Phạm Nguyên
Trường dịch
Ngày
18 tháng 11 năm 2013
Lời người dịch: Mọi người đều
biết rằng các nhà tri thức trên khắp thế giới là một trong số những người chống
chủ nghĩa tư bản và kinh tế thị trường quyết liệt nhất và kiên trì nhất. Các
nhà văn, nhà báo, các giáo sư đại học theo đường lối tả khuynh ở đâu cũng có tỉ
lệ rất cao. Robert Nozick, một trong những người cổ vũ cho chủ nghĩa tự do nổi
bật nhất cho rằng nguyên nhân nằm ở hệ thống giáo dục của nhà trường hiện đại:
tạo ra trong các nhà tri thức muốn biến thế giới thành một lớp học cho tất cả
mọi người.
*
Đáng
ngạc nhiên là nhiều trí thức lại có thái độ phản đối chủ nghĩa tư bản đến như
vậy. Các nhóm kinh tế-xã hội khác không có thái độ phản đối đến như thế. Như
vậy là, về mặt thống kê, trí thức là những người bất thường.
Không
phải tất cả trí thức đều là “tả khuynh”. Tương tự như các nhóm khác, ý
kiến của
họ phân bố
trên toàn bộ
đường đồ thị.
Nhưng ý kiến
của các nhà
trí thức ngả
về và nghiêng về
phía tả khuynh nhiều
hơn.
Với
từ trí thức, tôi không có ý nói tất cả những nhà khoa bảng hoặc những người có
trình độ học vấn nhất định nào đó, mà muốn nói tới những người, trong khi hành
nghề, thường phải làm việc với những ý tưởng được thể hiện bằng lời nói, tạo ra
dòng chảy ngôn từ mà những người khác phải đọc, phải nghe. Những người “thợ rèn
chữ” đó gồm các nhà thơ, nhà văn, nhà phê bình văn học, các nhà báo, và các
thày giáo, các giáo sư. Số này không bao gồm những người sản xuất và truyền tải
thông tin đã lượng hóa và toán học hóa (các “thợ rèn số”) hoặc những người làm
việc với phương tiện nghe nhìn như họa sĩ, điêu khắc gia, quay phim. Khác với
các “thợ rèn chữ”, tỉ lệ những người chống lại chủ nghĩa tư bản làm trong các
ngành này không cao như thế. Các “thợ rèn chữ” tập trung ở những khu vực nghề
nghiệp nhất định: Các viện và học viện, các phương tiện truyền thông, bộ máy
hành chính của chính phủ.
Trong
xã hội tư bản các “thợ rèn chữ” hoàn toàn an tâm: họ có quyền tự do đưa ra,
tiếp nhận, và tuyên truyền những ý tưởng mới, có quyền tự do đọc và thảo luận
những ý tưởng này. Kỹ năng của họ được trọng dụng, thu nhập của họ cao hơn mức
trung bình. Tại sao não trạng bài tư bản trong số những người này lại cao như
thế? Hơn nữa, một số dữ liệu cho thấy người trí thức càng giàu có và thành công
thì ông ta càng dễ có thái độ phản đối chủ nghĩa tư bản hơn. Não trạng bài tư
bản thường xuất phát từ “nhóm đối lập tả khuynh”, nhưng không chỉ có thế.
Yeats, Eliot và Pound phản đối xã hội thị trường từ lập trường của cánh hữu.
Sự
chống đối chủ nghĩa tư bản của các “thợ rèn chữ” có ý nghĩa xã hội không nhỏ.
Chính họ là những người tạo ra ý tưởng và hình ảnh của chúng ta về xã hội, họ
đưa ra các chính sách cho bộ máy quản lí lựa chọn. Họ cung cấp cho chúng ta câu
chữ để thể hiện, từ tác phẩm chuyên đến khẩu hiệu. Vì vậy mà sự phản đối của họ
có tầm quan trọng, nhất là trong một xã hội ngày càng phụ thuộc vào việc hình
thành và phổ biến thông tin một cách minh bạch.
