VRNs
Đăng ngày: 10.11.2013
VRNs (10.11.2013) – New
York, USA - Ngày 07.11.2013, phái đoàn thường trực của Việt Nam tại
Liên Hiệp Quốc ra thông cáo báo chí cho biết Việt Nam đã trở thành thành viên
mới nhất của Công ước Liên Hiệp Quốc chống Tra tấn và những hình phạt hoặc sự
đối xử tàn ác, hạ nhục nhân cách (gọi tắt là UNCAT).
Công ước UNCAT được Ðại hội
đồng Liên Hiệp Quốc thông qua vào ngày 10 tháng 12 năm 1984. Tính đến nay đã có
154 quốc gia phê chuẩn.
VRNs giới thiệu nguyên văn Công ước UNCAT này.
—
CÔNG ƯỚC CHỐNG TRA TẤN VÀ CÁC HÌNH THỨC
TRỪNG PHẠT HAY ĐỐI XỬ TÀN ÁC, VÔ NHÂN ĐẠO HOẶC HẠ NHỤC – 1984
(UNCAT được Đại hội đồng Liên
Hợp Quốc thông qua ngày 10/12/1984 theo Nghị quyết 39/46. Có hiệu lực từ ngày
26/6/1987, theo Điều 27, 1)
Các Quốc gia thành viên Công ước này,
Xét rằng, theo những nguyên tắc
được tuyên bố trong Hiến chương Liên Hợp Quốc, việc công nhận các quyền bình
đẳng và không thể chuyển nhượng của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là
nền tảng của tự do, công lý và hoà bình trên thế giới,
Thừa nhận rằng, những quyền đó
xuất phát từ nhân phẩm vốn có của con người,
Xét nghĩa vụ của các quốc gia
theo Hiến chương, cụ thể theo Điều 55, là thúc đẩy sự tôn trọng và tuân thủ
chung các quyền và tự do cơ bản của con người,
Xét Điều 5 của Tuyên ngôn Toàn
thế giới về Quyền con người và Điều 7 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự
và chính trị, trong đó cả hai điều đều quy định rằng, không ai phải chịu tra
tấn hoặc đối xử hay trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm.
Cũng xét đến Tuyên bố về bảo vệ
mọi người không bị tra tấn, đối xử hay hình phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ
thấp nhân phẩm, được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 9/12/1975,
Mong muốn cuộc đấu tranh chống
tra tấn và đối xử hay trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm
được hiệu quả hơn,
Đã thoả thuận như sau:
PHẦN I
Điều 1.
1. Theo mục đích của Công ước
này, thuật ngữ “tra tấn” có nghĩa là bất kỳ hành vi nào cố ý gây đau đớn hoặc
khổ đau nghiêm trọng về thể xác hay tinh thần cho một người, vì những mục đích
như lấy thông tin hoặc lời thú tội từ người đó hay một người thứ ba, hoặc để
trừng phạt người đó vì một hành vi mà người đó hay người thứ ba thực hiện hay
bị nghi ngờ đã thực hiện, hoặc để đe doạ hay ép buộc người đó hay người thứ ba,
hoặc vì bất kỳ một lý do nào khác dựa trên sự phân biệt đối xử dưới mọi hình
thức, khi nỗi đau đớn và khổ đau đó do một công chức hay người nào khác hành
động với tư cách chính thức gây ra, hay với sự xúi giục, đồng tình hay ưng
thuận của một công chức. Khái niệm tra tấn không bao gồm những đau đớn hoặc đau
khổ xuất phát từ, gắn liền với, hoặc có liên quan đến, các biện pháp trừng phạt
hợp pháp.
2. Quy định trong điều này không làm phương hại tới bất kỳ văn kiện quốc tế hay pháp luật quốc gia nào có hay có thể có các điều khoản có mức độ áp dụng rộng rãi hơn.
2. Quy định trong điều này không làm phương hại tới bất kỳ văn kiện quốc tế hay pháp luật quốc gia nào có hay có thể có các điều khoản có mức độ áp dụng rộng rãi hơn.
Điều 2.
1. Mỗi Quốc gia thành viên phải
thực hiện các biện pháp lập pháp, hành pháp, tư pháp, hoặc các biện pháp hiệu
quả khác để ngăn chặn các hành vi tra tấn trên bất cứ khu vực lãnh thổ nào
thuộc quyền tài phán của mình.
2. Không có bất kỳ hoàn cảnh ngoại lệ nào, cho dù là trong tình trạng chiến tranh, hoặc đang bị đe doạ bởi chiến tranh, mất ổn định chính trị trong nước hoặc bất kỳ tình trạng khẩn cấp nào có thể được viện dẫn để biện minh cho việc tra tấn.
3. Mệnh lệnh của quan chức hay của cơ quan có thẩm quyền cấp trên không thể được viện dẫn để biện minh cho việc tra tấn.
2. Không có bất kỳ hoàn cảnh ngoại lệ nào, cho dù là trong tình trạng chiến tranh, hoặc đang bị đe doạ bởi chiến tranh, mất ổn định chính trị trong nước hoặc bất kỳ tình trạng khẩn cấp nào có thể được viện dẫn để biện minh cho việc tra tấn.
3. Mệnh lệnh của quan chức hay của cơ quan có thẩm quyền cấp trên không thể được viện dẫn để biện minh cho việc tra tấn.
Điều 3.
