tấn hoá chất; 3 triệu mét vải; 229 tấn nhôm; 2.500 tấn
sắt vụn; 1.295 cặp vỏ ruột xe; 27.460 bao xi măng; 644 ô tô; 2 cao ốc; 96.604
chai rượu; 13.500 ký trà; 1000 máy cole; 20 tấn bánh qui; 24 tấn bơ; 2.000
kiếng đeo mắt; 457 căn nhà phố; 4 trại gà khoảng 30.000 con và một trại gà giá
800 triệu; 4.150 con heo; 10 con bò, 1.475.000 USD thiết bị tiêu dùng; 19 công
ty; 6 kho; 65 xí nghiệp sản xuất; 4 rạp hát; 1 đồn điền cà phê, nho, táo rộng
170 hecta ở Đà Lạt” (Huy Đức. Bên
Thắng Cuộc, tập I. OsinBook, Westminster, CA: 2013).
- "Tại Sài Gòn,
28.787 hộ tư sản bị cải tạo, phần lớn bị “đánh” ngay trong bốn ngày đầu với
6.129 hộ “tư sản thương nghiệp”, 13.923 hộ “trung thương”. Những tháng sau đó
có thêm 835 “con phe”, 3.300 “tiểu thương ba ngành hàng”, 4.600 “tiểu thương và
trung thương chợ trời” bị truy quét tiếp. Theo ông Huỳnh Bửu Sơn, người trông
coi kho vàng của Ngân hàng, trong đợt đánh tư sản này, Cách mạng thu thêm
khoảng hơn năm tấn vàng, chưa kể hạt xoàn và các loại đá quý. Có những gia đình
tư sản giấu vàng không kỹ, lực lượng cải tạo tìm được, khui ra, vàng chất đầy
trên chiếu.”(Sđd, trang 90).
Nhân nói về vàng, tưởng
cũng nên nhắc đến 16 tấn vàng đã không cách mà bay từ Ngân Hàng Quốc
Gia của chính quyền miền Nam. Sự kiện này nếu không thể gọi là “hôi
của” thì e cũng khó có từ ngữ nào thích hợp hơn, ngoài hai chữ ...
cướp của. Vàng còn “bay” mà từ túi của từng người dân không may,
trong cơn quốc biến. Chỉ riêng về số lượng bị coi như là thất thu (vì
cán bộ thu nhưng không trình) đã được ghi nhận như sau, tại một số
những địa phương có tổ chức vượt biên chính thức – bán bãi thu vàng
– hồi cuối thập niên 1970:
Hậu Giang, 4.866 lượng;
Minh Hải, 48.195 lượng; Bến Tre, 3.789 lượng; Cửu Long, 27.000 lượng; Nghĩa
Bình, 27.000 lượng; Phú Khánh, 10.987 lượng; Thuận Hải, 1.220 lượng; An Giang,
1.445 lượng”. (Sđd, trang 129).
Trong hoàn cảnh phải bỏ
của chạy lấy người của hàng triệu người dân Việt thì cùng với
chuyện “chung vàng,” họ còn phải “hiến xe,” “hiến hãng xưởng,” “hiến
nhà cửa” cho “cách mạng.” Những kẻ đã nhận, và sống trong những căn
nhà này, nên gọi họ là bọn hôi của hay cướp của?
Và những vụ cướp
ngày (trắng trợn) tương tự đâu phải chờ đến năm 1975 mới xẩy ra,
ở miền Nam:
Năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh
cho tiến hành “cải tạo xã hội chủ nghĩa” trên toàn miền Bắc, các nhà tư sản
Việt Nam buộc phải giao nhà máy, cơ sở kinh doanh cho Nhà nước. Bà Trịnh Văn Bô
lại được kêu gọi “làm gương”, đưa xưởng dệt của bà vào “công tư hợp doanh”. Bà
Bô cùng các nhà tư sản được cho học tập để nhận rõ, tài sản mà họ có được là do
bóc lột, bây giờ Chính phủ nhân đạo cho làm phó giám đốc trong các nhà máy, xí
nghiệp của mình. Không chỉ riêng bà Bô, các nhà tư sản từng nuôi Việt Minh như
chủ hãng nước mắm Cát Hải, chủ hãng dệt Cự Doanh cũng chấp nhận hợp doanh và
làm phó...