Chúng ta có thể thấy hai cách giải
thích vì sao nhiều trí thức phản đối chủ nghĩa tư bản. Cách thứ nhất liên
quan tới tác nhân đặc thù của các nhà trí thức có thái độ bài tư bản. Loại thứ
hai liên quan tới tất cả các nhà trí thức, tức là lực thúc đẩy họ ngả sang quan
điểm bài tư bản. Nó có đẩy một người trí thức cụ thể sang phía bài tư bản hay
không còn phụ thuộc vào các lực lượng khác đang có ảnh hưởng đối với anh ta.
Nhưng, gộp lại, vì nó làm cho thái độ bài tư bản của trí thức cao thêm, kết quả
là tác nhân này sẽ tạo ra tỉ lệ cao các nhà trí thức có thái độ bài tư bản. Lời
giải thích của chúng tôi sẽ thuộc loại thứ hai. Chúng tôi sẽ xác định nhân tố
đẩy người trí thức sang lập trường bài tư bản, nhưng không đảm bảo rằng có thể
áp dụng nó cho từng trường hợp cụ thể.
Giá
trị của của người trí thức
Hiện
nay, các nhà trí thức luôn nghĩ rằng họ là những người có giá trị nhất trong xã
hội, là những người có uy tín và quyền lực cao nhất, những người được tưởng
thưởng lớn nhất. Người trí thức cho rằng họ có quyền như thế. Nhưng, nói
chung, xã hội tư bản không tôn vinh những người trí thức của nó. Ludwig von
Mises giải thích thái độ bất bình đặc biệt của giới trí thức - khác với người
công nhân – là họ giao thiệp với các nhà tư sản thành công và do đó họ lấy
những người đó ra so sánh và cảm thấy nhục nhã khi thấy tình trạng thấp kém hơn
của mình. Nhưng, ngay cả những người trí thức không giao tiếp với các nhà tư
sản cũng cảm thấy bực bội như thế, chỉ giao tiếp không thì chưa đủ, những người
dạy các môn thể thao và dạy múa cho những người giàu có và làm việc với họ
không phải là những người bài tư bản nổi bật.
Thế
thì tại sao các trí thức hiện nay cảm thấy có quyền được hưởng những phần
thưởng cao nhất của xã hội và bất mãn khi họ không nhận được sự tưởng thưởng
như thế? Người trí thức cho rằng họ là những người có giá trị nhất, là những
người có công nhất, và xã hội nên tưởng thưởng cho mọi người phù hợp với giá
trị và công lao của họ. Nhưng xã hội tư bản không làm theo nguyên tắc phân phối
“hưởng theo giá trị hay công lao”. Ngoài quà tặng, tài sản thừa kế, và tiền
nhận được từ cờ bạc, vẫn thường xảy ra trong một xã hội tự do; thị trường trả
công cho những người đáp ứng nhu cầu của người khác được thể hiện trên thương
trường, và tiền công phụ thuộc vào nhu cầu và nguồn cung thay thế lớn đến mức
nào. Các doanh nhân và người lao động thất bại không có thái độ thù địch đối
với hệ thống tư bản như các trí thức-“thợ rèn chữ”. Chính cảm giác về giá trị vượt trội nhưng không
được công nhận của mình, quyền của mình bị phản bội, mới tạo ra thái độ thù
nghịch như thế.
Tại
sao các trí thức-“thợ rèn chữ” cho rằng họ là những người có giá trị nhất, và
tại sao họ lại cho rằng phải phân phối theo giá trị? Xin lưu ý: nguyên tắc này
không phải là tất yếu. Có những mô hình phân phối khác đã được đề xuất, trong
đó có phân phối cào bằng, phân phối theo đức hạnh, phân phối theo nhu cầu. Nói
cho ngay, thậm chí một xã hội quan tâm tới công bằng cũng không cần đặt ra mục
tiêu là phải có một mô hình phân phối. Công bằng trong phân phối có thể nằm
trong quá trình trao đổi tự nguyện của cải kiếm được và dịch vụ được thực hiện
một cách công chính. Dù kết quả của quá trình đó có như thế nào thì đấy cũng là
kết quả công bằng, nhưng kết quả không cần phải phù hợp với bất kì mô hình cụ
thể nào. Thế thì tại sao các “thợ rèn chữ” lại coi mình là những người có giá trị
nhất và chấp nhận nguyên tắc phân phối theo giá trị?