1. Không một Quốc gia thành
viên nào được trục xuất, hay trả về hoặc dẫn độ một người cho một quốc gia
khác, nơi có nhiều lý do thực tế để tin rằng người đó có nguy cơ bị tra tấn.
2. Để xác định xem có những lý do đó hay không, các nhà chức trách có thẩm quyền phải xem xét mọi yếu tố có liên quan, bao gồm sự tồn tại của một mô hình vi phạm các quyền con người một cách thô bạo, trắng trợn và phổ biến ở quốc gia liên quan, nếu có.
2. Để xác định xem có những lý do đó hay không, các nhà chức trách có thẩm quyền phải xem xét mọi yếu tố có liên quan, bao gồm sự tồn tại của một mô hình vi phạm các quyền con người một cách thô bạo, trắng trợn và phổ biến ở quốc gia liên quan, nếu có.
Điều 4.
1. Mỗi Quốc gia thành viên phải
bảo đảm rằng mọi hành vi tra tấn đều cấu thành tội phạm theo luật hình sự của
nước mình. Điều này cũng áp dụng với những hành vi cố gắng thực hiện việc tra
tấn hoặc hành vi của bất kỳ người nào đồng loã hoặc tham gia việc tra tấn.
2. Mỗi Quốc gia thành viên phải
trừng trị những tội phạm này bằng những hình phạt thích đáng tương ứng với tính
chất nghiêm trọng của chúng.
Điều 5.
1. Mỗi Quốc gia thành viên phải
tiến hành những biện pháp cần thiết để xác lập quyền tài phán đối với những
hành vi phạm tội nêu ở Điều 4, trong các trường hợp sau:
a. Khi hành vi phạm tội được
thực hiện trên bất kỳ vùng lãnh thổ nào thuộc quyền tài phán của quốc gia hay
trên tàu thủy hoặc máy bay đăng ký ở quốc gia đó.
b. Khi người bị tình nghi phạm
tội là công dân của quốc gia đó.
c. Khi nạn nhân là công dân của
quốc gia đó nếu quốc gia đó thấy thích đáng.
2. Mỗi Quốc gia thành viên cũng
phải tiến hành những biện pháp cần thiết để xác lập quyền tài phán của mình đối
với những hành vi phạm tội này trong trường hợp người bị tình nghi phạm tội
đang có mặt ở bất kỳ vùng lãnh thổ nào thuộc quyền tài phán của mình và quốc
gia đó không dẫn độ người bị tình nghi theo Điều 8 đến bất kỳ quốc gia nào nói
ở khoản 1 điều này.
3. Công ước này không loại trừ bất
kỳ quyền tài phán hình sự nào được thực thi theo pháp luật quốc gia.
Điều 6.
1. Sau khi kiểm tra thông tin
có được, nếu thấy rằng hoàn cảnh yêu cầu, bất kỳ Quốc gia thành viên nào mà
trên lãnh thổ của mình người bị nghi là đã thực hiện hành vi phạm tội nêu tại
Điều 4 đang có mặt, phải bắt giam người đó hoặc tiến hành những biện pháp pháp
lý khác để bảo đảm sự hiện diện của người đó. Việc giam giữ và các biện pháp
pháp lý khác phải tuân theo các quy định pháp luật của quốc gia đó nhưng chỉ có
thể được duy trì trong một thời gian cần thiết để tiến hành bất kỳ thủ tục tố
tụng hay dẫn độ nào.
2. Quốc gia nêu trên phải tiến
hành ngay viềc điều tra sơ bộ sự việc.
3. Bất kỳ ai bị giam giữ theo
khoản 1 điều này phải được giúp đỡ liên hệ ngay với đại diện thích hợp gần nhất
của quốc gia mà người đó là công dân, hoặc, nếu người đó là người không quốc
tịch, với đại diện của quốc gia nơi người đó thường trú.
4. Khi một quốc gia bắt giữ một
người theo quy định tại điều này, quốc gia đó phải thông báo ngay cho quốc gia
nói tại khoản 1 Điều 5 về việc người đó bị bắt giữ, và hoàn cảnh đòi hỏi phải
bắt giữ người đó. Quốc gia tiến hành điều tra sơ bộ nói ở khoản 2 điều này phải
nhanh chóng thông báo kết quả điều tra của mình cho các quốc gia nói trên và
cho biết có dự định thực thi quyền tài phán hay không.
Điều 7.
1. Quốc gia mà trên lãnh thổ
thuộc quyền tài phán của mình phát hiện người được cho là đã thực hiện hành vi
phạm tội nêu tại Điều 4, sẽ phải chuyển vụ việc lên cơ quan thẩm quyền của quốc
gia đó để truy tố, trong các trường hợp nêu tại Điều 5, nếu quốc gia đó không
dẫn độ người bị tình nghi.
2. Những cơ quan thẩm quyền này
phải quyết định tương tự như trường hợp của bất kỳ hành vi phạm tội thông
thường nào có tính chất nghiêm trọng theo pháp luật của quốc gia đó. Trong các
trường hợp nói ở khoản 2 Điều 5, tiêu chuẩn về chứng cứ cần thiết để truy tố và
kết tội phải không kém nghiêm ngặt hơn những tiêu chuẩn áp dụng cho các trường
hợp nói tại khoản 1 Điều 5.
