Nguyễn
Khánh Trung
4/12/2013
Tôi viết những dòng này sau khi đã dự Hội thảo “Khởi
nghiệp – kiến quốc, công thức thành công từ các cường quốc và bài học cho Việt
Nam” tại Dinh Thống Nhất ngày 23/11/2013. Các học giả, chuyên gia, nhà đầu tư
trong và ngoài nước cùng với rất đông thanh niên tề tựu để thảo luận về hiện
tình đất nước cũng như để nghe những bài học thành công từ các quốc gia phát
triển gần gũi xung quanh chúng ta như Dubai, Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản,
Israel…
Những
câu hỏi về hiện tình đất nước
Trong rất nhiều những phát biểu, tôi và có lẽ rất nhiều người khác ấn tượng nhất, nhớ nhất là những câu hỏi đại ý: Một Dubai chỉ hơn 2 triệu dân, sống trên một sa mạc, vậy mà có thể phát triển thần kỳ trong vòng 20 năm, còn Việt Nam thì sao? Hay từ một làng chài nghèo của Malaysia, Singapore đã vươn lên đứng trong tốp hàng đầu thế giới, trong khi Việt Nam có “rừng vàng biển bạc”, có một vị trí thuận lợi, có một lực lượng lao động đông, trẻ lại không thể? Điều gì khiến Hàn Quốc từ một đống đổ nát do nội chiến trong thập niên 1950, đã trở thành một trong mười cường quốc trên thế giới hiện nay, trong khi Việt Nam vẫn nghèo khổ mặc dầu chiến tranh đã kết thúc gần 40 năm?
Những câu hỏi đặt ra không thể không
suy nghĩ. Tại sao? Yếu tố nào đã cản trở chúng ta? Kinh nghiệm rút ra từ bài
học của các nước xung quanh đều cho thấy, những yếu tố đóng vai trò quyết định
nhất, đó là tầm nhìn, là quyết tâm chính trị của các nhà lãnh đạo, là giáo dục.
Cũng trong hội thảo này, trong lời đề dẫn của mình,
Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình đã nói đại thể: Việt Nam đang trong một giai
đoạn quan trọng buộc phải lựa chọn. Trước mặt chúng ta có hai con đường: một là
chúng ta phải bứt phá để đi lên; hai là chúng ta dẫm chân tại chỗ, cũng đồng
nghĩa với chấp nhận sự tụt hậu. Các vấn đề lớn của xã hội đang bộc lộ qua những
câu chuyện hằng ngày mà bất kỳ ai lưu tâm cũng có thể thấy rõ sự đi xuống của
xã hội. Các thống kê so sánh của các tổ chức trong thời gian gần đây đã phản
ánh vị trí thua kém của Việt Nam trong nhiều lĩnh vực, chẳng hạn như Ngân hàng
thế giới trong “Đánh giá giáo dục và nguồn nhân lực của các quốc giá châu Á
2000 – 2012” đã xếp Việt Nam thuộc tốp cuối bảng, chỉ trên Lào, Campuchia và
Miến Điện.
Vấn
đề cốt lõi của giáo dục
Không có quốc gia nào phát triển mà không có nền giáo dục phát triển, bởi lẽ giáo dục là nơi tạo ra nguồn nhân lực mà nhân lực là yếu tố quyết định sự thành bại của một xã hội. Nhìn vào hiện tại, vào thực trạng của nền giáo dục hiện nay, tôi thấy bi quan cho tương lai. Giáo dục của chúng ta thay vì là nơi phát triển, dưỡng dục vun trồng tâm hồn, trí tuệ của con trẻ, lại đang tước bỏ nơi những khả năng, những tính cách có riêng ở từng cá thể để rồi cho ra lò những sản phẩm đồng loạt tương tự nhau. Nhà trường phổ thông tựa như một dây chuyền sản xuất, nơi đó người thầy chỉ đóng vai trò của một người “thợ dạy”, chỉ biết tìm cách nhồi nhét vào đầu trẻ những kiến thức đã được thiết kế sẵn theo ý của một số người. Hành động này cũng như việc bắt tất cả trẻ em trong cả nước ăn cùng một thứ thức ăn, cùng một thực đơn theo gu của một nhóm người bất chấp sự khác biệt nơi từng đứa trẻ, mặc kệ sự riêng biệt trong văn hóa ẩm thực vùng miền.
Một dân tộc sẽ không thể phát triển được nếu cố tình
đào tạo ra các công dân tương tự nhau về cách tư duy và hành động, hướng tất cả
người trẻ vào một cái khung duy nhất, vào một chủ nghĩa có sẵn. Đơn giản là,
khi đã tự đặt mình vào một cái khung, con người sẽ mất tự do, tư duy con người
sẽ bị giới hạn vì chẳng còn thấy rõ những con đường khác, những tư tưởng khác
để có thể so sánh đối chiếu, để kích thích não bộ suy nghĩ, sáng tạo tìm tòi
những điều mới. Tại các nước có nền giáo dục phát triển nhất, người ta không sử
dụng một triết thuyết duy nhất nào để bắt tất cả người học phải bám theo, nhưng
trên hết, họ tìm cách phát triển tư duy độc lập, khả năng và thói quen phản
biện nơi học sinh để các em có thể dùng lý trí của riêng mình soi rọi vào các
vấn đề của bản thân và cộng đồng, đủ năng lực để giải quyết chúng, cũng như có
năng lực để cùng với những người khác kiến tạo ra những cái mới cho xã hội.