Ngay
từ khi tư tưởng được ghi chép lại, người trí thức đã nói với chúng ta rằng công
việc của họ là có giá trị nhất. Plato đánh giá khả năng suy luận cao hơn lòng
can đảm và sự khát khao và cho rằng triết gia phải cai trị; Aristotle cho rằng
chiêm nghiệm bằng trí tuệ là hoạt động cao cả nhất. Không có gì ngạc nhiên là
trong những văn bản còn lại đến thời nay có những đánh giá cao như thế về hoạt
động trí tuệ. Nói cho cùng, những người đưa ra đánh giá, những người ghi chép
lại lý do ủng hộ những đánh giá như thế đều là trí thức cả. Họ tự ca ngợi mình.
Những người đánh giá những việc khác cao hơn tư duy bằng ngôn từ, dù đấy có là
săn bắn, quyền lực hay thú vui xác thịt quanh năm suốt tháng, không bận tâm đến
việc ghi chép lại quan điểm của mình cho hậu thế. Chỉ có các nhà trí thức mới
làm ra lý thuyết về việc ai là người cao quý nhất mà thôi.
Cái
học của người trí thức
Tác
nhân nào làm cho một số trí thức có cảm giác rằng mình có giá trị cao hơn? Tôi
muốn tập trung vào một thiết chế cụ thể: trường học. Khi kiến thức sách vở ngày
càng trở nên quan trọng, việc học tập – thế hệ trẻ cùng nhau học đọc và học
kiến thức sách vở trong nhà trường – trở thành hiện tượng phổ biến. Bên cạnh
gia đình, trường học trở thành tổ chức quan trọng nhằm định hình thái độ của
thế hệ trẻ, và hầu như tất cả những người sau này trở thành nhà trí thức đều đã
từng học tập ở trường. Họ là những người có thành tích trong học tập. Người ta
đem họ ra so sánh với những người khác và được coi là giỏi hơn. Họ được khen
ngợi và được tưởng thưởng, họ là trò cưng của các giáo viên. Làm sao họ lại có
thể coi mình không phải là những người ưu việt cho được? Lúc nào họ cũng cảm
thấy sự khác biệt trong việc xứ lí các ý tưởng, trong việc mình có khả năng tư
duy nhanh nhạy hơn. Nhà trường nói với họ và chỉ cho họ thấy rằng họ là những
người giỏi hơn.
Nhà
trường còn thể hiện và qua đó dạy cho học sinh nguyên tắc khen thưởng theo phẩm
chất (trí tuệ). Những người có phẩm chất trí tuệ cao được khen ngợi, được giáo
viên yêu, và được điểm cao nhất. Theo đánh giá của nhà trường, các học trò
thông minh nhất tạo ra tầng lớp thượng lưu. Dù không nằm trong chương trình
giảng dạy chính thức, nhưng các nhà trí thức đã học được trong nhà trường bài
học rằng họ có giá trị cao hơn những người khác, và giá trị cao đó cho họ quyền
được tưởng thưởng cao hơn.
Nhưng
xã hội thị trường rộng lớn hơn ngoài kia lại dạy cho người ta bài học khác. Ở
đấy, những phần thưởng lớn nhất không thuộc về những người nói tài nhất. Ở đấy,
các kỹ năng trí tuệ không được đánh giá cao nhất. Đã học được rằng họ là
những người có giá trị nhất, xứng đáng được tưởng thưởng nhất, có quyền được
tưởng thưởng nhất, làm sao phần đông các nhà trí thức không tức giận xã hội tư
bản, một xã hội đã tước đoạt những thứ họ xứng đáng được hưởng, những thứ mà ưu
thế của họ đã cho họ “quyền” được hưởng? Đáng ngạc nhiên là thái độ thù nghịch
sâu cay và buồn nản của các nhà trí thức đối với xã hội tư bản - dù được che
đậy dưới nhiều lý do thích hợp, thường được họ trình bày một cách công khai –
vẫn tiếp tục tồn tại ngay cả khi những lý do cụ thể đó được chứng minh là không
đúng?