3. Bất kỳ người nào đang là đối
tượng của quá trình tố tụng vì bất kỳ hành vi phạm tội nào nói tại Điều 4 phải
được bảo đảm đối xử công bằng trong mọi giai đoạn tố tụng.
Điều 8.
1. Những hành vi phạm tội nói
tại Điều 4 phải được coi là các tội có thể dẫn độ theo bất kỳ điều ước quốc tế
về dẫn độ nào nếu có giữa các Quốc gia thành viên. Các Quốc gia thành viên cam
kết đưa những hành vi phạm tội này vào danh mục các tội có thể dẫn độ trong các
điều ước quốc tế về dẫn độ sẽ được ký kết giữa họ với nhau.
2. Nếu một Quốc gia thành viên
chỉ cho phép dẫn độ khi có điều ước quốc tế về dẫn độ mà nhận được yêu cầu dẫn
độ của một Quốc gia thành viên khác không có điều ước quốc tế về dẫn độ với
mình thì quốc gia đó có thể coi Công ước này là cơ sở pháp lý cho việc dẫn độ
đối với những hành vi phạm tội này. Việc dẫn độ sẽ phải tuân thủ những điều
kiện khác do pháp luật của quốc gia được yêu cầu dẫn độ quy định.
3. Các Quốc gia thành viên
không đặt điều kiện dẫn độ bằng việc có điều ước quốc tế về dẫn độ phải công
nhận những hành vi phạm tội này là tội có thể dẫn độ giữa họ với nhau, theo
những điều kiện do pháp luật của quốc gia được yêu cầu dẫn độ quy định.
4. Những hành vi phạm tội này
phải được xử lý, vì mục đích dẫn độ giữa các Quốc gia thành viên, như thể chúng
được thực hiện không chỉ tại nơi xảy ra tội phạm, mà cả trên lãnh thổ của các
quốc gia được yêu cầu xác lập quyền tài phán của mình theo khoản 1 Điều 5.
Điều 9.
1. Các Quốc gia thành viên phải
hỗ trợ lẫn nhau một cách tối đa về các thủ tục tố tụng hình sự áp dụng đối với
những hành vi phạm tội nói tại Điều 4, kể cả việc cung cấp bằng chứng cần thiết
mà họ có được cho việc tiến hành tố tụng.
2. Các Quốc gia thành viên phải
thực hiện nghĩa vụ của mình theo khoản 1 điều này phù hợp với bất kỳ điều ước
quốc tế nào về tương trợ tư pháp có thể có giữa các quốc gia này.
Điều 10.
1. Mỗi Quốc gia thành viên phải
bảo đảm rằng giáo dục và tuyên truyền về nghiêm cấm hành động tra tấn được đưa
đầy đủ vào chương trình đào tạo các quan chức thực thi pháp luật, các nhân viên
dân sự, quân sự, y tế, công chức và những người khác mà có thể liên quan đến
việc giam giữ, thẩm vấn hoặc đối xử với bất kỳ cá nhân nào bị bắt, giam giữ hay
cầm tù dưới bất kỳ hình thức nào.
2. Mỗi Quốc gia thành viên phải
đưa việc nghiêm cấm này vào các quy tắc hoặc hướng dẫn được ban hành về nhiệm
vụ và chức năng của tất cả những đối tượng kể trên.
Điều 11.
Mỗi Quốc gia thành viên phải rà
soát một cách có hệ thống các quy tắc, hướng dẫn, phương pháp và thực tiễn thẩm
vấn cũng như các cơ chế giam giữ và đối xử với những người bị bắt, giam giữ,
cầm tù dưới mọi hình thức, ở bất kỳ lãnh thổ nào thuộc quyền tài phán của mình,
nhằm mục đích ngăn chặn mọi vụ việc tra tấn.
Điều 12.
Mỗi Quốc gia thành viên phải
bảo đảm rằng các cơ quan có thẩm quyền của mình sẽ tiến hành điều tra khẩn
trương và khách quan mỗi khi có cơ sở hợp lý để tin rằng việc tra tấn đã xảy ra
trên lãnh thổ thuộc quyền tài phán của mình.
Điều 13.
Mỗi Quốc gia thành viên phải
bảo đảm rằng bất kỳ cá nhân nào cho rằng họ bị tra tấn trên lãnh thổ thuộc
quyền tài phán của mình đều có quyền khiếu nại với cơ quan có thẩm quyền của
nước đó và được những cơ quan này xem xét một cách khẩn trương và khách quan.
Quốc gia đó cũng phải thực hiện các biện pháp để bảo đảm rằng người khiếu nại
và nhân chứng được bảo vệ tránh sự ngược đãi hay hăm dọa như là hậu quả của
việc khiếu nại hoặc cung cấp bằng chứng.
Điều 14.
1. Mỗi Quốc gia thành viên phải
bảo đảm trong hệ thống pháp luật của mình rằng các nạn nhân của hành động tra
tấn sẽ được cứu chữa và có quyền khả thi được bồi thường công bằng và thoả
đáng, kể cả được cung cấp những điều kiện để phục hồi một cách đầy đủ đến mức
có thể. Trường hợp nạn nhân chết do bị tra tấn, những người phụ thuộc vào người
đó có quyền hưởng bồi thường.
