Wednesday 6 November 2013

ALEXANDRE DE RHODES 15/3/1591 - 5/11/1660 (Tương Tri)





Đúng ngày 5 tháng 11 năm 2013, bên cạnh một tấm bia mộ, nếu có, với hàng chữ như thế này:

Alexandre de Rhodes
15-3-1591
 Avignon, France
5-11-1660
 Isfahan, Persia

nếu còn đọc được, ở trong một khu nghĩa địa cổ, nếu còn hiện diện, ở cái xứ Iran, sẽ không có một vòng hoa, một bó hoa, hay ngay cả một bông hoa nhỏ nào hết dành cho người nằm dưới mộ.

Ông là Elexandre de Rhodes, sinh ngày 15 tháng 3 năm 1591 tại Avignon, nước Pháp, gia nhập dòng Tên tại Roma, được chỉ định truyền giáo tại Ma Cao rồi sang Việt Nam truyền đạo hơn 20 năm, học tiếng Việt rồi đi khắp nơi từ Nam ra Bắc, từ Đàng Trong tới Đàng Ngoài giảng đạo. 6 lần bị trục xuất và cả 6 lần ông đều tìm cách trở về, để rồi bị mang bản án tử hình rồi bị trục xuất ra khỏi Việt Nam vĩnh viễn.

Hơn 20 năm ở Việt Nam, ông không để lại một công trình gì lớn cho giáo hội, ngoài một cuốn từ điển để đời, cho cái xứ sở không muốn ông hiện diện, không chấp nhận và ngay cả muốn lấy đi mạng sống của ông.

Cuốn Từ Điển Việt Bồ La dựa trên các ký tự tiếng Việt của những giáo sĩ người Bồ Đào Nha và Ý trước đó.

Cũng vì cuốn từ điển này mà cách viết của một dân tộc luôn luôn tự hào với “bốn ngàn năm văn hiến” phải đổi thay.

Cũng vì cuốn từ điển này mà ông bị đội thêm trên đầu cái mũ tiếp tay cho thực dân xâm lược.

Cũng vì cuốn tự điển này mà ông được trao tặng bằng sáng chế.

Alexandre de Rhodes có phải là người “sáng chế” ra chữ quốc ngữ? Ông không phải là người “sáng chế” ra chữ quốc ngữ. Ông chỉ là người “tổng hợp” và có “tham vọng” làm cho chữ quốc ngữ phát triển rộng hơn ra ngoài cái mục đích ban đầu của những người sáng chế ra là những nhà truyền giáo Bồ Đào Nha chỉ để dành dạy tiếng Việt cho các nhà truyền giáo mới đến Việt Nam. Sáu lần ông bị  trục xuất, sáu lần ông đều kiếm mọi cách để trở về, và lần cuối cùng bắt buộc phải ra đi, sau khi cái bản án tử hình treo trên cổ, ông vẫn tìm mọi cách trở lại Việt Nam mà không thành, là đủ thấy cái “ý đồ” và “tham vọng” của ông đối với chữ quốc ngữ như thế nào.

Không có công trình “tổng hợp” lại những công trình của những vị khác của ông thì người Pháp không thể lợi dụng để thay thế chữ Tàu và chữ Nôm. Ý đồ “xấu xa” “thâm độc” của thực dân Pháp vô hình trung lại làm lợi cho người Việt, có một thứ chữ viết vừa dễ học và vừa dễ viết.

Những nhà truyền giáo Bồ Đào Nha chỉ sáng tạo ra chữ quốc ngữ. Alexandre de Rhodes chỉ tổng hợp và viết ra cuốn từ điển. Còn ai mới là người làm cho chữ quốc ngữ phát triển rộng rãi và trở thành một thứ chữ viết chính thức cho Việt Nam ngày nay? Oái oăm thay lại chính là thực dân Pháp với công trình “tổng hợp” của Alexandre de Rhodes.

Không có thực dân Pháp và không có công trình “tổng hợp” của Alexandre de Rhodes, Việt Nam tới thế kỷ 21 này vẫn còn phải sử dụng thứ chữ viết của người Tàu, dù có viết bằng chữ Nôm cho “đậm đà bản sắc dân tộc”, chữ viết không hoàn toàn Tàu 100% nhưng vẫn cứ là chữ Tàu.

