Lê Vũ
Quý Linh (thực hiện)
15/11/2013 02:00 GMT+7
Tuan Viet Nam - "Việt
Nam nói đến học kinh nghiệm ngoài, nhưng nếu đại học không được tự chủ và không
có tinh thần tự do học thuật thì việc mô phỏng theo các mô hình đại học khác
trên thế giới chẳng có ý nghĩa gì" - GS Nguyễn Văn Tuấn.
LTS:
Ngày 20/11 sắp đến gần cũng là lúc câu chuyện về
giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục được nhiều diễn đàn mổ xẻ. Trong cuộc
trò chuyện mới đây với Tuần Việt Nam, GS Nguyễn Văn Tuấn, ĐH New South Wales,
Úc liên tục nhắc tới cụm từ "tự do học thuật" như một tiền đề quan
trọng để nâng cao chất lượng giáo dục, đặc biệt giáo dục Đại học.
Không có
"tự do theo định hướng"
Dưới
góc nhìn của mình, ông giải thích thế nào về việc chất lượng các trường Đại học
của ta hiện nay chỉ "làng nhàng"?
- Một môi trường cởi mở với những ý tưởng mới và
năng động, có sự tương tác chính là một môi trường kích thích sáng tạo cao
nhất. Trong đó, người làm nghiên cứu hay giảng dạy được đảm bảo quyền tự do
chọn lựa và theo đuổi chủ đề của mình mà không bị can thiệp.
Đó là yếu tố mà giới khoa bảng quen gọi là tự do học
thuật.
Ngày nay, dù đây đó vẫn còn tranh cãi về phạm vi,
nhưng tự do học thuật được xem là giá trị cốt lõi của các trường Đại học tiên
tiến, là một trong những thước đo về tiến bộ của một xã hội.
Với hệ quy chiếu nói trên, thì có thể phần nào hiểu
được lý do vì sao chất lượng ở các trường ĐH ở ta nói chung vẫn còn thấp.
Chúng ta biết rằng hiện nay chỉ có khoảng 14% trong
số 61.672 giảng viên đại học có bằng tiến sĩ, và con số giáo sư/phó giáo sư
cũng chỉ chiếm khoảng 5%.
Dĩ nhiên, không phải cứ có nhiều giảng viên bằng
tiến sĩ hay có nhiều giáo sư là nghiễm nhiên có "chất lượng" cao,
nhưng xu hướng chung trên thế giới thì tỉ lệ giảng viên có học vị tiến sĩ được
xem là một trong những chỉ tiêu quan trọng về chất lượng giáo dục.
Hệ thống hành chính ở phần lớn các trường đáng lẽ
phục vụ cho giảng dạy và nghiên cứu, nhưng ở Việt Nam, nó vẫn nặng nề, bao cấp,
máy móc nên không hỗ trợ được là bao.
Vì những rào cản nói trên, nên hệ thống các trường
ĐH ở ta khó phát triển là vì các đại học vẫn chưa được tự chủ và chưa có tự do
học thuật. Đó là một điều đáng buồn và đáng suy nghĩ. Trong khi các nước trong
vùng như Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippines, Singapore, v.v... đều có
ít nhất một đại học trong danh sách đại học hàng đầu trong khu vực hay trên thế
giới.
Việt Nam thì chưa có một trường đại học nào có thể
"sánh vai" với các đại học hàng đầu trong vùng. Chúng ta có thể biện
minh rằng là do chiến tranh và cô lập, và có ít thời gian để phát triển. Nhưng
tôi e rằng những biện minh đó khó thuyết phục, bởi vì có nhiều đại học trong
vùng chỉ cần 20 hay 30 năm là đã trở thành đẳng cấp quốc tế.
Nói theo văn hào Dostoievsky, tất cả tuỳ thuộc vào
chính chúng ta. Chúng ta tự định đoạt số mệnh của mình chứ không nên đổ thừa
cho ai.
Trong
Đề án đổi mới của Bộ GD&ĐT có đề cập đến chuyện: đảm bảo tự do học thuật
nhưng phải theo đường lối XHCN. Ông suy nghĩ gì?
- Tôi nghĩ có lẽ có sự hiểu lầm hay hiểu khác về tự
do học thuật ở đây.