2. Không một quy định nào trong
điều này ảnh hưởng tới bất kỳ quyền được bồi thường nào của nạn nhân hay của
người khác có thể có theo pháp luật quốc gia.
Điều 15.
Mỗi Quốc gia thành viên phải
bảo đảm rằng bất kỳ phát ngôn nào được đưa ra như là kết quả của sự tra tấn sẽ
không được sử dụng làm bằng chứng trong bất kỳ tiến trình tố tụng nào, trừ khi
để làm bằng chứng chống lại một người bị cáo buộc là đã thực hiện hành động tra
tấn để có lời khai người đó.
Điều 16.
1. Mỗi Quốc gia thành viên cam
kết ngăn ngừa trên lãnh thổ thuộc quyền tài phán của mình những hành vi đối xử
hoặc trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo và hạ thấp nhân phẩm khác mà không giống
với tra tấn như định nghĩa ở Điều 1, khi những hành vi này do một công chức hay
người nào khác hành động với tư cách chính thức thực hiện, hoặc do xúi giục,
đồng tình hay ưng thuận. Cụ thể là những nghĩa vụ quy định tại các Điều 10, 11,
12 và 13 sẽ được áp dụng, trong đó các dẫn chiếu về hành động tra tấn sẽ được
thay thế bằng các dẫn chiếu về các hình thức đối xử và trừng phạt tàn ác, vô
nhân đạo hay hạ thấp nhân phẩm.
2. Các quy định của Công ước
này sẽ không làm phương hại tới các quy định của bất kỳ văn kiện nào khác trong
pháp luật quốc tế hay pháp luật quốc gia mà nghiêm cấm các hành động đối xử và
trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hay hạ thấp nhân phẩm, hoặc liên quan đến các
vấn đề dẫn độ hay trục xuất.
PHẦN II
Điều 17.
1. Thành lập một Ủy ban chống
tra tấn (sau đây gọi tắt là Ủy ban) có những chức năng được quy định dưới đây.
Ủy ban bao gồm 10 chuyên gia được thừa nhận là có đạo đức cao và có năng lực
trong lĩnh vực quyền con người, làm việc với tư cách cá nhân. Các chuyên gia
phải được các Quốc gia thành viên bầu, có tính tới sự phân bổ công bằng về địa
lý và lợi ích của sự tham gia của những người có kinh nghiệm pháp luật.
2. Các thành viên Ủy ban sẽ
được bầu bằng bỏ phiếu kín trên cơ sở danh sách đề cử của các Quốc gia thành
viên. Mỗi quốc gia có thể đề cử một công dân nước mình. Các Quốc gia thành viên
cần chú ý đến lợi ích của việc đề cử những người cũng là thành viên của Ủy ban
Quyền con người được thành lập theo Công ước quốc tế về các quyền dân sự và
chính trị và những người sẵn sàng làm việc trong Ủy ban chống tra tấn.
3. Việc bầu các thành viên Ủy
ban sẽ được tiến hành tại cuộc họp toàn thể các nước thành viên tổ chức hai năm
một lần do Tổng thư ký Liên Hợp Quốc triệu tập. Tại các cuộc họp này, với điều
kiện phải có sự hiện diện của ít nhất 2/3 số Quốc gia thành viên, những người
được bầu vào Ủy ban là những ứng cử viên có số phiếu cao nhất và chiếm đa số
tuyệt đối phiếu bầu của đại diện các quốc gia có mặt và bỏ phiếu.
4. Lần bầu cử đầu tiên tổ chức
không muộn hơn sáu tháng sau ngày Công ước này có hiệu lực. Ít nhất bốn tháng
trước ngày bầu cử, Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ gửi thư cho các Quốc gia thành
viên yêu cầu họ gửi danh sách đề cử trong vòng ba tháng. Tổng thư ký sẽ chuẩn
bị một danh sách những người được đề cử xếp theo thứ tự trong bảng chữ cái
Latinh, có ghi rõ quốc gia đề cử, và gửi cho các Quốc gia thành viên.
5. Các thành viên của Ủy ban
được bầu với nhiệm kỳ bốn năm. Họ có thể được bầu lại nếu được đề cử. Tuy
nhiên, nhiệm kỳ của năm thành viên trong cuộc bầu cử đầu tiên sẽ chấm dứt sau
hai năm. Ngay sau lần bầu cử đầu tiên, tên của năm thành viên này sẽ do chủ toạ
của cuộc họp nói tại khoản 3 điều này chọn bằng rút thăm.
6. Nếu một thành viên Ủy ban
chết hoặc từ chức hoặc vì bất kỳ lý do nào khác mà không thể thực hiện nhiệm vụ
của mình, Quốc gia thành viên đã đề cử người đó sẽ bổ nhiệm một chuyên gia khác
là công dân nước mình làm việc nốt thời gian còn lại của nhiệm kỳ, với điều
kiện được sự chấp thuận của đa số các Quốc gia thành viên. Sự chấp thuận được
coi là đạt được khi có hơn một nửa số quốc gia trả lời đồng ý trong vòng sáu
tuần sau khi được Tổng thư ký Liên Hợp Quốc thông báo về việc bổ nhiệm đó.
7. Các Quốc gia thành viên phải
chịu chi phí cho các thành viên Ủy ban khi họ thực hiện nhiệm vụ của Ủy ban.