Nói
rằng trí thức cảm thấy có quyền nhận những phần thưởng cao nhất mà xã hội nói
chung có thể cung cấp (tài sản, địa vị…), tôi không có ý cho là trí thức coi
những phần thưởng đó là hàng hóa có giá trị cao nhất. Có thể các nhà khoa bảng
đánh giá niềm vui mà hoạt động trí tuệ mang lại cho mình hay sự kính trọng của
các thế hệ sau cao hơn những phần thưởng kia. Tuy nhiên, họ cũng cảm thấy có
quyền được xã hội nói chung đánh giá cao nhất – cao nhất mà xã hội có thể - mặc
dù họ có thể coi phần thưởng cao nhất đó là không đáng kể. Tôi không có ý nhấn
mạnh những phần thưởng sẽ chui vào hầu bao của người trí thức hay thậm chí tôn
trọng cá nhân họ. Tự coi mình là trí thức, sự kiện là hoạt động trí tuệ không
được đánh giá và tưởng thưởng cao nhất đã làm họ bực bội rồi.
Các
nhà khoa bảng muốn toàn bộ xã hội trở thành một trường học, tương tự như môi
trường nơi họ đã thành công đến mức ấy và được đánh giá cao đến mức ấy. Áp dụng
những tiêu chuẩn tưởng thưởng khác với những tiêu chuẩn trong xã hội, nhà
trường chắc chắn sẽ làm cho một số người sau này cảm thấy mất giá. Những người
ở những vị trí cao nhất trong bảng xếp hạng của nhà trường sẽ cho rằng mình có
quyền giữ vị trí hàng đầu - không chỉ trong cái xã hội nhỏ bé đó mà còn có vị
trí cao nhất trong xã hội rộng hơn. Những người đó sẽ căm thù cái xã hội không
cư xử với mình theo đúng ước vọng và quyền mà họ tự gán cho mình. Như vậy là, hệ thống trường học
tạo ra não trạng bài tư bản trong giới trí thức. Chính xác hơn, nó tạo
ra não trạng bài tư bản trong giới trí thức làm việc với ngôn từ. Tại sao các
“thợ rèn số” không có thái độ như các “thợ rèn chữ”? Tôi ngờ rằng những đứa trẻ
sáng dạ trong tính toán - dù cũng được điểm cao trong các kỳ thi - không được
thày giáo chú ý và ưu ái bằng những em nói tài. Chính khả năng giao tiếp đó
mang lại cho các em phần thưởng của thày giáo, và rõ ràng là chính những phần
thưởng này đã tạo ra cảm giác ưu trội của mình.
Kế
hoạch hóa tập trung trong lớp học
Còn
một điểm nữa cần nói thêm. Các nhà trí thức-“thợ rèn chữ” (trong tương lai)
thường thành công trong hệ thống trường học chính thức, nơi những phần thưởng
liên quan là do các “cơ quan quyền lực” của các giáo viên phân phát. Nhưng
trong trường còn có hệ thống xã hội phi chính thức trong lớp học, ngoài hành
lang, và trên sân trường, nơi phần thưởng được phân phối không theo chỉ đạo của
cấp trên mà phân phối một cách tự phát, theo ý thích của các đồng môn. Ở đây
các nhà trí thức không thành công đến như thế.
Vì
vậy, không có gì ngạc nhiên là, phân phối hàng hóa và phần thưởng thông qua một
cơ chế do trung ương tổ chức được các nhà trí thức coi là thích hợp hơn là
“tình trạng vô chính phủ và hỗn loạn” của thương trường. Phân phối trong khuôn
khổ hệ thống xã hội xã hội chủ nghĩa kế hoạch tập trung so với phân phối trong
một xã hội tư bản chủ nghĩa cũng tương tự như phân phối bởi các giáo viên so
với phân phối trên sân trường và ngoài hành lang.
