Phan Châu Thành
Chủ Nhật, 15/12/2013
Ngày mai, 16/12, dường như
phiên tòa “đại án Vinalines” xử Dương Chí Dũng, Mai Văn Phúc, Trần Hải Sơn… sẽ
có phán quyết cuối cùng nặng nề với 2 án tử hình và một án tù giam 34 năm (vẫn
chưa phải án chung thân!). Tội danh chính gồm 2 phần: vi phạm qui định nhà nước
và tham nhũng (đưa và nhận hối lộ), cả hai đều gây thất thuất tài sản lớn của
nhà nước…
Phiên tòa là bức tranh chung
đại diện cho nền kinh tế cũng như cho cả thể chế nước ta hiện nay. Từ đó, tôi
thấy có ba vấn đề lớn trong vụ án này cũng như trong các “vụ đại án kinh” khác
của Việt Nam, đó là: Cơ sở pháp lý (cả lập pháp, tư pháp lẫn hành pháp), của vụ
án này không ổn, và như thế chẳng qua là họ đang lừa dân biểu diễn màn hài kịch
“chống tham những”, đang lợi dụng pháp lý để các phe nhóm lợi ích trong đảng
đấu đá nhau mà thôi; hai là: Cơ chế kinh tế - dùng các đơn vị kinh doanh quốc
doanh làm chỉ đạo – tạo ra các vấn đề trầm trọng thể hiện rất rõ trong các vụ
án, luôn luôn và tất yếu gây nên đỏ vỡ kinh tế lớn cho đất nước; và thứ ba là
cách dùng người và cách quản lý kinh tế của chế độ này hay cơ chế đó rất không
ổn: không theo hiệu quả làm việc mà theo “phân công của đảng” tức bổ nhiệm theo
thế lực thực tế của các phê nhóm lợi ích trong đảng với nhau trong từng lĩnh
vực cụ thể, mà chỉ ra sức khai thác thực tế “thắng lợi cách mạng” đã để lại
hiện nay…
Vậy nên tôi xin có vài ý kiến
chia sẻ về điều đó, và xin bỏ qua phần tội danh tham nhũng vốn là bản chất hệ
thống và là đặc thù (vừa là phương tiện vừa là mục đích cách mạng) của các quan
cộng sản, ở đâu cũng có, và trong cơ quan nào cũng có thể thấy rõ mọi lúc mọi
nơi, dù bao giờ khi khởi tố các vụ án cũng chỉ là “vi phạm các qui định quản lý
nhà nước”…
Phần 1: Những vấn đề trong cơ sở pháp lý của vụ án
Vinalines
Cơ sở pháp lý để luận tội “vi
phạm các qui định quản lý nhà nước” ở đây, trong ví dụ vụ “đại án kinh tế”
Vinalines là Nghị định 49/2006/NĐ-CP của Thủ Tướng mới lên lúc đó NTD ký ngày
18/5/2006 (NĐ 49/CP).
Về lập pháp, trước 2006 cả nền
kinh tế phát triển khá rầm rộ và việc các đơn vị, địa phương ồ ạt nhập tầu biển
cũ về kinh doanh là rất phổ biến, vì nói chung cách đó khá hiệu quả đối với nền
kinh tế vừa mới mở ra của ta thời kỳ đó. Việc quản lý nhập khẩu tàu biển về VN
trên phạm vị quốc gia với cái nhìn vì lợi ích cả nền kinh tế khi đó và bao giờ cũng
là cần thiết. Nhưng không hiểu sao người chấp bút cho nghị định CP này lại
là…Vinashin. Vinashin chính là “nạn nhân” của “phong trào” nhập tầu biển cũ ồ
ạt làm các xưởng tàu trong nước chết thảm nhiều năm (20 năm dài, từ 1986) trước
đó, nhất là các xưởng tàu lớn của Vinashin... Vì thế, Nghị định 49 đã ghi rõ
cấm nhập các tàu biển trên 15 tuổi… Mục tiêu “lập pháp” lớn nhất của Vinashin
lúc đó là bắt các anh “bạn vàng” lớn nhất trong nước như Vinalines,
PetroVietnam, Petrolimex và các loại tổng công ty “im-ếch” và các công ty vận
tải biển khác “của nhà nước” phải đặt hàng họ - Vinashin đóng tàu mới trong
nước thay vì đi mua tàu cũ… Chính phủ thì coi đây là nghị định bảo hộ kinh tế
