TS Đoàn Xuân Lộc
Gửi cho BBC từ London
Cập nhật: 13:42 GMT -
thứ bảy, 9 tháng 11, 2013
Năm 2009, Trung tâm Thông tin, Thư viện và Nghiên cứu
Khoa học, Văn phòng Quốc hội Việt nam đã biên soạn cuốn sách: ‘Tuyển tập Hiến
pháp của một số nước trên thế giới’.
Năm bản hiến pháp được chọn
biên dịch và giới thiệu là của Mỹ, Nga, Nhật, Pháp và Trung Quốc.
Và ba năm sau đó, Trung tâm này
lại giới thiệu Tập 2 của Tuyển tập Hiến pháp. Bốn Hiến pháp được chọn lần này
là của Ba Lan, Hàn Quốc, Ý và Tây Ban Nha.
Thử so sánh Bản dự thảo sửa đổi
Hiến pháp 1992 (hay Hiến pháp sửa đổi) vừa được trình Quốc hội xem xét và sẽ
thông qua với Hiến pháp của Mỹ, Pháp, Nhật và Hàn Quốc – bốn nước dân chủ và
phát triển – để xem có gì khác biệt.
Theo Chỉ số Dân chủ của
The Economist Intelligence Unit (Anh), năm 2012 Hàn Quốc, Mỹ và Nhật là những
nước ‘dân chủ toàn diện’, trong khi đó Pháp thuộc vào nhóm các nước ‘dân chủ
khiếm khuyết’. Còn Chỉ số Tự do của Freedom House năm 2013 đều xếp bốn
nước này vào những nước tự do. Do do, có thể nói bốn nước này là những quốc gia
dân chủ và tự do.
Về kinh tế, Mỹ, Pháp, Nhật và
Hàn quốc đều là những nước giàu, phát triển. Ba nước đầu thuộc nhóm G8 và Hàn
Quốc là thành viên của nhóm G20. Cũng nên nhắc lại rằng, sau Chiến tranh thế
giới thứ nhất, Nhật là một nước bại trận với một nền kinh tế kiệt quệ. Nam Hàn
lúc ấy cũng không phát triển gì, thậm chí được cho rằng còn thua kém miền Nam
Việt Nam trong những năm 1950.
Về Hiến pháp, ngoại trừ Mỹ có
Hiến pháp lâu đời – được soạn thảo vào năm 1787 và có hiệu lực từ năm 1789 –
Hiến pháp hiện hành của Nhật, Hàn Quốc và Pháp tương đối mới.
Hiến pháp Nhật được ban hành
năm 1946 và Hiến pháp Hàn Quốc được thông qua năm 1948.
Riêng Hiến pháp Hàn quốc, từ
năm 1948 đến giờ đã được sửa đổi đến tám lần, với lần sửa cuối cùng vào năm
1987. Còn Hiến pháp hiện tại của Pháp, thuộc nền Cộng hòa thứ năm, được thông
qua vào năm 1958.
'Thuộc về nhân dân'
Dù ra đời vào những thời điểm
khác nhau, trong những bối cảnh khác nhau và nội dung cũng có nhiều điểm khác
nhau, Hiến pháp của bốn quốc gia này đều là những Hiến pháp tiến bộ, dân chủ,
được soạn thảo (và sửa đổi) nhằm bảo đảm quyền lợi của người dân và giúp đất
nước phát triển, phồn thịnh.
Lướt qua ngôn từ, nội dung hay
mục đích của bốn bản Hiến pháp này có thể thấy rõ điều đó.
Lời nói đầu của Hiến pháp Mỹ –
một Hiến pháp nổi tiếng, được nhiều quốc gia tham khảo, tiếp thu vì rất khoa
học, tiến bộ và nhân bản – thật ngắn gọn nhưng nêu rõ năm mục đích của Hiến
pháp, trong đó có việc xây dựng một Liên bang hoàn hảo hơn, thiết lập công lý,
thúc đẩy sự thịnh vượng và giữ vững nền tự do.