Giải
thích của chúng tôi không nói các nhà trí thức (tương lai) chiếm đa số ngay
trong tầng lớp thượng lưu của trường. Nhóm này có thể bao gồm phần lớn là những
người có kết quả học tập nổi bật (nhưng không phải là áp đảo) và biết cách cư
xử đúng mực, thích làm người khác hài lòng, có thái độ thân thiện, đắc nhân
tâm, và biết chơi bằng (và tuân theo) quy tắc. Những học sinh như vậy cũng sẽ
được giáo viên đánh giá cao và khen thưởng và họ cũng sẽ rất thành công trong
xã hội. (Và thành công trong hệ thống xã hội phi chính thức của trường. Cho nên
không thể nói những người này có thái độ đặc biệt đối với các tiêu chuẩn của hệ
thống chính thức của trường.) Giải thích của chúng tôi giả định rằng các nhà
trí thức (tương lai) phân bố một cách bất cân xứng trong nhóm thượng lưu (chính
thức) của trường, trong tương lai chính những người này sẽ cảm thấy mất giá.
Hay nói đúng hơn, họ ở trong nhóm có thể dự đoán trước được tương lai như thế
của chính mình. Thái độ thù nghịch sẽ phát sinh trước khi họ bước vào thế giới
rộng lớn hơn và trải nghiệm sự suy giảm địa vị xã hội thực sự, đấy là lúc người
học trò thông minh nhận ra rằng trong xã hội rộng lớn hơn anh ta (có thể) sẽ
không thành công bằng giai đoạn học tập hiện nay. Hậu quả không dự định trước
như thế của nhà trường – não trạng bài tư bản - tất nhiên, sẽ gia tăng khi học
sinh đọc sách của/được giảng dạy bởi các trí thức có thái độ bài tư bản quyết
liệt.
Chắc
chắn là, có một số trí thức-“thợ rèn chữ” khó tính và đấy là những học trò hay
thắc mắc và vì vậy mà bị giáo viên không ưa. Họ có học được bài học rằng người
giỏi nhất sẽ được phần thưởng cao nhất và có nghĩ rằng - mặc kệ thái độ của các
thày giáo của họ - mình chính là những người giỏi nhất và bắt đầu ghét hệ thống
phân phối của trường học ngay từ thuở đầu đời hay không? Rõ ràng là, để trả lời
vấn đề này và những vấn đề khác được đặt ta ở đây, để kiểm tra và chau truốt
giả thuyết mà chúng tôi đưa ra, cần phải có dữ liệu về trải nghiệm trong nhà
trường của các tri thức-“thợ rèn chữ” tương lai.
Nói
chung, hầu như sẽ ít người phản đối khi nói rằng các quy tắc trong trường học
sẽ có ảnh hưởng đến niềm tin của người học sau khi họ đã ra trường. Nói cho
cùng, bên cạnh gia đình, trường học là cơ cấu xã hội quan trọng, nơi các em học
hành động, và do đó học tập là giai đoạn chuẩn bị để họ có thể hoạt động trong
xã hội rộng lớn hơn. Không có gì ngạc nhiên là những người thành công theo quy
tắc của trường học sẽ bất mãn với xã hội gắn bó với những quy tắc khác, tức là
những quy tắc không bảo đảm cho họ thành công như trong trường học. Khi chính
họ lại là những người tạo ra bức tranh của xã hội về chính mình, tạo ra đánh
giá của xã hội về chính mình, thì những người bị họ thôi miên quay ra chống lại
xã hội cũng đâu phải là điều đáng ngạc nhiên. Nếu bạn có trách nhiệm xây dựng
xã hội từ con số không, chắc là bạn sẽ thiết kế nó sao cho các “thợ rèn chữ” -
với tất cả các ảnh hưởng của họ - sẽ không bị người ta nhồi nhét vào đầu thái
độ thù địch đối với các quy phạm của xã hội.
Giải
thích của chúng tôi về sự mất cân đối của thái độ bài tư bản trong hàng ngũ trí
thức dựa trên khái quát xã hội học hoàn toàn đáng tin.
