Nguồn: James Lee Ray (1998). “Does
Democracy Cause Peace?” Annual Review of Political Science, No.1, pp.
27-46.
Biên dịch: Trần Tường Vy | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
Posted on 17/09/2013
Tóm tắt
Quan điểm cho rằng các quốc gia
theo chế độ dân chủ đã và sẽ không có xu hướng gây chiến với nhau là một quan
điểm đi ngược lại với những tư tưởng truyền thống của chủ nghĩa hiện thực và
tân hiện thực – những tư tưởng có sức ảnh hưởng mạnh mẽ trong lĩnh vực chính
trị quốc tế. Từ giữa thập niên 1970, sự xuất hiện của các dữ liệu mới
cùng với sự phát triển của kỹ thuật phân tích, và sự phát triển mạnh mẽ về mặt
lý thuyết đã hỗ trợ cho các chuyên gia đánh giá đưa ra nhiều bằng chứng thực
nghiệm ấn tượng để bảo vệ cho mệnh đề hòa bình nhờ dân chủ ở trên. Một số ý
kiến chỉ trích lại cho rằng hoà bình giữa các quốc gia theo chế độ dân chủ là
kết quả của việc các quốc gia này cùng chia sẻ với nhau những lợi ích chung từ
thời Chiến tranh Lạnh. Tuy nhiên, lập luận này lại gặp phải nhiều nghi ngờ từ
các bằng chứng thống kê và các lập luận dựa trên trực giác khác. Bên cạnh đó,
cũng có lập luận cho rằng quá trình quá độ sang dân chủ là thời điểm các quốc
gia có xu hướng gây chiến với các quốc gia khác. Lập luận này cũng bị cho là
không mang tính thuyết phục cao. Các bằng chứng thực nghiệm khác nhau cùng với
nền tảng lý thuyết đang phát triển càng làm người ta tin tưởng hơn vào tính xác
thực của thuyết hòa bình nhờ dân chủ.
Mở đầu
Lập luận cho rằng các quốc gia
dân chủ không gây chiến với nhau là một trong những lập luận có sức ảnh
hưởng mạnh mẽ nhất trong phân ngành chính trị quốc tế xuất hiện vào những năm
gần đây. Tuy nhiên, phải khẳng định rằng bản chất của vấn đề này thật sự
không phải là mới. Bài viết này trước tiên sẽ trình bày ngắn gọn về nguồn gốc
lịch sử của ý tưởng dân chủ là một lý do quan trọng đem lại hoà bình và đánh
giá các bằng chứng bảo vệ ý tưởng này, trong đó có việc thảo luận những lý
thuyết mang tính nền tảng cho lập luận trên. Trọng tâm của bài viết tập trung
vào ý kiến cho rằng các quốc gia dân chủ sẽ có mối quan hệ hoà bình với nhau,
chứ không thảo luận ý kiến liên quan nhưng hoàn toàn khác biệt cho rằng các
quốc gia dân chủ có xu hướng ít gây chiến, hoặc cho rằng càng có nhiều quốc gia
dân chủ trong hệ thống quốc tế, thì càng ít đi các cuộc chiến tranh trong
hệ thống. Các bằng chứng từ những công trình nghiên cứu của Morgan &
Schewbach (1992), Bueno de Mesquita & Lalman (1992), Rummel (1995, 1997),
Siverson (1995), Benoit (1996), Rousseau et al (1996), Huth (1996), và
Gleditsch & Hegre (1997) và những chuyên gia khác, cho thấy có một sự nghi
ngờ về tính đúng đắn của những nhận định hoặc đánh giá phổ biến cho rằng các
quốc gia dân chủ nhìn chung cũng có xu hướng gây chiến hoặc xung đột như những
quốc gia không theo chế độ dân chủ [mặc dù có thể là không có xung đột với
những quốc gia có cùng chế độ dân chủ] (tham khảo Ray 1998). Các thảo luận lý
thuyết cũng như những diễn giải về mối quan hệ giữa tỉ lệ các quốc gia dân chủ
trong hệ thống so với số lượng các cuộc chiến tranh nổ ra trong hệ thống (Maoz
& Abdolali 1989, Maoz 1996, McLaughlin 1996, Gleditsch & Hegre 1997,
Senese 1997) đã không chú ý tới hoặc làm rối thêm các vấn đề liên quan đến việc
đưa ra kết luận từ nhiều cấp độ phân tích khác nhau (tham khảo Ray 1997b).
Nguồn gốc lịch sử của lập luận
Nguồn cổ điển thường được trích
dẫn của lập luận cho rằng dân chủ là một lực lượng quan trọng đem lại hoà bình
là bài luận năm 1795 của Immanuel Kant có tựa đề “Nền hoà bình vĩnh cửu”
(Perpetual Peace). Tuy nhiên, Kant thật sự không phải là một người hâm mộ thể
chế dân chủ. Kant cho rằng, một nền hoà bình vĩnh cửu sẽ trở thành hiện thực
khi mà các quốc gia có các hiến pháp dân sự thành lập nên các nền cộng hòa.
