Được đăng ngày Chủ nhật, 03
Tháng 11 2013 22:38
…các sử gia cần làm nhiều hơn,
không chỉ là tìm kiếm các nguồn tài liệu mới về Diệm. Họ cũng phải cân nhắc
những cách diễn giải mới về cuộc đời, chính sách và tư tưởng của ông. Chỉ như
thế chúng ta mới có thể có những giải thích thuyết phục hơn về những thành công
và thất bại của Diệm.
*
Mọi cố gắng tìm hiểu lịch sử
Việt Nam Cộng Hòa đều cần bắt đầu với Ngô Đình Diệm, nhà sáng lập và là tổng
thống đầu tiên của Việt Nam Cộng Hòa.
Ông cũng phủ bóng lên những
tranh luận về nguồn gốc cuộc chiến Việt Nam, bắt đầu từ cuộc nổi loạn chống lại
chính thể Diệm. Đa số sử gia xem vụ lật đổ và ám sát Diệm tháng 11.1963 là sự
kiện cột mốc giúp mở đường cho sự leo thang và "Mỹ hóa" cuộc xung đột
giai đoạn 1964-65.
Dù quan trọng về lịch sử như
thế, nhân vật này vẫn được ít người hiểu đúng. Cho tới gần đây, hầu hết sách
học thuật về ông Diệm chủ yếu dựa vào nghiên cứu các văn bản chính phủ Mỹ và
các nguồn khác của Mỹ. Vài năm qua, một số học giả bắt đầu dùng nguồn tư liệu
Việt Nam (gồm cả hồ sơ Việt Nam Cộng Hòa được lưu ở Việt Nam). Chúng đã đem lại một số góc
nhìn mới có giá trị về quyết định và chính sách của Diệm giai đoạn 1954-1963.
Nhưng cuộc đời và sự nghiệp
trước 1954 của ông Diệm vẫn ít được khảo sát ; các học giả vẫn còn tìm cách xác
định những kinh nghiệm và tư tưởng đã định hình suy nghĩ của ông. Nói cách
khác, chúng ta đã biết nhiều về những gì Diệm làm, nhưng vẫn vất vả để hiểu ông
ta là ai.
Ba biếm họa
Do các học giả thiếu một cách
hiểu đậm tính lịch sử về Diệm và động cơ của ông, nên diễn giải của họ về nhà
lãnh đạo thường rất giản đơn, thậm chí trở thành châm biết. Ba bức biếm họa trở
nên nổi trội trong giới nhà báo, sử gia và nhiều cây bút viết về Diệm từ thập
niên 1960.
Một số tác giả mô tả Diệm như
bù nhìn Mỹ, được giới chức Mỹ dựng lên để phục vụ mục tiêu địa chính trị của
Washington. Những người khác lại nói Diệm không phải là sản phẩm của chính sách
ngoại giao Mỹ, mà là của "truyền thống" Việt Nam. Theo quan điểm này,
Diệm là kẻ phản động lạc hậu không hề quan tâm chuyện hiện đại hóa ; những tư
tưởng trị quốc của y bắt rễ từ những lề thói của thời kỳ trước thuộc địa.
Cách diễn giải thứ ba, tỏ lòng
sùng kính hơn hai thái độ trên, mô tả Diệm như một anh hùng hiểu đúng nhu cầu
và khao khát của người dân miền Nam. Cách nhìn này khẳng định sự sụp đổ của
Diệm năm 1963 không phải vì khiếm khuyết của ông mà vì hành động ngu ngốc của
các đồng minh Mỹ, những kẻ đã phản bội ngay khi nhà lãnh đạo sắp sửa chiến
thắng kẻ thù.
Thoạt nhìn qua, mỗi cách nhìn
kể trên đều có vẻ khả tín. Nhưng khi xem xét kỹ, rõ là tất cả chúng chỉ bóp méo
hơn là tiết lộ bản chất nhân vật.
Cụm từ "Mỹ-Diệm",
được sử dụng bởi người cộng sản, diễn tả cô đọng nhất quan điểm rằng Diệm chỉ
là con rối của Mỹ. Nhưng không chỉ người Cộng sản mới xem Diệm là sản phẩm của
chính sách Mỹ. Khi Diệm còn sống, nhiều người Việt và Mỹ cho rằng ông này buộc
phải đi theo chỉ thị của Washington để bảo đảm tiếp tục được hưởng viện trợ
kinh tế và quân sự.