của mình giúp Vinashin – quả đấm thép đặc biệt “sáng” lên…
Đầu 2006, tôi đã được ông Bình
và ông Ánh (TGĐ và PTGĐ Vinashin) khoe về thành tích “lập pháp” đó của họ như
sau: “Bọn tớ đang sắp lùa được chúng nó vào rọ hết rồi. Từ 1.6.2006 chúng nó có
muốn cũng không thể chạy thoát việc đặt hàng đóng mới ở Vinashin…”, và họ nói
về nội dung Nghị định 49/CP mà N.T.Dũng sẽ ký… (”Chúng nó” ở đây là “các ông
bạn vàng” đã kể trên), rồi họ say sưa nói đến tương lai ngành đóng tàu Việt Nam
sẽ trở thành trụ cột nền kinh tế Biển, sẽ đứng thứ tư (trong kế hoạch gửi CP họ
rút xuống thứ 7) thế giới, vào năm 2010…
Tôi đã đưa ra bốn lý do chính
mà theo tôi một NĐ như thế dù CP có thông qua cũng sẽ khó thực hiện là: Người
mua tầu cũ, dù trên 15 năm tuổi, thường sẽ khai thác hiệu quả hơn đóng mới rất
nhiều (vì nước ta còn nghèo, dân ta chưa quan tâm đến cấc vấn đề an toàn và môi
tường…); thứ hai: tầu trên 15 tuổi mà do Nhật hay Châu Âu đóng thì khả năng
chất lượng còn rất tốt và thiết bị kỹ thuật hiện đại… hơn tàu Vinasshin đóng
mới là rất cao, (tàu Vinashin đóng mới chỉ hơn tàu cũ của... TQ đóng thôi!), và
thứ ba: Thế giới đóng tàu là để dùng 50-60 năm (có khi cả trăm năm) thì mới
hiệu quả, chứ có phải chỉ dùng 15 năm đâu? Tầu dưới 15 tuổi rất ít chủ tàu bán
đi vì đang “ngon” và khai thác chưa thu hồi hết vốn và bán đi thì khó vì giá
phải cao; và lý do thứ tư, quan trọng nhất: Khi đi mua tầu ở nước ngoài, người
ta vừa được du hí bằng tiền nhà nước, vừa được chủ tầu “lại quả” rất ngon vì
người ta mua bằng tiền nhà nước mà...
Như vậy, vấn đề trong lập pháp ở đây là, Nghị định 49/CP là một chính sách cực kỳ sai lầm của chính phủ vì nó không khả thi, vì nó đi ngược các nguyên tắc kinh tế cơ bản trên.
Tôi không biết trên thế giới có
nước nào “chơi sang” mà dám có chính sách bảo hộ “tự hại” như NĐ 49/CP cấm nhập
tầu biển trên 15 tuổi như VN? Thường thì, các chính phủ không khuyến khích việc
nhập tàu biển cao tuổi bằng các chính sách thuế cao (thế nhập khẩu và thuế khai
thác), và bằng các qui định cao về an toàn, đăng kiểm, bảo hiểm… với tàu biển
mà thôi. Ví dụ, vì các lý do cụ thể là bảo vệ môi trường biển, nước Úc cấm tàu
trên 30 tuổi vào cảng của họ, vì bảo vệ an toàn con người đi biển các nước Tây
Âu đánh thuế rất cao chủ tàu của họ khi khai thác tàu cũ trên 25 năm nhưng vẫn
cho khai thác vô thời hạn, miễn là đăng kiểm và bảo hiểm chấp nhận…, hay vì
tham gia các công ước quốc tế về biển như IMO, SOLAS… mà các nước đều phải gia
tăng các yêu cầu đăng kiểm an toàn kỹ thuật tàu biển… Chỉ có VN mới có tư duy
điều hành kinh tế bằng mệnh lệnh với vô số các nghị định như kiểu NĐ 49/CP đó…
Có thể những người thông qua
nghị định 49/CP (là VPCP) và người ký nó (TTg Nguyễn Tấn Dũng) chả hiểu tí gì
về tầu biển và sự nguy hiểm của bảo hộ kinh tế trực tiếp, nhưng họ cũng đã
không biết học theo “đại ca” của mình là Đặng Tiểu Bình khi ông này đã từng nói
và làm trong thời điểm mở cửa nước Trung Hoa rằng: “đóng tàu không bằng mua
tàu, mua tàu không bằng thuê tàu…” để thực hiện chính sách “mèo trắng hay mèo
đen, miễn mèo nào bắt được chuột!” của ông.