Điều 18.
1. Ủy ban sẽ bầu các quan chức
của mình với nhiệm kỳ hai năm. Họ cũng có thể được bầu lại.
2. Ủy ban sẽ đặt ra các quy tắc
về thủ tục của mình, những quy tắc này, không kể những nội dung khác, sẽ bao
gồm những quy định sau:
a. Ủy ban sẽ chỉ họp khi có ít
nhất là sáu thành viên tham gia.
b. Các quyết định của Ủy ban
phải được thông qua bằng đa số phiếu của những thành viên có mặt.
3. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ
cung cấp đầy đủ nhân sự và phương tiện để Ủy ban thực hiện hiệu quả chức năng
của mình theo quy định của Công ước này.
4. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ
triệu tập cuộc họp đầu tiên của Ủy ban. Sau cuộc họp đầu tiên, Ủy ban sẽ họp
theo lịch trình quy định trong quy tắc về thủ tục của mình.
5. Các Quốc gia thành viên chịu
các phí tổn về tổ chức các cuộc họp của Quốc gia thành viên và của Ủy ban, kể
cả việc hoàn lại cho Liên Hợp Quốc các chi phí về nhân sự và phương tiện mà
Liên Hợp Quốc đã chi theo khoản 3 điều này.
Điều 19.
1. Các Quốc gia thành viên phải
trình lên Ủy ban, qua Tổng thư ký Liên Hợp Quốc, báo cáo về các biện pháp họ đã
tiến hành để thực hiện cam kết theo Công ước này trong vòng một năm sau khi
Công ước có hiệu lực với các Quốc gia thành viên đó. Sau đó, các quốc gia phải
trình báo cáo bổ sung bốn năm một lần về bất kỳ biện pháp mới nào được tiến
hành và các báo cáo khác mỗi khi Ủy ban có yêu cầu.
2. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ
chuyển các báo cáo tới tất cả các Quốc gia thành viên.
3. Mọi báo cáo sẽ được Ủy ban
xem xét, Ủy ban có thể đưa ra nhận xét về các báo cáo nếu thấy phù hợp và gửi
các nhận xét đó cho Quốc gia thành viên liên quan. Quốc gia thành viên đó có
thể gửi ý kiến trả lời của mình cho Ủy ban.
4. Ủy ban có thể tuỳ ý quyết
định đưa nhận xét của mình theo khoản 3 điều này, cùng với những ý kiến nhận
được sau đó từ Quốc gia thành viên liên quan, vào báo cáo thường niên của mình
theo quy định tại Điều 24. Nếu Quốc gia thành viên liên quan yêu cầu, Ủy ban
cũng có thể đưa bản sao của báo cáo được đệ trình theo khoản 1 điều này vào báo
cáo thường niên của Ủy ban.
Điều 20.
1. Nếu Ủy ban nhận được thông
tin đáng tin cậy chứa đựng những dấu hiệu có cơ sở là việc tra tấn đang được
tiến hành một cách có hệ thống trên lãnh thổ của một Quốc gia thành viên, Ủy
ban sẽ mời Quốc gia thành viên đó hợp tác trong việc kiểm tra thông tin và vì
mục đích này, đưa ra ý kiến về những thông tin liên quan đó.
2. Xem xét mọi ý kiến mà Quốc
gia thành viên liên quan có thể đưa ra, cũng như bất kỳ thông tin liên quan nào
khác có được, Ủy ban có thể, nếu thấy cần thiết, cử một hay nhiều ủy viên tiến
hành một cuộc điều tra kín và khẩn trương báo cáo kết quả với Ủy ban.
3. Khi tiến hành một cuộc điều
tra theo khoản 2 điều này, Ủy ban phải tìm kiếm sự hợp tác của Quốc gia thành
viên liên quan. Theo thoả thuận với Quốc gia thành viên liên quan, cuộc điều
tra có thể bao gồm một chuyến thăm viếng lãnh thổ của quốc gia đó.
4. Sau khi xem xét kết quả điều
tra do một hay nhiều thành viên của mình đưa ra theo khoản 2 điều này, Ủy ban
sẽ chuyển kết quả điều tra này cho Quốc gia thành viên cùng những nhận xét hay
khuyến nghị mà Ủy ban cho là thích hợp về vụ việc.
5. Mọi trình tự hoạt động của
Ủy ban đề cập tại các khoản từ 1 đến 4 của điều này sẽ được giữ kín, và tại mọi
giai đoạn, Ủy ban phải tìm kiếm sự hợp tác của Quốc gia thành viên liên quan.
Sau khi những trình tự liên quan tới một cuộc điều tra theo khoản 2 điều này
kết thúc, Ủy ban có thể, sau khi tham khảo ý kiến của Quốc gia thành viên liên
quan, quyết định đưa vào báo cáo thường niên của mình theo Điều 24 bản tóm lược
kết quả quá trình điều tra.
Điều 21.