Không có thực dân Pháp và Alexandre de Rhodes, không có chữ quốc ngữ, Việt Nam giờ đã là anh em thắm thiết tình hữu nghị keo sơn mặn nồng với người anh cả phương Bắc Trung Hoa. Dù có nói thứ tiếng khác nhau nhưng sẽ cùng viết thứ chữ như nhau. Dù có nói tiếng Quan Thoại, tiếng Quảng Đông, tiếng Tiều, tiếng Ngô, tiếng Mân, tiếng Việt thì cũng cùng viết một thứ chữ như nhau là chữ HÁN.

Và biết đâu chừng giờ này đâu có cái cảnh biểu tình phản đối đuổi “TÀU KHỰA VỀ NƯỚC”


-------------------------------------------------


Khuất Đẩu

Hơn 300 năm trước, bằng 24 chữ cái và 5 dấu các giáo sĩ dòng Tên và cha Đắc Lộ đã cơ bản ghi lại trên giấy thứ tiếng “hót như chim” của người Việt.

Đó là cánh cửa thần kỳ mở ra cho cả Đàng Trong và Đàng Ngoài cơ hội tiếp cận với văn minh Âu châu.
Tiếc thay cánh cửa ấy đã bị đóng sập.

Phải chi các chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và chúa Nguyễn ở Đàng Trong có được một phần mười cái tầm nhìn của Minh Trị thiên hoàng thì nước Việt Nam ta ngày hôm nay không cần phải đổ bao nhiêu xương máu mới giành được độc lập và dĩ nhiên không cần phải có một Điện Biên Phủ mới khiến cả thế giới kính phục.

Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du đã không phải viết bằng thứ chữ nôm khó đọc khó viết, nửa vay mượn của chữ Hán, nửa thêm thắt tùy tiện một cách rối rắm, thứ chữ mà giá như không có chữ quốc ngữ thì dù có ra sức đến đâu chắc chắn hãy còn một nửa nước mù chữ.

Một nước Nhật văn minh như thế, một nước Trung Hoa đang nuôi mộng bá quyền, vẫn đang loay hoay khốn khổ tìm cách La Tinh hóa thì ở ta, một đứa trẻ lớp một chỉ phải mất 3 tháng là có thể đọc thông viết thạo.

Sao mà dễ như lấy một viên kẹo trong túi.

Nhưng 300 năm trước, các giáo sĩ dòng Tên và cha Đắc Lộ không dễ như thế đâu. Trước hết họ phải học “thứ tiếng khó học khó nói như chim hót ấy”. Khó là vì những âm tiết lên bổng xuống trầm mà chỉ cần thay đổi một cái dấu trong 5 dấu là thành ra tiếng khác, chữ khác.

Chẳng những thông minh mà còn phải rất kiên trì nhẫn nại các giáo sĩ Bồ, Ý và cha Đắc Lộ mới có thể phát âm đúng, để từ đó tìm ra các ký tự. Nhận thấy các nguyên âm của la tinh không đủ, họ đặt thêm ă, â, ơ, ư. Rồi họ sử dụng các dấu huyền, sắc, nặng, hỏi, ngã một cách tài tình để phân biệt các âm tiết trầm bổng.

Đồng ý, cha Đắc Lộ không phải là người phát kiến ra chữ quốc ngữ, nhưng ông là người có công tổng hợp, hệ thống hóa và sắp đặt để lần đầu tiên trên thế giới, in cuốn từ điển Việt-Bồ-La.