Trong
một xã hội, nơi mà ngoài gia đình, ngay từ đầu thế hệ trẻ đã tiếp cận với hệ
thống hay tổ chức phân phối phần thưởng cho những người giỏi nhất trong hệ
thống ấy sẽ có xu hướng tiếp thu các quy tắc của tổ chức này, và hi vọng rằng
xã hội rộng lớn ngoài kia cũng sẽ hoạt động theo những quy tắc đó; họ sẽ cho
rằng mình sẽ được chia phần hoặc (ít nhất) cũng có vị trí phù hợp với những quy
tắc này. Hơn nữa, những người nằm trong tầng lớp thượng lưu trong hệ thống
thang bậc của thiết chế đầu tiên mà họ gặp bên ngoài gia đình rồi sau đó, khi
ra ngoài xã hội sẽ bị (hoặc nhìn thấy trước là sẽ bị) rơi xuống những nấc thang
xã hội thấp hơn sẽ - do cảm tưởng về quyền đã bị mất – ngả sang phía phản đối
hệ thống xã hội rộng lớn bên ngoài và có thái độ thù địch với những quy tắc của
nó.
Xin
nhớ rằng đây không phải là định luật nhất thành bất biến. Không phải tất cả
những người bị mất địa vị xã hội sẽ quay sang chống lại hệ thống. Mặc dù mất
địa vị xã hội là một tác nhân có thể tạo ra hiệu ứng theo hướng đó, và vì
vậy mà trong một nhóm có đông người, hiệu quả của nó sẽ hiện rõ. Tầng lớp
thượng lưu có thể mất địa vị xã hội bằng những cách khác nhau: họ có thể nhận
được ít hơn nhóm khác hoặc (trong khi không có nhóm nào vươn lên) họ có thể vẫn
nhận như thế nhưng không được nhiều hơn những người mà trước đây bị coi là thấp
kém hơn. Mất địa vị theo kiểu thứ nhất đặc biệt làm người ta đau đớn và bất
bình, còn kiểu thứ hai thì dễ chấp nhận hơn. Nhiều trí thức (nói rằng họ) ủng
hộ quyền bình đẳng trong khi chỉ có một nhóm nhỏ coi mình là “quý tộc” mà thôi.
Như vậy là, giả thuyết của chúng tôi nói rằng việc mất địa vị xã hội theo kiểu
thứ nhất rất dễ gây ra sự oán ghét và lòng thù hận đối với xã hội.
Hệ
thống trường học chỉ phổ biến và tưởng thưởng cho một số kỹ năng liên
quan đến những thành công trong tương lai (nói cho cùng, trường học là một
thiết chế mang tính chuyên môn) cho nên hệ thống khen thưởng của nó sẽ khác với
hệ thống khen thưởng của xã hội bên ngoài. Điều này chắc chắn sẽ làm cho một số
người – khi bước ra xã hội – bị mất địa vị xã hội và phải chịu những hậu quả
kèm theo của nó. Trước đó tôi đã nói rằng các nhà trí thức muốn xã hội giống
như một trường học lớn. Giờ đây chúng ta thấy rằng thái độ bất bình là do nhà
trường (một hệ thống xã hội mang tính chuyên môn bên ngoài gia đình, lần đầu
tiên con người tiếp xúc) lại không phải là xã hội thu nhỏ.
Theo
cách giải thích của chúng tôi, dường như có thể dự đoán được rằng các nhà trí
thức được học hành có thái độ chống đối xã hội mà họ đang sống chiếm tỉ lệ cao,
dù đấy là xã hội tư bản hay cộng sản thì cũng thế. (So với các nhóm có địa vị
kinh tế-xã hội như nhau thì trong xã hội tư bản, tỉ lệ những người trí thức có
thái độ bài tư bản là cao. Câu hỏi là liệu tỉ lệ những người trí thức có thái
độ thù địch với xã hội (không phải tư bản) mà họ đang sống có cao như thế hay
không). Như vậy, rõ ràng là, chúng ta cần những dữ liệu nói về thái độ của trí
thức trong các nước cộng sản đối với bộ máy cai trị; những người trí thức này
có thái độ thù địch với hệ thống đó hay không?