Theo tôi hiểu, khái niệm tự do học thuật (academic
freedom) chẳng phải là mới, vì nó đã xuất hiện từ thập niên 1950 bên Mĩ. Thời
đó, chủ nghĩa McCarthy và những người theo chủ nghĩa này gieo rắc và khủng bố
các giáo sư đại học, những người đề cập đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản. Khái niệm tự do học thuật ra đời để bảo vệ các giáo sư có quyền suy nghĩ,
lí giải, và phát biểu những vấn đề và ý tưởng mà không sợ bị trừng phạt bởi các
thế lực chính trị và đại học.
Nói cụ thể hơn, tinh thần tự do học thuật áp dụng
cho giảng viên và sinh viên. Đối với giảng viên, tự do học thuật có nghĩa là
giảng viên có quyền nghiên cứu bất cứ chủ đề nào mà họ quan tâm, có quyền trình
bày những kết quả đó cho sinh viên và đồng nghiệp mà không chịu sự đàn áp hay
kiểm duyệt của bất kỳ thế lực nào.
Đối với sinh viên, tự do học thuật có nghĩa là tự do
học các chủ đề mà họ quan tâm và có quyền đi đến kết luận, có quyền phát biểu ý
kiến cá nhân của họ liên quan đến chủ đề học. Không có kiểu tự do "theo
định hướng".
Việt Nam
không nhất thiết phải học theo ai
Có
ý kiến cho rằng, Singapore cũng có một thể chế độc đoán, nhưng họ đang thành
công với mô hình đại học của mình. Và trong chuyện xây dựng tinh thần đại học,
ta có thể học được cái hay từ cách làm của họ? Ông nghĩ sao về ý kiến này?
- Tôi nghĩ không nhất thiết VN phải học Singapore
hay mô hình đại học Singapore. Đứng về mặt tự do học thuật, các đại học
Singapore chưa thể là một mô hình để chúng ta phải học theo. Mới đây, một giáo
sư về báo chí của một đại học Singapore bị cắt hợp đồng chỉ vì bà chỉ trích tự
do báo chí ở Singapore. Ở Trung Quốc, vì thiếu tinh thần tự do học thuật, nên
các đại học danh tiếng như Stanford và Columbia không thiết lập chi nhánh ở quốc
gia này.
Theo tôi thấy, Việt Nam có thể tham khảo kinh nghiệm
thành công của những trường đại học mới thành lập và đã nhanh chóng trở thành
những đại học hàng đầu thế giới như Đại học Khoa học và Công nghệ Hồng Kông
(HKUST), Đại học Khoa học và Công nghệ Pohang (Pohang University of Science and
Technology) của Hàn Quốc, Đại học Quốc gia Singapore, Học viện Công nghệ
Monterrey (Monterrey Institute of Technology) của Mexico, v.v.
Đó là những đại học chỉ trong thời gian 20-30 năm đã
vươn lên và trở thành đại học đẳng cấp thế giới. Cái mẫu số chung của những đại
học vừa kể trên là họ tuyển dụng nhiều giáo sư tài giỏi và tuyển mộ sinh viên
có học lực tốt; họ có ngân sách dồi dào; và quan trọng là có lãnh đạo
tốt, với tầm nhìn chiến lược.
Nhưng theo tôi thấy Việt Nam sẽ rất khó học áp dụng
bài học thành công của họ, vì thể chế tổ chức trong các đại học Việt Nam còn
cứng nhắc.
Người ta tuyển lãnh đạo đại học và giáo sư đại học
qua quảng cáo khắp thế giới, nhưng ở Việt Nam thì theo cơ chế "qui
hoạch" thì rất khó thu hút được người tài.
Người tài không thích ai định hướng cho mình, và họ
đòi hỏi tự do trong suy nghĩ và ngôn luận. Do đó, Việt Nam nói đến học kinh
nghiệm ngoài, nhưng nếu đại học không được tự chủ và không có tinh thần tự do
học thuật thì việc mô phỏng theo các mô hình đại học khác trên thế giới chẳng
có ý nghĩa gì.
Tự do
học thuật phải được tôn trọng
Các
trường Đại học là nơi sản sinh và tích dồn tri thức, để làm giàu trực tiếp và
gián tiếp cho một quốc gia. Nhưng vai trò này của các trường đại học ở VN rất
mờ nhạt. Nên thay đổi từ đâu thưa ông?
- Tôi nghĩ nói cho công bằng thì các đại học Việt
Nam cũng đã có đóng góp cho nền kinh tế và khoa học Việt Nam, nhưng có lẽ gián
tiếp nhiều hơn là trực tiếp. Các đại học VN đã đào tạo những chuyên gia cho nền
kinh tế, các nhà khoa học, và đó là một đóng góp rất đáng kể.