Trong kinh tế của các “quả đấm
thép” VN thì câu đó là: mua tàu hay đóng tầu hay thuê tàu, miễn là đạt hiệu quả
kinh tế cao nhất? Thế là, để mở cửa nền kinh tế, TQ thì bắt đầu bằng thuê tầu
và họ cứ thế đi lên, còn VN bắt đầu bằng mua tàu (cũ) và đóng tàu (nát) – VN cứ
thế mà chìm nghỉm. Ngày hôm nay, công nghiệp đóng tàu TQ đứng đầu thế giới (về
sản lượng và thị trường, chất lượng thì còn lâu – vì đó là vấn đề “đạo đức cộng
sản”), đóng tàu VN cũng đứng đầu thế giới, nhưng về tai tiếng và ân oán nợ nần…
Chính sách đó (Nghị định 49/CP)
đã phá sản hoàn toàn mà, về hành pháp, đến hôm nay nó vẫn được dùng như Kinh
thánh để làm cơ sở pháp lý quản lý kinh tế trong nước và cho các vụ án, nhất là
trong các vụ “đại án linh tế” như vụ Vinalines… Tức là nó đang là cơ sở pháp lý
để kết án tử hình hai ông Dũng và Phúc…
Cần phải nhắc lại là, chính
trong vụ đại án Vinashin mới gần đây thôi, người ta cũng đã dùng Nghị định
49/CP này để kết án các quan chức vô lại Vinashin khi chính họ đã vi phạm cái
nghị định mà họ soạn thảo ra rồi “lobby” để Thủ tướng ký năm 2006 đó! Đó là khi
họ được giao một đống tiền của nhà nước và họ biết nếu họ tự đóng tàu thì chỉ
có lỗ nên họ đã…đi mua hàng loạt tàu cũ về và lập nên các công ty hàng hải
Vinashinlines, Biển Đông, tàu khách Bắc Nam Vinashin, từ số O tròn trĩnh thành
những “người khổng lồ” trong ngành trong mấy tháng!
Khoảng thời gian đó
(2007-2008?), tôi lại quay lại hỏi các ông Bình, Ánh… “Sao các anh vi phạm NĐ
49/CP? Sao các anh không “vì tương lai nghành đóng tàu Việt nam” mà tự đóng tàu
rồi khai thác?’ Có phải vì mấy nguyên nhân làm NĐ 49/CP sẽ bất khả thi mà tôi
đã đưa ra?...” Thì tôi được trả lời: Vinashin được Thủ tướng giao nhiệm vụ cấp
tốc phát triển tuyến vận tải hành khách và container Bắc-Nam để khẳng định vai
trò kinh tế biển của Việt Nam, nên không thể đợi đóng tàu được! Và vì thế… tất
cả các con tàu họ mua “cấp tốc” về đều có tuổi vượt xa tuổi 15-“sắp trăng tròn”
mà họ đã yêu cầu CP cấm nhập…
Như vậy, việc hành pháp với NĐ
49/CP cũng chỉ là trò hề, họ thích thì theo, không thích thì thôi, có người
phải theo, có người không phải theo, và bao giờ họ cũng có lý do gì đó cao hơn
pháp luật, ví dụ ở đây là “chỉ thị của thủ tướng”… Vậy pháp luật là gì, nghị
định CP là gì mà bắt cả nước phải tuân theo nếu vẫn có những thứ luôn cao hơn
pháp luật?
Khuôn mặt thứ ba của hệ thống
Pháp lý là tư pháp, với Nghị định 49/CP năm 2006 thì nó là cái gì, trông như
thế nào? Trong ngành vận tải sông biển và đóng tàu (cả trong dầu khí, thủy sản
và một số ngành công nghiệp khác…) có một dạng tổ chức độc lập đóng vai trò tư
vấn pháp lý và kỹ thuật trong ngành, vai trò tư pháp, đó là tổ chức Đăng kiểm
Hàng hải Việt nam. Ở nước ta Đăng kiểm Hàng hải là cơ quan nhà nước vừa có vài
trò lập pháp (lập ra các qui phạm, qui định kỹ thuật), vừa có vài trò hành pháp
(giám sát thực hiện) và vừa có vai trò tư pháp (giải thích, điều chỉnh, tư vấn
kỹ thuật…).