Cần
phải chau truốt giả thuyết của chúng tôi để không thể áp dụng (hoặc áp dụng
được nhưng không chính xác đến mức đó) đối vợi mọi hình thức xã hội. Có chắc
chắn là hệ thống trường học trong tất cả các xã hội nhất định sẽ tạo ra những
người trí thức có thái độ chống đối xã hội khi họ không nhận được những phần
thưởng cao nhất của xã hội hay không? Có lẽ là không. Xã hội tư bản đặc biệt ở
chỗ nó tuyên bố công khai: chỉ có tài năng, sáng kiến cá
nhân, đóng góp
của cá nhân
mới được tưởng thưởng
mà thôi. Người
lớn lên trong xã hội đẳng cấp hay phong kiến cha truyền con nối không nghĩ rằng
tưởng thưởng sẽ hay phải phù hợp với giá trị của cá nhân. Xã hội tư bản chủ
nghĩa chỉ tưởng thưởng cho những người đáp ứng được ước muốn – được thể hiện
trên thương trường - của người khác, phù hợp với đóng góp của người đó vào nền
kinh tế, chứ không phải theo giá trị của cá nhân người đó. Nhưng, nó cũng khá
gần gũi với nguyên tắc tưởng thưởng theo giá trị - giá trị và đóng góp thường
liên quan mật thiết với nhau – nhằm nuôi dưỡng kì vọng do nhà trường tạo ra.
Đặc tính của xã hội rất gần với đặc tính của nhà trường cho nên sự gần gũi mới
tạo ra oán giận. Xã hội tư bản tưởng thưởng cho thành tích của cá nhân hoặc bảo
với họ rằng nó sẽ làm như vậy, vì vậy mà những người trí thức tự coi mình là
những người hoàn hảo nhất, lại là những người cảm thấy cay đắng nhất.
Tôi
cho rằng, ở đây còn một tác nhân khác nữa. Học sinh càng đa dạng thì nhà trường
sẽ càng tạo ra thái độ bài tư bản nhiều hơn. Khi hầu như tất cả những người sẽ
thành công về kinh tế trong tương lai cùng theo học các trường riêng biệt thì
người trí thức sẽ không có được thái độ của những người có ưu thế hơn. Nhưng
ngay cả khi nhiều trẻ em của tầng lớp thượng lưu học tại các trường riêng biệt
thì xã hội cởi mở vẫn sẽ có những trường học khác, trong đó nhiều em học sinh
sẽ trở thành những doanh nhân thành đạt về mặt kinh tế và sau đó các nhà trí
thức sẽ bực bội khi nhớ lại rằng họ học giỏi hơn những đồng môn mà sau này trở
thành giàu có hơn và quyền lực hơn. Sự cởi mở của xã hội còn có một hậu quả
khác nữa. Các em học sinh, không chỉ những “thợ rèn chữ” tương lai mà cả những
em khác, sẽ không biết sự nghiệp trong tương lai của mình sẽ ra sao. Họ có thể
có mọi ước mơ. Xã hội đóng, không cho người ta vươn lên, sẽ bóp chết mọi hi
vọng ngay từ trong trứng nước. Trong một xã hội tư bản cởi mở, các em học sinh
sẽ không cam chịu ngay từ đầu những giới hạn của sự thăng tiến xã hội; dường
như xã hội đã nói với họ rằng những người có năng lực nhất và có giá trị nhất
sẽ vươn lên những vị trí cao nhất, còn trường học thì gửi cho những người có
thành tích học tập tốt nhất thông điệp nói rằng họ là những người được
đánh giá cao nhất và xứng đáng được phần thưởng lớn nhất; rồi sau này, những
học sinh được khuyến khích nhất và kì vọng nhất lại thấy những đồng môn mà họ
biết và thấy là kém hơn mình lại thành đạt hơn, giành được những phần thưởng
cao nhất mà đáng lẽ mình phải được hưởng. Có cần ngạc nhiên không khi những
người này có thái độ thù địch với xã hội?
Một
vài giả thuyết khác
Như
vậy là, chúng ta đã cụ thể hóa được giả thuyết ở mức độ nào đó. Không phải mọi
hệ thống học đường mà hệ thống học đường trong bối cảnh xã hội cụ thể nào đó
mới tạo ra trong các nhà trí thức (thợ rèn chữ) não trạng bài tư bản mà thôi.