1. Quốc gia thành viên Công ước
này có thể, vào bất cứ lúc nào, tuyên bố theo điều này rằng quốc gia đã công
nhận quyền của Ủy ban được tiếp nhận và xem xét các thông cáo theo đó một Quốc
gia thành viên khiếu nại một Quốc gia thành viên khác không thực hiện đầy đủ
các nghĩa vụ theo Công ước này. Chỉ những thông cáo do một Quốc gia thành viên
đã tuyên bố công nhận quyền hạn của Ủy ban về việc này trình lên mới được tiếp
nhận và xem xét. Ủy ban sẽ không xem xét bất kỳ thông cáo nào theo điều này nếu
nó liên quan đến một Quốc gia thành viên chưa có tuyên bố như vậy. Các thông
cáo được tiếp nhận theo điều này sẽ được giải quyết theo trình tự như sau:
a. Nếu một Quốc gia thành viên
cho rằng một Quốc gia thành viên khác không thực hiện các quy định của Công ước
này thì có thể gửi một thông cáo bằng văn bản, lưu ý quốc gia kia về vấn đề đó.
Trong vòng 3 tháng sau khi nhận được thông cáo, quốc gia nhận được thông cáo
phải đưa ra lời giải thích hoặc bất kỳ hình thức tuyên bố nào khác bằng văn bản
cho quốc gia gửi thông cáo để làm sáng tỏ vấn đề, trong đó cần đề cập đến,
trong chừng mực có thể và thích hợp, những thủ tục trong nước cùng những biện
pháp khắc phục đã, đang hoặc sẵn sàng tiến hành để giải quyết vấn đề.
b. Nếu vấn đề không được giải
quyết một cách thỏa đáng với cả hai Quốc gia thành viên liên quan trong vòng
sáu tháng sau khi nhận được thông cáo đầu tiên, một trong hai quốc gia đó có
quyền đưa vấn đề này ra Ủy ban bằng cách gửi thông báo cho Ủy ban và cho quốc
gia kia;
c. Ủy ban chỉ xem xét vấn đề
theo điều này sau khi đã chắc chắn rằng mọi biện pháp khắc phục trong nước đều
đã được áp dụng triệt để, phù hợp với những nguyên tắc được thừa nhận chung của
luật pháp quốc tế. Quy định này không áp dụng trong trường hợp việc tiến hành
những biện pháp khắc phục bị kéo dài một cách vô lý hoặc không có khả năng đem
lại sự cứu giúp hiệu quả cho nạn nhân của việc vi phạm Công ước này;
d. Ủy ban sẽ họp kín khi xem
xét những thông cáo theo điều này;
e. Với các quy định tại mục
(c), Ủy ban sẽ giúp đỡ các Quốc gia thành viên liên quan giải quyết vấn đề một
cách thân thiện trên cơ sở tôn trọng các nghĩa vụ theo Công ước này. Vì mục
tiêu đó, Ủy ban có thể, nếu thích hợp, thành lập một Ủy ban hoà giải lâm thời;
f. Khi xem xét bất kỳ vấn đề
nào được chuyển đến, Ủy ban có thể yêu cầu các Quốc gia thành viên liên quan
nêu tại mục (b) cung cấp bất kỳ thông tin liên quan nào;
g. Các Quốc gia thành viên liên
quan nêu tại mục (b) sẽ có quyền có mặt khi vấn đề được đem ra xem xét tại Ủy
ban và trình bày quan điểm bằng miệng và/hoặc bằng văn bản;
h. Trong vòng 12 tháng kể từ
ngày nhận được thông báo theo mục (b), Ủy ban sẽ đệ trình một báo cáo:
i. Nếu đạt được một giải pháp
theo quy định tại mục (e), Ủy ban sẽ giới hạn báo cáo trong một tuyên bố vắn
tắt về sự việc và giải pháp đã đạt được;
ii. Nếu không đạt được một giải
pháp theo quy định tại mục (e), Ủy ban sẽ giới hạn báo cáo trong một tuyên bố
vắn tắt về sự việc; các ý kiến bằng văn bản và biên bản ghi những lời phát biểu
do các Quốc gia thành viên liên quan đưa ra sẽ được đính kèm báo cáo. Trong mọi
trường hợp, báo cáo sẽ được gửi cho các Quốc gia thành viên liên quan.
2. Quy định của điều này sẽ có
hiệu lực khi có năm Quốc gia thành viên Công ước ra tuyên bố theo khoản 1 điều
này. Những tuyên bố đó sẽ được các Quốc gia thành viên nộp lưu chiểu cho Tổng
thư ký Liên Hợp Quốc, và Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ gửi các bản sao cho các
Quốc gia thành viên khác. Tuyên bố có thể được rút lại bất kỳ lúc nào bằng việc
thông báo cho Tổng thư ký. Việc rút lại tuyên bố như vậy sẽ không cản trở việc
xem xét bất kỳ vấn đề nào nêu trong thông cáo đã được chuyển cho Ủy ban theo
điều này; không một thông cáo nào của bất kỳ Quốc gia thành viên nào được tiếp
nhận theo điều này sau khi Tổng thư ký đã nhận được thông báo rút lại tuyên bố
nói trên, trừ khi Quốc gia thành viên liên quan đưa ra tuyên bố mới.
Điều 22.
1. Các Quốc gia thành viên Công
ước này có thể vào bất cứ lúc nào tuyên bố theo điều này rằng quốc gia đó công
nhận thẩm quyền của Ủy ban được tiếp nhận và xem xét thông cáo từ các cá nhân
hay từ đại diện của các cá nhân thuộc quyền tài phán của quốc gia đã khiếu nại
rằng họ là nạn nhân của sự vi phạm các điều khoản của Công ước thực hiện bởi
Quốc gia thành viên đó. Ủy ban sẽ không nhận những thông cáo liên quan tới một
Quốc gia thành viên không ra một tuyên bố như vậy.