Trong NĐ 49/CP. Đăng Kiểm VN đã
bị cho đứng ngoài từ đầu trong việc tham gia tư vấn “lập pháp”, tức là góp ý
cho NĐ 49/CP, ít nhất là về chuyên môn kỹ thuật hàng hải. Vì thế cho nên khái
niệm cơ bản như ụ nổi 83M có phải là tàu biển không và có chịu sự áp đặt của
Nghị định 49/CP đó không, mà đến nay người ta cũng vẫn còn cãi nhau suốt, đã
gần chục năm áp dụng NĐ rồi, thì quả là… bó tay chấm cơm!
Việc này nếu đưa ra tòa án hay
trọng tài quốc tế, thì chỉ cần một câu giải thích định nghĩa từ ship - tầu biển
trong NĐ 49/CP của một cơ quan đăng kiểm quốc tế là xong. Nghị định 49/CP điều
tiết việc nhập khẩu tầu biển nhưng không có định nghĩa “tầu biển” chính xác và
được các bên liên quan hiểu “tầu biển” nhất quán là gì, thể hiện cách làm luật
của ta nó “chuyên nghiệp” ra sao, cách thực hiện luật pháp nó rối loạn thế nào
và cách giải thích và áp dụng nó bế tắc làm sao!
Luật ra ám muội như thế, những
người “cảnh sát kinh tế” cho việc áp dụng luật, ở đây là NG 49/CP và việc nhập
khấu ụ nổi 83m của Vinalines là Hải Quan lại thường là những người biết ít nhất
về kỹ thuật, nhất là kỹ thuật hàng hải, thì làm sao hiểu cho tường tận NĐ 49/CP
để thực hiện! Thế mà họ đã hiểu đúng và thực nhiện đúng, họ đã cho thông quan Ụ
nổi vì đó đúng là không phải tầu biển – đối tượng áp dụng của NĐ 49/CP!
Thế mà, hôm qua và hôm nay, đọc
các bài báo lề phải về “đại án Vinalines”, về chi tiết các vị công tố viên dùng
biên bản của Đăng kiểm VN để “đập lại” các đăng kiềm viên và cán bộ hải quan
hiện đã là những bị can tại tòa, rằng “Ụ nổi 83M không phải là tàu biển thì là
mớ rau à?”, tôi thấy đau lòng và uất nghẹn cho người dân trước hệ thống tư pháp
ngu và ác đến tột cùng của chế độ này quá! Chẳng khác gì như công an bắc Giang
tra tấn ép cung ông Chấn để lập thành tích phá án nhanh, các công tố viên Viện
Kiểm “nhân dân” đang công khai “ép cung, tức đổi trắng thành đen giữa phiên
tòa, đưa các “đồng chí” vô tội của mình vào vòng lao lý, để lập thành tích
chống tham nhũng với đảng, và đảng thì với dân!
Đó cũng là một lý do trực tiếp
làm tôi phải xóa các cuộc hẹn chiều nay để ngồi viết bài này.
Ý của tôi là: Những người đang
đứng trước vành móng ngựa hôm nay ít nhiều một số cũng có tội và đáng bị xử,
nhưng có lẽ không phải tất cả - có nhiều người không có tội “vi phạm các qui
định pháp luật” như cán bộ đăng kiểm (Lê Văn Dương) và ba cán bộ hải quan
(Huỳnh Hữu Đức, Lê Văn Lừng và Lê Ngọc Triện). Với tôi, những kẻ đang xử họ còn
có tội lớn hơn nhiều, là đang vận hành một chế độ pháp lý đại ngu đại ác đại
bất công như thế!
Tôi xin mạn phép đưa ra 2 định
nghĩa tàu biển và Ụ nổi của các đăng kiểm quốc tế (như ABS, DNV-GL, LR, BV…)
dùng phổ biến trong các tài liệu pháp lý, tài liệu kỹ thuật, qui phạm, tiêu
chuẩn kỹ thuật… trong các nghành đóng tàu, hàng hải, dầu khí quốc tế như sau:
Tàu biển (seagoing ships) là phương tiện nổi tự hành (có động cơ và chân vịt)
để (với mục đích chính) vận chuyển hay di chuyển trên biển mà trên 99% thời
gian khai thác của nó là dành cho mục đích chính đó.