Chắc chắn là giả thuyết này cần phải được cụ thể hóa thêm nữa. Nhưng như thế
cũng đủ rồi. Đây là lúc chuyển giả thuyết này cho các nhà khoa học xã hội, đưa
nó khỏi lĩnh vực lí thuyết suông và chuyển cho những người nghiên cứu với các
sự kiện và dữ liệu cụ thể hơn. Nhưng chúng ta vẫn có thể chỉ ra một số lĩnh vực
mà giả thuyết của chúng ta có thể đưa ra những dự báo và kết quả có thể kiểm
chứng được. Trước hết, có thể tiên đoán: hệ thống trường học của đất nước càng
khuyến khích các học sinh tài năng thì càng có nhiều khả năng là giới trí thức
của họ sẽ trở thành những người ta khuynh. (Ví dụ, nước Pháp.) Thứ hai, những
người trí thức trong thời gian học ở trường mà “chín muộn” sẽ không có cùng não
trạng về quyền được hưởng những phần thưởng cao nhất, vì vậy, tỉ lệ những trí
thức “chín muộn” có thái độ bài tư bản sẽ ít hơn là những người có thành tích
cao trong học tập ngay từ những năm đầu đời. Thứ ba, chúng tôi hạn chế giả
thuyết của chúng tôi trong những xã hội (khác với xã hội đẳng cấp của Ấn Độ),
nơi người học trò có thành tích học tập tốt có thể hi vọng cũng sẽ thành công
như thế trong xã hội. Cho đến tận thời gian gần đây, trong xã hội phương Tây,
phụ nữ không có kỳ vọng nhiều như vậy, cho nên chúng ra có thể cho rằng những
học sinh nữ trong tầng lớp thượng lưu ở nhà trường nhưng sau này bị mất địa vị
xã hội sẽ không có thái độ bài tư bản như các nhà trí thức nam giới. Chúng ta
cũng có thể dự đoán rằng, xã hội càng bình đẳng hơn về cơ hội nghề nghiệp giữa
phụ nữ và nam giới thì càng có nhiều nữ trí thức tỏ thái độ thù nghịch với chủ
nghĩa tư bản như các trí thức đàn ông đang làm hiện nay.
Một
số độc giả có thể nghi ngờ cách giải thích về não trạng bài tư bản trong giới
trí thức mà chúng tôi vừa đưa ra bên trên. Dù sao mặc lòng, tôi cho rằng chúng
tôi đã định danh được một hiện tượng quan trọng. Tổng quát xã hội học mà chúng
tôi đã nêu ra bằng trực giác hóa ra là có sức thuyết phục: một cái gì tương tự
như thế chắc chắn phải xảy ra trên thực tế. Một số ảnh hưởng quan trọng nhất
định sẽ xuất hiện trong tầng lớp “học sinh thượng lưu” mà sau này bị mất địa vị
xã hội, trong nhóm người này thái độ đối kháng với xã hội nhất định sẽ xuất
hiện. Nếu đấy không phải là thái độ đối lập cao của các nhà trí thức thì là gì?
Chúng tôi bắt đầu với một hiện tượng khó hiểu, cần giải thích. Tôi cho rằng
chúng tôi đã tìm thấy, tác nhân có thể giải thích – sau khi chúng tôi đã nói
một cách rõ ràng), tác nhân này rõ ràng đến nỗi chúng ta phải tin rằng nó giải
thích được một số hiện tượng xảy ra trên thực tế.
*
Tác
phẩm Anarchy, State, and Utopia
của nhà triết học Robert Nozick,
xuất bản năm 1974, củng cố vị trí của chủ nghĩa tự do trong triết lý chính trị
được giới học giả rất coi trọng. Trong tác phẩm này, Nozick bênh vực “nhà nước
tối thiểu” - sau này được gọi là minarchism - và chỉ ra những biện pháp để nó
có thể trở thành “khuôn khổ cho những xã hội không tưởng.”
Nhưng
Nozick không chỉ quan tâm tới lý thuyết chính trị. Ông đã chú ý tới gần như tất
cả các nhánh của triết học trong những công trình có tính bao quát như Philosophical
Explanations, The Examined Life, and Invariances: The
Structure of the Objective World.
Đã
đăng trên Diễn đàn xã hội dân sự
Nguồn:
January 1, 1998
No comments:
Post a Comment