Cả gia đình ông Trịnh Văn Bô,
sau khi về Hà Nội đã phải ở nhà thuê. Năm 1954, Thiếu tướng Hoàng Văn Thái có
làm giấy mượn căn nhà số 34 Hoàng Diệu của ông với thời hạn 2 năm. Nhưng cho
đến khi ông Trịnh Văn Bô qua đời, gia đình ông vẫn không đòi lại được.
Câu chuyện của gia đình Trịnh
Văn Bô cũng chưa cay đắng bằng gia đình bà Nguyễn Thị Năm, nổi tiếng với tên
gọi Cát Hanh Long, một nhà tư sản vào hàng nhất nhì miền Bắc. Cũng như nhiều
nhà tư sản khác, ba mẹ con bà Nguyễn Thị Năm đã hăm hở ủng hộ phong trào Việt
Minh từ tháng 5-1945. Bà đã từng vận động bạn bè và tự mình mua tín phiếu Việt
Minh, mua vải đỏ, vải vàng may cờ đỏ sao vàng, ủng hộ tiền, gửi thuốc men, thóc
gạo, dụng cụ ấn loát lên Chiến khu Việt Bắc…
Ở Thái nguyên, bà Năm tích cực
tham gia công tác phụ nữ và được bầu làm Hội trưởng Phụ nữ tỉnh Thái Nguyên và
là Uỷ viên Liên khu Hội Phụ nữ. Thế nhưng, khi cải cách ruộng đất, bà Nguyễn
Thị Năm bị quy là địa chủ và bị gán tội “Việt gian – Quốc dân Đảng” rồi trở
thành một trong những địa chủ đầu tiên bị xử bắn. (Sđd, tập II, trang 204 - 206).
Ít nhất thì người dân Biên
Hoà cũng đã không bắn giết ai, sau khi “hôi” những lon bia rơi vãi đầy
đường. Khi hối hả thu nhặt “chiến lợi phẩm,” họ có thể dẵm lên
những lon bia dập nát nhưng chắc chắn là đã không dẵm lên những xác
người (chết hàng loạt vì tầu bị đánh đắm ngay khi vừa nhổ neo) để
moi vàng trong thi thể của kẻ vượt biên xấu số – theo như lời tường
thuật của thuyền
trưởng tầu CSG92, C/N 2009/09.
Không những thế, bốn ngày
sau, hôm 8 tháng 12 năm 2013, địa phương này đã có người dựng lên một
tấm băng rôn, với dòng chữ như sau: “Là người Biên Hòa, là người Việt Nam
tôi thấy xấu hổ cho những ai đã “cướp vài lon bia” ở đây trưa ngày 4.12”
http://www.rfavietnam.com/files/hôi%20của%206.jpg
Ảnh: Dân
Trí
Báo Dân
Trí ghi nhận: “Đây là một lời xin lỗi chung cho cả cộng đồng, một sự thể
hiện tinh thần trách nhiệm với xã hội, một sự đánh thức lòng tự trọng cho mọi
công dân.”
Bao giờ thì dân Việt sẽ
nhận được “một lời xin lỗi chung” tương tự, từ giới lãnh đạo của
ĐCSVN, sau khi họ đã thực hiện hàng trăm ngàn vụ hôi của (và cướp
của giết người) ở xứ sở này?
Theo
Luật sư Triệu Trung Dũng, Trưởng Văn phòng luật Triệu Dũng và cộng sự, Đoàn
Luật sư TP Hà Nội thì những hành vi công nhiên chiếm đoạt tài của những người
dân “hôi của” sẽ bị khởi tố hình sự theo quy định tại điều 137 Bộ luật Hình sự
đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009. Điều 137, Bộ Luật Hình sự Việt Nam sửa đổi,
bổ sung năm 2009 quy định:
Tội công nhiên chiếm đoạt tài
sản
1. Người nào công nhiên chiếm
đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi
triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị
xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt
tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến
ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Hành hung để tẩu thoát;
b) Chiếm đoạt tài sản có giá
trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Gây hậu quả nghiêm trọng.
d) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá
trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm
trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù
chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá
trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm
trọng.
Ông Dũng này khiên tôi nhớ
đến câu nói để đời của một vị luật sư khác, tăm tiếng (và tai
tiếng) hơn nhiều bà Ngô Bá
Thành: “Ở Việt Nam ta đã có cả một rừng luật nhưng khi xét xử lại dùng
luật rừng!”
No comments:
Post a Comment