“Alexandre de Rhodes đã soạn cuốn từ điển khi nào? Không nghi ngờ gì nữa, trong những lần ông đến Việt Nam. Nhưng khoảng thời gian bảy năm ông ở xứ này luôn bị ngắt quãng bởi những lần đến rồi đi, từ giã rồi trở lại. Nếu lưu ý thêm rằng ông còn bị thúc bách bởi nhiệm vụ tổ chức truyền đạo và ông thường xuyên phải sống ở trong trạng thái bí mật hoặc nửa bí mật, một hoàn cảnh rất bất lợi cho công việc nghiên cứu ngữ nghĩa học, chúng ta có thể giả định, như Mục sư Bordreuil, rằng có lẽ ông đã làm cuốn từ điển trong thời gian khá dài tại Ma Cao, từ 1630 đến 1640: “Mặc dù ông không nói rõ trong các tác phẩm của mình, chúng tôi tin rằng Cha de Rhodes đã tận dụng khoảng mười năm yên ổn về tâm trí, nếu không phải để viết, thì ít nhất cũng là để đặt nền tảng cho hai cuốn sách quan trọng đối với Ki tô hữu An Nam và các nhà truyền giáo, chúng tôi muốn nói đến cuốn giáo lý và cuốn từ điển của ông. ” (Bordreuil, tr. 79) Mặt khác, thời gian ở Roma cho phép ông thực hiện thành công việc thu xếp tài chính để xuất bản tác phẩm của mình.

Cha Lèopold Cadière, người rất am hiểu vấn đề, nhấn mạnh vốn hiêu biết tiếng An Nam sâu sắc của ông: “Mọi điều liên quan đến tiếng An Nam, phương ngữ Bắc Bộ và phương ngữ Nam Kỳ đều không phải là bí mật đối với ông… Ông còn cho chúng ta biết về thực trạng của tiếng An Nam cổ, những phong tục, tập quán ngày nay không còn và những thông tin mà chúng ta không thể tìm thấy ở bất cứ nơi nào khác… Thêm nữa, về nghĩa của các từ, cuốn sách là một sự đảm bảo tuyệt đối, những khái niệm ngữ pháp ông thêm vào cuốn từ điển cho thấy ông hiểu biết sâu sắc về cấu trúc đôi khi rất phức tạp và tinh tế của cú pháp An Nam” (Cadière, 1915, tr. 238-39)

Cuốn “Linguae Annamiticae seu Tunchinensis Brevis Declaratio”, phần tóm tắt ngữ pháp tiếng An Nam gồm 31 trang ở cuối, “đưa ra một tổng quan vắn tắt về sự vận hành của tiếng An Nam. Ông dành 6 trong số 8 chương để bàn đến vấn đề từ loại trong tiếng Việt.” (Bref aperçu sur l’histoire de l’étude des parties du discours vietnamien, tr. 143).

Các chương này là:
- Chữ và âm tiết trong tiếng An Nam (Chương 1)
- Dấu thanh và các dấu của các nguyên âm (Chương 2)
- Danh từ, tính từ và phó từ (chương 3)
- Đại từ (Chương 4)
- Các đại từ khác (chương 5)
- Động từ (Chương 6)
- Các thành tố bất biến trong tiếng Việt (Chương 7)
- Một số thành tố của cú pháp (Chương 8)” *

Có thể nói đây là khởi đầu cho ngữ pháp Việt Nam.

Đành rằng ông kiên nhẫn tìm cách la tinh hóa tiếng Việt là để truyền đạo, nhưng bảo rằng ông chẳng có công trạng gì với dân tộc Việt Nam là vô ơn. Còn cho rằng ông có tội vì tìm đường cho thực dân xâm chiếm nước ta lại càng hồ đồ hơn nữa ( Bùi Kha, công và tội của Đắc Lộ).

Khi các giáo sĩ dòng Tên và cha Đắc Lộ làm một công việc mà theo tôi, như Christop Colombo tìm ra châu Mỹ, các vị ấy chẳng bao giờ nghĩ rằng hậu thế sẽ ghi nhớ công ơn mình.

Nhưng biết ơn là bổn phận của mỗi chúng ta và các thế hệ mai sau. Cư xử bằng cách đem bia tưởng niệm làm bàn ăn và biến nơi đặt bia thành nơi đặt tượng tuyên truyền là hành động không xứng đáng đối với một dân tộc tự cho là có bốn ngàn năm văn hiến.

Là người có đôi chút dính líu với chữ viết, tôi thực sự cảm thấy xấu hổ.

KHUẤT ĐẨU
Tùy bút

*Alexandre de Rhodes có phát minh ra chữ quốc ngữ, Alain Guillemin, bản dịch của Ngô Tự Lập


--------------------------------------------------






No comments:

Post a Comment

View My Stats