Còn Lời nói đầu của Hiến pháp
Pháp nêu rõ rằng nhân dân Pháp ‘thiết tha gắn bó với các quyền con người và các
nguyên tắc chủ quyền thuộc về nhân dân như đã được quy định trong Tuyên ngôn
nhân quyền và dân quyền 1789, được khẳng định và bổ sung trong Lời nói đầu của
Hiến pháp năm 1946’.
Tương tự, trong Lời nói đầu của
mình, Hiến pháp Nhật cũng ‘khẳng định chủ quyền thuộc về nhân dân ... Chính phủ
là nơi nhân dân trao quyền lực của mình, thay mặt cho nhân dân và hoạt động vì
lợi ích của nhân dân. Đó là nguyên tắc cơ bản, là nền tảng của bản Hiến pháp
này’.
Điều 1 của Hiến pháp Hàn quốc
cũng ghi rõ ‘chủ quyền Cộng hòa Hàn Quốc thuộc về nhân dân, và tất cả các quyền
lực nhà nước phải được bắt nguồn từ nhân dân’.
Nguyên tắc ‘chủ quyền thuộc về
nhân dân’ – một nguyên tắc nền tảng của bốn Hiến pháp trên – còn được thể hiện
qua việc Lời mở đầu của bốn Hiến pháp ấy đều được bắt đầu bằng: ‘Chúng ta, nhân
dân ...’, hoặc ‘Chúng ta, những người dân ...’, hoặc ‘Chúng tôi, nhân dân ...’
hay ‘Nhân dân ...’.
Điều này cũng chứng tỏ rằng
quyền hiến định ở bốn quốc gia đó hoàn toàn thuộc về nhân dân.
Hơn nữa, không một Hiến pháp
nào trong bốn Hiến pháp ấy lấy một hệ tư tưởng, chủ nghĩa nào đó làm ‘ánh sáng’
chỉ đường hay làm tư tưởng nền tảng cho mình. Cả bốn Hiến pháp cũng không nêu
cụ thể tên một đảng phái chính trị hay một nhân vật lịch sử nào, hoặc quy định
một đảng phái, giai cấp nào đó là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Trong bốn nước này, chỉ có Nhật
là một nước có chế độ quân chủ lập hiến. Tuy vậy, Hiến pháp Nhật hiến định rõ
Nhật Hoàng chỉ ‘là biểu tượng của quốc gia và cộng đồng dân tộc’ và ‘vị trí của
Hoàng đế xuất phát từ ý chí nguyện vọng của người dân’. Hơn nữa, ‘mọi hoạt động
của Hoàng đế liên quan đến quốc gia phải tham khảo ý kiến và được Nội các thông
qua’.
Một điểm khác đáng lưu ý của
bốn Hiến pháp này là chúng được xây dựng trên nguyên tắc – hay theo mô hình – tam
quyền phân lập. Nguyên tắc phân quyền này nhằm giúp ba nhánh có thể kiểm,
giám sát lẫn nhau, tránh tình trạng một cơ quan hay cá nhân nào nắm quyền lực
tuyệt đối trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Việc bộ máy
Nhà nước được tổ chức theo mô hình này cũng là một cách để giúp các cơ quan Nhà
nước thực sự hoạt động vì lợi ích của nhân dân.
'Hiến pháp của Đảng?'
Nếu bốn Hiến pháp trên không
nêu tên một đảng phái hay một cá nhân nào, Hiến pháp sửa đổi của Việt Nam nhắc
đến Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCS), Chủ tịch Hồ Chí Minh và những ‘gian khổ’, ‘hy
sinh’, ‘thắng lợi’, ‘thành tựu’ của ĐCS và của Hồ Chí Minh ngay trong Lời nói
đầu.
Một điểm khác biệt khác nữa là
Lời nói đầu của Hiến pháp sửa đổi này lại trịnh trọng nhắc đến chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh – được coi là ‘ánh sáng’ chỉ đường hay ‘tư
tưởng nền tảng’ cho Việt Nam.