Còn Ụ nổi (floating drydock) là
một dạng phao nổi có tiết diện chữ U có đội nổi thay đổi và có thể làm chìm
xuống-nổi lên để năng tàu biển lên khỏi mặt nước.
Theo hai định nghĩa trên và
theo mọi tổ chức đăng kiểm, mọi chuyên gia trong ngành thì ụ nổi và tầu biển là
khác nhau và luôn cần hai định nghĩa khác nhau hoàn toàn như trên. Tứ là, Ụ nổi
83M không phải và không thể là tàu biển, và nó không là đối tượng chịu áp đặt
của NĐ 49/CP hiện hành. Nói Ụ nổi là tầu biển thì cũng như nói nhà hộ sinh là
bà đẻ vậy, hay nói giường bệnh chính là bệnh nhân, gara là cái ô tô, nhà của
bạn là bạn?…
Điều đó có nghĩa là trong vụ
“đại án Kinh tế” Vinalines mà ngày mai người ta sẽ kết án ”vi phạm các qui định
quản lý kinh tế” của đối với các ông Dũng, Phúc… trong việc nhập ụ nổi 83M, là
hoàn toàn không có cơ sở pháp lý. Rất tiếc, trong quá trình tố tụng vụ án, các
vị “tư pháp” của vụ án này là các Đăng kiểm VN và Hải quan lại cũng bị bắt giam
cùng các bị can thay vì được hỏi cách hiểu và cách áp dụng NĐ 49/CP!
Tóm lại, trong vụ án này, tư
pháp bị hành pháp bắt giam, đè bẹp và xét xử. Họ trở thành bị can và tội phạm
và họ thậm chí không thể tự bảo vệ chính mình, vì họ bị đảng cướp mất cơ sở
pháp lý của họ - chính là cách hiểu đúng ND 49/CP! Ôi những vị quan tòa công
minh về kỹ thuật – các chuyên gia đăng kiểm, và cả các vị “cảnh sát kinh tế”
của chế độ- trong chế độ không chịu tam quyền phân lập này với ý chí của đảng
luôn cao hơn tam quyền ấy, các vị chỉ có thể trở thành hề, vật hy sinh và mồi
ngon cho kẻ khác! Tư pháp ở đâu ư? Thế Pháp lý ở đâu?
Vinalines – Lại một vụ án điển
hình tượng trưng cho xã hội CSVN này: lập pháp ngu ngơ bất mình, hành pháp tùy
theo ý thích và “sức mạnh $”, còn tư pháp thì bị bắt đem xử luôn cho đúng ý
hành pháp!
Ôi, con đường công lý cho dân Việt còn xa lắm! Bức tranh những “đại án kinh tế chống tham nhũng” cũng chỉ là những màn diễn bi hài để các thế lực trong các nhóm lợi ich $ đỏ tranh giành thế lực với nhau mà thôi…
Tôi chỉ phân tích một NĐ 49/CP
để chúng ta thấy cái lố bịch, cái ngu dốt, cái nguy hiểm, cái trơ tráo và cái
sự độc ác của cả hệ thống pháp lý qua một nội dung là ND 49/CP để thấy nó đã
gây nên bao vô lý đau thương bi hài cho nền kinh tế, cho từng người liên quan
và cho cả xã hội VN hiện đại này.
Bây giờ, các bạn hãy tự hình
dung cái xã hội này đã và đang được xây dựng trên hàng ngàn hàng vạn những
“nghị định” ngu xuẩn như thế, được điều tiết mọi mặt đời sống kinh tế, văn hóa,
chính trị, khoa học, pháp luật… của xã hội cộng sản này theo những cách như thế
và bằng những con người như thế, để thấy mức độ ghê tởm và không thể cứu vãn
của nó.
Dân tôi ơi, đừng
hy vọng gì vào cái gọi là chống tham nhũng của CSVN nữa!
PCT
(PS: Hôm nay tôi chỉ nói được
quan điểm của mình về một trong ba vấn đề nêu ra thôi. Hai vấn đề kia, hy vọng
sẽ có dịp chia sẻ cùng các bạn dịp khác – Cảm ơn - PCT).
No comments:
Post a Comment