2. Ủy ban sẽ không chấp nhận
theo điều này bất kỳ thông cáo nặc danh nào, hoặc những thông cáo bị coi là lạm
dụng quyền đệ trình những thông cáo như thế, hoặc không phù hợp với những quy
định của Công ước.
3. Phù hợp với các quy định tại
khoản 2 điều này, Ủy ban sẽ lưu ý các Quốc gia thành viên Công ước đã có tuyên
bố theo khoản 1 và bị cho là vi phạm quy định của Công ước về bất kỳ thông cáo
nào mà Ủy ban nhận được theo điều này. Trong vòng sáu tháng, quốc gia nhận được
thông cáo phải gửi văn bản giải thích cho Ủy ban để làm sáng tỏ vấn đề và nêu
ra những giải pháp pháp lý, nếu có, mà quốc gia đã thực hiện để giải quyết vấn
đề.
4. Ủy ban sẽ xem xét những
thông cáo nhận được theo điều này dựa vào mọi thông tin có được từ các cá nhân
hay đại diện của họ và từ Quốc gia thành viên liên quan.
5. Ủy ban sẽ không xem xét bất
kỳ thông cáo nào của cá nhân theo điều này trừ khi tin chắc rằng:
a. Vấn đề đó chưa được xem xét,
và không thuộc vào các vấn đề đang được xem xét, theo các thủ tục điều tra hoặc
giải quyết quốc tế khác.
b. Cá nhân gửi thông cáo đã vận
dụng hết những biện pháp pháp lý sẵn có ở quốc gia; quy định này sẽ không áp
dụng với trường hợp việc tiến hành các giải pháp quốc gia bị kéo dài một cách
vô lý, hoặc không có khả năng đem lại sự cứu giúp hiệu quả cho nạn nhân của
việc vi phạm Công ước này.
6. Ủy ban sẽ họp kín khi xem
xét thông cáo theo điều này.
7. Ủy ban sẽ gửi ý kiến của
mình tới Quốc gia thành viên và cá nhân có liên quan.
8. Các quy định của điều này sẽ
chỉ có hiệu lực khi có ít nhất năm Quốc gia thành viên Công ước ra tuyên bố
theo khoản 1 điều này. Những quốc gia ra những tuyên bố như vậy sẽ nộp lưu
chiểu với Tổng thư ký Liên Hợp Quốc, Tổng thư ký sẽ chuyển các bản sao cho các
Quốc gia thành viên khác. Tuyên bố có thể được rút lại bất kỳ lúc nào bằng cách
gửi văn bản thông báo cho Tổng thư ký. Việc rút lại tuyên bố sẽ không làm
phương hại đến việc xem xét nội dung của những thông cáo đã được gửi tới Ủy ban
theo điều này; sẽ không một thông cáo nào của cá nhân hay đại diện cho họ khiếu
nại về một quốc gia thành viên được tiếp nhận theo điều này sau khi Tổng thư ký
đã nhận được thông báo rút lại tuyên bố như nêu trên của Quốc gia thành viên có
liên quan, trừ khi Quốc gia thành viên đã đưa ra một tuyên bố mới.
Điều 23.
Các ủy viên của Ủy ban và của
các Ủy ban hoà giải lâm thời được bổ nhiệm theo Điều 21, khoản 1 (e), sẽ có
quyền hưởng các điều kiện thuận lợi, các ưu đãi và miễn trừ dành cho những
chuyên gia đang thực thi nhiệm vụ của Liên Hợp Quốc, như quy định tại các mục
liên quan trong Công ước về Đặc quyền, ưu đãi và miễn trừ của Liên Hợp Quốc.
Điều 24.
Ủy ban sẽ trình báo thường niên
về hoạt động của mình theo Công ước này cho các Quốc gia thành viên và cho Đại
hội đồng Liên Hợp Quốc.
PHẦN III
Điều 25.
1. Công ước này để ngỏ cho tất
cả các quốc gia ký.
2. Công ước này phải được phê
chuẩn. Văn kiện phê chuẩn sẽ được nộp lưu chiểu cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.
Điều 26.
Công ước này để ngỏ cho tất cả
các quốc gia gia nhập. Việc gia nhập được thực hiện bằng cách nộp lưu chiểu văn
kiện gia nhập cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.
Điều 27.
1. Công ước này có hiệu lực vào
ngày thứ 30 sau ngày văn kiện phê chuẩn hoặc gia nhập thứ 20 được nộp lưu chiểu
cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.
2. Đối với các quốc gia phê chuẩn hay gia nhập Công ước này sau khi Công ước đã có hiệu lực, Công ước sẽ có hiệu lực với quốc gia đó sau 30 ngày kể từ khi văn kiện phê chuẩn hoặc gia nhập của quốc gia đó được lưu chiểu.
2. Đối với các quốc gia phê chuẩn hay gia nhập Công ước này sau khi Công ước đã có hiệu lực, Công ước sẽ có hiệu lực với quốc gia đó sau 30 ngày kể từ khi văn kiện phê chuẩn hoặc gia nhập của quốc gia đó được lưu chiểu.