Lời nói đầu của một Hiến pháp
thường được coi là điểm cốt lõi của Hiến pháp ấy vì nó diễn tả những nguyên
tắc, bản chất, mục đích chính yếu của Hiến pháp đó. Nhận định này rất đúng với
bốn bản Hiến pháp trên và cũng đúng với Hiến pháp sửa đổi của Việt Nam.
Dù Điều 2 của Hiến pháp sửa đổi
quy định ‘Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân’, Điều 4 lại nêu rõ ‘Đảng
Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội’.
Điều 4 này còn khẳng định ĐCS
là ‘đội tiên phong ... của dân tộc Việt Nam’ và ‘đại biểu trung thành lợi ích
của ... cả dân tộc’. Đây là một điều gây nhiều tranh cãi và phản đối trong quá
trình góp ý sửa đổi Hiến pháp. Chẳng hạn, kiến nghị của Nhóm 72 nhân sỹ, trí
thức hay góp ý của Hội đồng Giám mục Việt Nam đã nêu lên những phi lý, bất cập
của quy định này.
Quy định đó được coi là nghịch lý vì chỉ với khoảng hơn ba triệu đảng
viên – lại lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và không được bầu lên
qua một cuộc bầu cử nào – ĐCS khó có thể – nếu không muốn nói là không thể –
được xem là ‘đại biểu trung thành lợi ích ... của cả dân tộc’ và ‘là lực lượng
lãnh đạo Nhà nước và xã hội’ trong một đất nước có đến 90 triệu dân, thuộc
nhiều tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau.
Những quy định tương tự như thế
đã không được ghi trong bốn Hiến pháp trên và chắc cũng không thể được đưa vào
trong bất cứ Hiến pháp của một nước dân chủ nào.
Lời nói đầu của Hiến pháp Ba
Lan có đề cập đến di sản Kitô giáo. Nhưng di sản ấy được nhắc đến vì từ bao đời
này đa số người dân Ba Lan là Công giáo. Hơn nữa, Lời nói đầu ấy cũng đề cập
đến những giá trị phổ quát phát sinh từ những nguồn gốc khác.
'Sao chép Trung Quốc'
Vì hiến định Đảng Cộng sản là
lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, toàn bộ bộ máy Nhà nước – từ Quốc hội,
Chính phủ đến Tòa án – hiển nhiên đều phải chịu sự điều khiển, lãnh đạo gián
tiếp hay trực tiếp của ĐCS. Đây cũng là một điểm khác biệt lớn nữa giữa Hiến
pháp sửa đổi của Việt Nam và Hiến pháp của các nước dân chủ.
Và cũng vì trao cho Đảng Cộng
sản quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội, lại chọn chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, phải chăng bản Hiến pháp sửa đổi này vẫn là
một văn bản hiến pháp ‘của’, ‘do’ và ‘vì’ Đảng Cộng sản Việt nam hơn là ‘của’,
‘do’ và ‘vì’ Nhân dân Việt Nam?
Còn có nhiều điểm khác biệt lớn
nữa giữa Hiến pháp Mỹ, Pháp, Nhật và Hàn Quốc và Hiến pháp sửa đổi của Việt
Nam.
Hiến pháp Việt Nam hiện hành có rất nhiều điểm tương đồng với Bản dự thảo
sửa đổi Hiến pháp của Việt Nam và Hiến pháp hiện hành của Trung Quốc, có hiệu
lực từ năm 1982.
Chẳng hạn, Lời nói đầu dài đến
bốn trang của Hiến pháp Trung Quốc cũng liệt kê vô số những hy sinh, công lao,
thắng lợi của Đảng Cộng sản Trung quốc, của Mao Trạch Đông và khẳng định Trung
Quốc ‘sẽ tiếp tục dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, với sự chỉ đạo của chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông’.
Và vì vậy, dù đã trở thành
cường quốc kinh tế thứ hai của thế giới (tính theo sản lượng quốc gia), giống
như Việt Nam, Trung Quốc vẫn bị The Economist Intelligence Unit liệt vào các
nước có chế độ độc đoán khi xếp nước này thứ 142 và Việt Nam thứ 144 trong số
167 nước vào năm 2012.