Dĩ nhiên, sau khi Diệm bị lật
trong cuộc đảo chính có Mỹ bảo trợ, luận điệu Mỹ-Diệm bớt thuyết phục. Nếu Diệm
chỉ là con rối của Mỹ, tại sao Washington khuyến khích nhóm tướng lĩnh hạ bệ
ông ta ? Dù vậy, một số tác giả vẫn khẳng định luận điệu này ít nhất cũng có
một phần đúng. Những người viết này lập luận ngay cả nếu Diệm không phải là bù
nhìn sau 1954, ông ta nhờ Washington nên mới nắm được chính quyền. Theo đó,
Diệm giống như một quái vật Frankenstein của Mỹ - các lãnh đạo Mỹ bí mật sắp
xếp để ông chiếm quyền ở Sài Gòn với hy vọng ông sẽ tuân lời, nhưng rồi nhận ra
muộn màng rằng họ không thể kiểm soát ông ta.
Cho dù vẫn còn được một số giới
ưa chuộng, lý thuyết bù nhìn này không đứng vững. Các tài liệu giải mật của Mỹ
chứng tỏ Diệm rất chống đối lời khuyên của Mỹ, và ngay từ đầu đã thường bất
tuân lời Washington. Ví dụ, trong cuộc "khủng hoảng giáo phái"
1954-55, sứ quán Mỹ ở Sài Gòn thúc giục Diệm thỏa hiệp với chỉ huy các lực
lượng vũ trang đe dọa lật đổ ông. Không nghe lời Mỹ, Diệm buộc xảy ra nổ súng
và rồi đánh bại các đối thủ - và như thế, ông càng tin là phải nghe chính mình.
Sự miễn cưỡng làm theo chỉ thị của Mỹ càng thêm sâu sắc vì ông biết mình có
được chức thủ tướng miền Nam là do nỗ lực riêng, chứ chẳng phải nhờ vào mưu
toan của Mỹ. Chưa ai tìm được bằng chứng là giới chức Mỹ đã ép cựu hoàng Bảo
Đại chọn Diệm làm thủ tướng mùa xuân 1954. Bằng chứng ta có được cho thấy quyết
định của Bảo Đại chủ yếu là do sự vận động và quyền mưu của Diệm.
Vị quan cổ lỗ ?
Tương tự, luận điệu nói Diệm là
sản phẩm của "truyền thống", hay ông là người "phản hiện
đại", cũng không thuyết phục hơn. Đúng là Diệm thường xuyên và thành kính
nói về lịch sử và văn hóa truyền thống Việt Nam.
Tuy nhiên, Diệm nhấn mạnh ông
không xem quá khứ Việt Nam là nền tảng cho tương lai đất nước. Ông tuyên bố :
"Chúng ta sẽ không quay lại phiên bản vô ích của quá khứ quan lại, mà sẽ
áp dụng những gì tốt nhất của di sản vào tình hình hiện đại".
Toàn bộ hoạt động xây dựng quốc
gia của Diệm trong thời gian nắm quyền - bao gồm ban bố hiến pháp 1956, thành
lập Quốc hội, các chương trình Khu trù mật và Ấp chiến lược - nhằm để cổ vũ sự
hiện đại hóa đời sống chính trị, xã hội, kinh tế của miền Nam.
Chắc chắn Diệm rất nghi ngờ cả
tư tưởng tự do lẫn Marxist về biến đổi xã hội, và đúng là ông là nhà bảo thủ.
Nhưng lại không chính xác khi mô tả ông là kẻ phản động, với nghị trình duy
nhất là phục hồi lề thói chính trị và xã hội của những thế kỷ trước.
Hiền nhân ?
Trong ba diễn giải, có lẽ ít
thuyết phục nhất là luận điệu mô tả Diệm như một hiền nhân được sự ủng hộ rộng
rãi của người dân nông thôn miền Nam. Những người cổ vũ quan điểm này đã đúng
khi nói Diệm rất quan tâm cuộc sống của người nông dân, và rằng ông thực lòng
muốn cải thiện đời sống của họ. Nhưng chỉ việc Diệm quan tâm những vấn đề như
thế không đủ giải thích vì sao ông theo đuổi những sách lược nhất định, và nó
cũng không chứng tỏ được gì về thành công hay thất bại của những sách lược đó.
Trên thực tế, nỗ lực biến cải
đời sống nông thôn của Diệm không thành công như ông và các ủng hộ viên đã nói.
Điều này hiện rõ qua lịch sử của chương trình Dinh điền (tái định cư) giữa thập
niên 1950. Theo chương trình này, dân cư nông thôn được đưa vào các khu định cư
của chính phủ ở miền tây đồng bằng Sông Cửu Long và vùng Cao Nguyên.
Khi cho nông dân nghèo có đất ở
những khu vực thưa dân này, Diệm tin rằng ông đang cải thiện đời sống, và cũng
dạy cho dân giá trị của sự tự lập và chăm chỉ. Nhưng đời sống ở các khu định cư
lại chật vật, nhiều khu đặt ở các vùng hẻo lánh, đất cằn cỗi, không đủ nước.