Điều 28.
1. Mỗi Quốc gia thành viên có
thể, tại thời điểm ký, phê chuẩn hoặc gia nhập Công ước này, tuyên bố quốc gia
đó không công nhận thẩm quyền của Ủy ban nói ở Điều 20.
2. Bất kỳ Quốc gia thành viên
nào đã đưa ra bảo lưu theo khoản 1 điều này, vào bất cứ lúc nào, đều có thể rút
bảo lưu bằng cách thông báo với Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.
Điều 29.
1. Bất kỳ Quốc gia thành viên
nào của Công ước này cũng có thể đề xuất bổ sung hay sửa đổi Công ước với Tổng
thư ký Liên Hợp Quốc. Tổng thư ký sẽ thông báo về đề xuất đó cho các Quốc gia
thành viên, yêu cầu họ cho ý kiến xem có ủng hộ việc triệu tập một hội nghị các
Quốc gia thành viên để xem xét và bỏ phiếu về đề xuất đó không. Trong vòng bốn
tháng kể từ ngày Tổng thư ký gửi thông báo cho các Quốc gia thành viên, nếu ít
nhất một phần ba số Quốc gia thành viên ủng hộ việc triệu tập hội nghị, thì
Tổng thư ký sẽ triệu tập một hội nghị dưới sự bảo trợ của Liên Hợp Quốc. Bất kỳ
sự sửa đổi nào được đa số Quốc gia thành viên có mặt và bỏ phiếu thông qua tại
hội nghị sẽ được Tổng thư ký gửi cho tất cả các Quốc gia thành viên để chấp
thuận.
2. Mọi sửa đổi được thông qua
theo khoản 1 điều này sẽ có hiệu lực khi được 2/3 Quốc gia thành viên Công ước
này thông báo với Tổng thư ký Liên Hợp Quốc rằng họ chấp thuận sửa đổi đó theo
trình tự pháp luật tương ứng của họ.
3. Khi sửa đổi có hiệu lực, nó
sẽ ràng buộc các Quốc gia thành viên đã chấp thuận sửa đổi đó, các Quốc gia
thành viên khác vẫn bị ràng buộc bởi các quy định của Công ước này và bất kỳ
sửa đổi nào mà họ đã chấp thuận trước đây.
Điều 30.
1. Mọi tranh chấp giữa hai hay
nhiều Quốc gia thành viên liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước
này mà không thể giải quyết bằng thương lượng sẽ được đưa ra trọng tài theo yêu
cầu của một trong số các Quốc gia thành viên đó. Nếu trong vòng 6 tháng kể từ
ngày yêu cầu đưa ra trọng tài mà các bên vẫn không thể thoả thuận được về tổ
chức trọng tài, thì bất kỳ bên nào cũng có thể đề nghị đưa tranh chấp ra Toà án
Công lý quốc tế, phù hợp với quy chế của Toà.
2. Mỗi quốc gia có thể, vào lúc
ký, phê chuẩn hoặc gia nhập Công ước này, tuyên bố rằng quốc gia đó không bị
ràng buộc bởi khoản 1 điều này. Các Quốc gia thành viên khác sẽ không bị ràng
buộc bởi khoản 1 điều này đối với các Quốc gia thành viên có tuyên bố như vậy.
3. Quốc gia thành viên đã đưa
ra bảo lưu theo khoản 2 điều này có thể tuyên bố vào bất cứ lúc nào việc rút
bảo lưu đó bằng cách thông báo cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.
Điều 31.
1. Quốc gia thành viên có thể
rút khỏi Công ước này bằng cách gửi thông báo bằng văn bản cho Tổng thư ký Liên
Hợp Quốc. Việc bãi ước sẽ có hiệu lực sau một năm kể từ ngày Tổng thư ký Liên
Hợp Quốc nhận được thông báo.
2. Việc bãi ước như vậy không
miễn cho Quốc gia thành viên liên quan các nghĩa vụ theo Công ước này đối với
bất kỳ hành động hoặc không hành động nào xảy ra trước ngày bãi ước có hiệu
lực, cũng như không ảnh hưởng tới việc tiếp tục xem xét những vấn đề đang được
Ủy ban xem xét trước ngày bãi ước có hiệu lực.
3. Từ ngày tuyên bố bãi ước của
một Quốc gia thành viên có hiệu lực, Ủy ban sẽ ngừng xem xét bất kỳ một thông
cáo mới nào liên quan tới quốc gia ấy.
Điều 32.
Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ
thông báo cho tất cả các Quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc và tất cả các quốc
gia đã ký hoặc gia nhập Công ước này những vấn đề sau:
1. Việc ký, phê chuẩn và gia
nhập theo Điều 25 và 26.
2. Ngày Công ước có hiệu lực theo
Điều 27 và ngày những sửa đổi có hiệu lực theo Điều 29.
3. Việc bãi ước theo Điều 31.
Điều 31.
1. Công ước này được làm bằng
tiếng Ả-rập, tiếng Trung Quốc, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga và tiếng Tây
Ban Nha, các văn bản đều có giá trị như nhau và sẽ được nộp lưu chiểu cho Tổng
thư ký Liên Hợp Quốc.
2. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ
chuyển các bản sao có chứng thực của công ước tới tất cả các quốc gia.
No comments:
Post a Comment