Còn theo Freedom House năm
2013, cả Việt Nam và Trung Quốc đều không có tự do.
Daniel Webster (1782-1852), một
Thượng Nghị sỹ và từng là Bộ trưởng Ngoại giao của Mỹ, đã có câu nói nổi tiếng
vào năm 1837: ‘One country, one constitution, one destiny’ (tạm dịch là ‘một
đất nước, một hiến pháp, một định mệnh’).
Câu nói ấy có thể đúng vì, như
thực tế cho thấy, phần lớn bản chất của Hiến pháp của một quốc gia sẽ quyết
định số phận của quốc gia ấy.
Nhờ có một bản
Hiến pháp tiến bộ, văn minh và khoa học nước Mỹ thành đã trở thành một
quốc gia giàu mạnh, dân chủ, tự do.
Từ một quốc gia
bại trận, Nhật đã trở thành một cường quốc kinh tế. So với Bắc Hàn, Nam
Hàn vượt trội trên tất cả mọi mặt. Có được những thành công như vậy một
phần – nếu không muốn nói là phần lớn – cũng vì hai nước này biết xây dựng
Hiến pháp của mình trên nền tảng dân chủ, tự do.
Đúng vậy, nếu có một Hiến pháp thực sự khoa học, tiến bộ và nhân bản,
chắc chắn quốc gia ấy sớm hay muộn sẽ tiến tới giàu mạnh, tự do, dân chủ.
'Có thực tham khảo?'
Khi soạn thảo Tuyển tập Hiến
pháp, Trung tâm Thông tin, Thư viện và Nghiên cứu Khoa học muốn cung cấp ‘một
tài liệu tham khảo bổ ích cho các độc giả, nhất là các đại biểu Quốc hội phục
vụ cho quá trình thực hiện các nhiệm vụ của mình’.
Đặc biệt, Tập 2 được biên soạn
chủ yếu nhằm giúp các các đại biểu Quốc hội, các nhà nghiên cứu và độc giả có
một tài liệu để tham khảo trong quá trình nghiên cứu và sửa đổi Hiến pháp 1992.
Câu hỏi đặt ra là
có bao nhiêu đại biểu Quốc hội và bao nhiều người trong Ban soạn thảo Bản sửa
đổi Hiến pháp hay trong giới lãnh đạo Việt Nam nói chung thực sự tham khảo các
Hiến pháp ấy và đặc biệt dám mạnh dạn tiếp nhận những điểm tiến bộ của chúng?
Xem ra con số đó không nhiều vì
hầu như những điểm quan trọng – chẳng hạn Điều 4 hay quy định về sở hữu đất đai
– được giới nhân sỹ, trí thức và người dân góp ý, không được đưa ra thảo luận
một cách nghiêm túc hay hoàn toàn bị bác bỏ.
Đó cũng là điều làm nhiều người
thất vọng và – khác với thời gian đầu – không còn mặn mà với việc Hiến pháp sửa
đổi được trình Quốc hội xem xét và thông qua.
Và đâu đó cũng có người cho
rằng với tình hình chính trị hiện nay không thể trông chờ vào những người cộng
sản tự nguyện xây dựng một Hiến pháp phục vụ lợi ích của toàn dân tộc, mà phải
hoàn toàn trông chờ vào người dân Việt Nam. Cũng theo ý kiến này để có một Hiến
pháp như vậy phải chờ đến lúc người dân hiểu biết quyền lợi của mình và dám
đứng lên đòi hỏi quyền lợi ấy và đó là một tiến trình rất xa.
Nếu vậy, Việt Nam
vẫn còn phải chờ. Có điều thế giới luôn thay đổi, thay đổi rất nhanh và không
ai chờ mình. Nếu giới lãnh đạo và người dân Việt Nam không nắm bắt cơ hội và
xây dựng một Hiến pháp như thế lúc này thì Việt Nam vẫn phải chờ và tiếp tục
tụt hậu.
Bài viết phản ánh quan điểm
riêng và và văn phong của tác giả, hiện là nghiên cứu viên tại Viện Chính sách
Toàn cầu ở Anh.
No comments:
Post a Comment