Những vấn đề của giáo dục mà báo chí nêu hằng ngày
chẳng qua là biểu hiện của “lỗi hệ thống”. Bao nhiêu năm qua, chúng ta đã loay
hoay, cam chịu làm nô lệ cho chính cái lỗi hệ thống đó, mà không đủ dũng cảm
vượt thoát ra để đưa dân tộc đi lên.
Ba mươi năm trước, Đài Loan cũng y hệt như chúng ta
hôm nay trong từng chi tiết từ quan niệm tư tưởng của các nhà lãnh đạo, cách
thức tổ chức giảng dạy, cách thức biên soạn nội dung chương trình giảng dạy,
cách thức tổ chức các hội đoàn trong trường học, cách thức kiểm soát sinh viên
và giáo sư. Ngày nay Đài Loan phát triển, đặc biệt có một nền giáo dục đại học
hùng mạnh trong khu vực. Đây không phải là một món quà từ trên trời rớt xuống,
mà là kết quả của cả một quá trình phấn đấu cho sự tiến bộ, nhất là nhờ vào sự
sáng suốt, biết vì dân vì nước của vị tổng thống Tưởng Kinh Quốc (Trần Văn
Đoàn, Kinh nghiệm phát triển giáo dục đại học Đài Loan, Tọa đàm tại IRED ngày
15/11/2013).
Giải
pháp căn cơ
Trong tình trạng cấp bách hiện nay, thiết nghĩ, các nhà lãnh đạo hãy dũng cảm thay đổi một cách “căn bản và toàn diện” về tư duy của mình trước khi tiến hành “Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục”. Nếu không, dự án đổi mới giáo dục sắp tới theo tôi lại sẽ là một loạt thay đổi chóng mặt mà cuối cùng vẫn là bế tắc như bao nhiêu năm qua mà thôi.
Chúng ta phải làm như các nước tiến bộ là hãy áp
dụng nguyên tắc “thế tục” (laicité) trong hệ thống giáo dục công để đảm bảo
rằng các công dân tương lai không phụ thuộc vào bất kỳ một cái khung duy nhất
nào. Các em sẽ theo khuynh hướng nào, lựa chọn cái khung nào, hay tự tạo ra một
đường đi mới đó là quyền của người trẻ sau khi đã trưởng thành.
Nhiệm vụ của nhà trường là dưỡng dục vun trồng các
mầm non của đất nước lớn lên một cách toàn diện theo cách riêng của từng con
trẻ như nhà nông chăm chút cho các mầm non tự lớn lên, chứ không nên là một dây
chuyền sản xuất hàng loạt như cách chế tạo robot. Nhiệm vụ của trường học là
làm cho các em có đầy đủ khả năng minh định về bản thân, về thời cuộc để thực
hiện những lựa chọn, hay trang bị cho học sinh khả năng để có thể tự các em
thiết kế, phát triển cuộc đời của chính các em và qua đó góp phần thúc đẩy xã
hội phát triển.
Nhà trường phải đề cao giáo dục đạo đức, đó là giáo
dục tinh thần dấn thân và trách nhiệm đối với cộng đồng, thái độ tôn trọng sự
khác biệt và những ứng xử phù hợp để có thể sống trong một xã hội với bản chất
là “chín người mười ý”. Xã hội nào cũng có những giá trị tiêu chuẩn, nó đóng
vai trò như chất xi măng gắn kết các thành phần xã hội lại với nhau, tạo thành
những quan điểm chung, những ký ức chung, những chuẩn mực và rộng hơn là nền
văn hóa chung. Giáo dục có trách nhiệm bảo tồn và chuyển tải những giá trị tiêu
chuẩn tốt đẹp được lựa chọn từ thế hệ trước tới thế hệ sau. Các giá trị tiêu
chuẩn được lọc chọn phải là dung hòa và kế thừa các giá trị tiêu chuẩn chung
của nhân loại, của thế giới tiến bộ, nó phải đặt con người làm trung tâm, các
quyền con người phải được tôn trọng.
Giáo dục cũng phải xem trọng và dựa trên tinh thần
khoa học, kỹ thuật, lề lối kỹ trị, tính chặt chẽ trong cách tư duy, cách tổ
chức và làm việc.
Chỉ khi thực hiện tốt những điều này mới mong
đào tạo được những nhà khoa học, những nhân cách lớn nhằm đưa đất nước đi lên
cũng như để góp phần mình vào xây dựng thế giới này. Chỉ như vậy mới mong phát
triển tối đa trí tuệ tiềm ẩn của hàng chục tiệu công dân tương lai, tạo thành
nguyên khí quốc gia thúc đẩy sự phát triển.
Tóm lại, theo tôi, muốn đưa đất nước vượt thoát khỏi
tình trạng hiện nay, thực hiện thành công lộ trình cải cách trong giáo dục,
việc đầu tiên nên làm là các nhà lãnh đạo cao nhất phải thay đổi lề lối tư duy,
thay đổi tầm nhìn nhằm có một viễn kiến chính xác, không tách biệt với đường đi
chung của nhân loại. Từ đó mới đưa ra những mục tiêu giáo dục quốc gia và các
địa phương, thiết kế lại nội dung chương trình và cách thức tổ chức giảng dạy
thi cử trong nhà trường.
N.K.T.
Nguồn:
www.tiasang.com.vn
|
No comments:
Post a Comment