Chương trình cũng chịu họa vì các viên chức địa phương tham ô và tàn nhẫn. Kết
quả, nó thất bại trong cố gắng thu phục niềm tin vào chính phủ và giảm bớt hỗ
trợ cho đối phương Cộng sản. Những khiếm khuyết của chương trình Dinh điền (và
sau này là Khu Trù mật và Ấp chiến lược) đã bị lợi dụng không chỉ bởi phe cộng
sản mà cả bởi nhóm Phật giáo những người tổ chức biểu tình lan rộng chống chính
phủ năm 1963.
Kết luận
Các học giả cần phân tích Ngô
Đình Diệm trong bối cảnh lịch sử mà ông sống. Nguồn gốc tư tưởng và chính sách
của Diệm không thể tìm thấy ở Washington, trong quá khứ Việt Nam hay thậm chí
trong sự thông cảm với nông dân.
Niềm tin và tham vọng của Diệm
được gọt dũa trong thời gian và hoàn cảnh khi ông trưởng thành - những thập
niên cuối cùng của chế độ thực dân Pháp ở Đông Dương. Giai đoạn giữa hai cuộc
Thế chiến là thời gian khơi men chính trị và tri thức ở Việt Nam. Những chủ đề
như giải phóng dân tộc, cải cách văn hóa, hiện đại được tranh luận sôi nổi chưa
từng thấy, và nhiều người Việt bắt đầu tìm kiếm những hình thức hoạt động chính
trị mới. Diệm chịu ảnh hưởng sâu sắc từ những đổi thay đó, nhưng các học giả
chưa hiểu rõ sự biến đổi trong tư tưởng của ông giai đoạn này.
Ít nhất có ba luồng tư tưởng
dường như đã ảnh hưởng Diệm về xã hội và chính trị giai đoạn 1920 và 1930.
Đầu tiên là sự trỗi dậy của một
hình thức chủ nghĩa dân tộc mới của Thiên Chúa giáo ở Việt Nam. Chủ nghĩa dân
tộc Công giáo được gắn với gia đình Diệm và đặc biệt với anh trai, Hồng y Ngô
Đình Thục. Diệm cũng gần gũi với Nguyễn Hữu Bài, một nhân vật Công giáo mà nổi
tiếng đã khuyên Diệm treo ấn từ quan năm 1933 để phản đối chính sách của Pháp.
Luồng tư tưởng thứ hai ảnh
hưởng Diệm thời gian này là Khổng giáo. Hiểu biết của Diệm về Khổng giáo được
định hình nhờ tình bạn với Phan Bội Châu, người trải qua những năm cuối đời ở
Huế. Thời gian này, cụ Phan viết nhiều tác phẩm, cho rằng giáo huấn của Khổng
giáo có thể áp dụng cho xã hội Việt Nam hiện đại - cũng là quan điểm mà sau nay
Ngô Tổng thống cổ vũ.
Cuối cùng và quan trọng nhất,
trong những năm này Diệm lần đầu tiên tiếp xúc khái niệm "chủ nghĩa Nhân
vị", một học thuyết mượn từ triết lý Thiên Chúa giáo Pháp. Ngô Đình Nhu
hướng dẫn ông đến với lý thuyết ấy, và đây cũng là người sau này thuyết phục
anh trai đưa học thuyết thành hệ tư tưởng chính thức của chính phủ Diệm.
Giới học giả vẫn còn phải khám
phá nhiều điều về Diệm, và những năm tới chắc chắn sẽ đem lại những tiết lộ
mới. Tuy nhiên, các sử gia cần làm nhiều hơn, không chỉ là tìm kiếm các nguồn
tài liệu mới về Diệm. Họ cũng phải cân nhắc những cách diễn giải mới về cuộc
đời, chính sách và tư tưởng của ông. Chỉ như thế chúng ta mới có thể có những
giải thích thuyết phục hơn về những thành công và thất bại của Diệm.
Khi đã bỏ qua những mô tả biến
dạng xưa cũ, chúng ta mới có thể hiểu được nhân vật phức tạp này, một người
đóng vai trò trung tâm trong lịch sử hiện đại Việt Nam và trong cuộc chiến Việt
Nam.
Edward Miller, viết cho BBCVietnamese.com từ Dartmouth College
Về tác giả : Ông Edward Miller lấy bằng tiến sĩ ở Đại học
Harvard năm 2004 với nghiên cứu về nhân vật Ngô Đình Diệm. Ông đã sống, làm
việc ở Đài Loan, Singapore và Việt Nam.
No comments:
Post a Comment