Nhưng đóng góp trực tiếp của các đại học Việt Nam
cho nền kinh tế thì vẫn còn lu mờ. Bằng sáng chế từ các đại học Việt Nam hầu
như không đáng kể. Các giáo sư đại học cũng chưa có nhiều sáng chế gì đáng chú
ý. Các đại học Việt Nam dĩ nhiên chưa thể ở vị trí thu hút sinh viên nước ngoài
để tạo ra hàng tỉ USD cho ngân sách quốc gia như các đại học phương Tây.
Nhưng tôi nghĩ các đại học Việt Nam có thể làm tốt
hơn nữa trong việc đóng góp cho nền kinh tế. Làm như thế nào thì lại là một câu
hỏi lớn đã chiếm thời gian và tiêu hao công sức của rất nhiều người quan tâm.
Tôi nghĩ đến một chiến lược liên kết chiến lược giữa các doanh nghiệp kĩ nghệ
và đại học. Cần có những cơ chế để cho những người trong doanh nghiệp kĩ nghệ
(có nghiên cứu) tham gia vào việc đào tạo sinh viên, và họ cũng được ghi nhận
qua các chức danh học thuật.
Đối với các ngành nghiên cứu khoa học xã hội tôi
nghĩ thách thức còn lớn hơn các ngành khoa học và kĩ thuật. Có nhiều chủ đề mà
giới khoa học xã hội quan tâm nhưng có khi được xem là "tế nhị" hay
"nhạy cảm" nên đành phải gác lại. Đây cũng là một vấn đề về tự do học
thuật.
Theo
ông, nên "gỡ" nút thắt nào đầu tiên?
- Thú thật, tôi vẫn nghĩ đến tự chủ và tự do học thuật. Đại học cần phải
có quyền tự chủ trong việc quyết định bổ nhiệm giảng viên, giáo sư, quyết định
chế độ lương bổng, quyền tuyển sinh, và chủ động trong việc soạn thảo chương
trình giảng dạy.
Tự do học thuật cần phải được tôn trọng. Một khía
cạnh khác của tự do học thuật chính là tự chủ, hiểu theo nghĩa đại học có quyền
bổ nhiệm giáo sư, hoạch định chương trình giảng dạy, và theo đuổi nghiên cứu vì
lợi ích khoa học và nghệ thuật chứ không vì lợi ích của các nhóm lợi ích và
chính trị trong xã hội. Tôi nghĩ không có tự do học thuật thì khoa học xã hội
Việt Nam rất khó phát triển.
Theo
ông, làm thế nào để xây dựng được một tinh thần đại học đúng nghĩa?
- Tôi nghĩ
đến mô hình đại học dựa trên tinh thần khai sáng của Immanuel Kant và lí tưởng
liberal của Friedrich Schleiermacher. Đại học không chỉ là trung tâm đào tạo
nhân tài, mà còn là một trung tâm khoa học và văn hóa, với tự do học thuật được
xem là đặc điểm quan trọng nhất. Không có tự do học thuật, đại học khó mà hoàn
tất sứ mệnh phản biện xã hội của mình, và khó có thể đóng góp tích cực cho Nhà
nước và xã hội.
Xin cảm ơn ông
Lê
Vũ Quý Linh (thực hiện)
*
GS.TS
Nguyễn Văn Tuấn:
Giảng viên cao cấp tại ĐH New South Wales, Úc.
Trưởng nhóm nghiên cứu, Viện nghiên cứu Y khoa
Garvan, Úc.
Nghiên cứu viên cao cấp Hội đồng quốc gia về nghiên
cứu y khoa và y tế Úc (NHMRC).
1987-1997: Thạc sĩ ĐH Macquarie (Úc); Tiến sĩ thống
kê, chuyên về dịch tễ học ĐH Sydney (Úc); Tiến sĩ y khoa ĐH New South Wales
(Úc), Nghiên cứu sinh sau tiến sĩ (postdoc) tại ĐH Basle, Trung tâm nghiên cứu
lâm sàng Sandoz (Thụy Sĩ) và Bệnh viện St Thomas (Anh).
1998: Được bổ nhiệm Phó Giáo sư y khoa ĐH Wright
States (Mỹ).
2009: Được bổ nhiệm Giáo sư ĐH New South Wales (Úc).
No comments:
Post a Comment