Theo Doyle (1983a, tr. 226), Kant cho rằng thể chế cộng hoà là một thể chế tôn
trọng tài sản của tư nhân và cho phép mỗi cá nhân có quyền như nhau trước luật
pháp “dựa trên một nền tảng là chính quyền đại diện đi cùng với sự phân chia
quyền lực.”
Đương nhiên còn có các ảnh
hưởng gần đây hơn tác động đến lập luận này, trong đó có tư tưởng của Woodrow
Wilson. “Tổng thống Wilson đã trở thành một trong những nhân vật lãnh đạo có
sức ảnh hưởng mạnh mẽ nhất tới thế giới sau Thế chiến thứ nhất. Các tư tưởng
của ông có một ảnh hưởng to lớn đến chủ nghĩa không tưởng trong nghiên cứu quan
hệ quốc tế” (Knutsen 1994, tr. 196-97).
Mặc dù ngành học này vào những
năm 1920 chịu ảnh hưởng lớn từ các lý tưởng và tư tưởng của những nhà nghiên
cứu theo thuyết của Wilson, nhưng những tư tưởng này cũng bắt đầu lụi tàn vào
những năm 1930 và chính thức bị bỏ quên sau Thế chiến thứ hai. Một sự đồng
thuận thường được lặp lại cho rằng thời điểm này cũng là lúc hệ tư tưởng “hiện
thực” và “tân hiện thực”nổi dậy trở thành những tư tưởng áp đảo trong lĩnh vực
quan hệ quốc tế.
Tuy nhiên, sự đồng thuận này
lại không được chấp nhận tuyệt đối. Một trong những nhân vật theo chủ nghĩa
hiện thực được biết đến nhiều nhất và có sức ảnh hưởng sâu sắc nhất trong lĩnh
vực này, Henry Kissinger, đã có một cách nhìn mở rộng hơn về mức độ ảnh hưởng
của “Chủ nghĩa Wilson” trong tư tưởng và cách nhìn của Hoa Kỳ về chính trị quốc
tế. Theo như tài liệu xuất bản gần đây của Kissinger về đề tài ngoại giao, thì:
Woodrow Wilson là hiện thân của
truyền thống chủ nghĩa biệt lệ tại Mỹ, và là người khởi xướng cho điều sẽ trở
thành một trường phái tư tưởng chính sách đối ngoại Mỹ nhiều ảnh hưởng… Ý tưởng
cho rằng sự tồn tại của hoà bình phụ thuộc hơn gì hết vào công cuộc khuyến
khích sự phát triển của các thể chế dân chủ vẫn là một trụ cột trong tư duy của
người Mỹ cho đến ngày hôm nay. Nhận thức truyền thống của Hoa Kỳ vẫn duy trì
quan điểm cho rằng các quốc gia theo chế độ dân chủ sẽ không gây chiến với
nhau. (Kissinger, 1994, tr.33, 44)
Tuy ý kiến của Kissinger rất
quan trọng, nhưng một điều thường được khẳng định nhiều hơn là chủ nghĩa hiện
thực và tân hiện thực đã giữ vị thế áp đảo trong các tư tưởng lý thuyết của
ngành học ở Bắc Mỹ. Tuy nhiên, lịch trình nghiên cứu chịu ảnh hưởng từ lập luận
hoà bình nhờ dân chủ và các lý thuyết “tự do mới” đã đưa ra những lập luận có
thể được xem như là một thách thức đáng kể đối với vị thế áp đảo của chủ nghĩa
hiện thực và tân hiện thực (Kegley 1995).
Nguồn gốc đương đại của lập luận hòa bình nhờ dân chủ
Ngay cả khi chủ nghĩa hiện thực
chiếm hữu một vị thế đáng kể trong thời kì Chiến tranh Lạnh, quan điểm cho rằng
chế độ nhà nước có một tác động quan trọng đối với chính sách ngoại giao
và chính trị quốc tế đã nhận được nhiều sự quan tâm. Tuy nhiên, thật đáng
tiếc khi một công trình nghiên cứu rốt cuộc chứng tỏ là có giá trị của Babst
(1972) lại không được chú ý bởi phần lớn các chuyên gia chính trị quốc tế vào
thời điểm đó. Babst (1972, tr. 55) đã sử dụng những dữ liệu từ Wright (1942) và
định nghĩa về dân chủ một cách khá hợp lý, rõ ràng để đưa ra một kết luận rằng:
“không có một cuộc chiến nào xảy ra giữa các quốc gia độc lập có chính quyền
dân cử trong khoảng thời gian từ 1789 đến 1941.”
Công trình nghiên cứu này được
xuất bản trong tạp chí Industrial Research [Nghiên cứu Công nghiệp], có
lẽ vì thế mà nó đã không được nhiều chuyên gia nghiên cứu lĩnh vực chính trị
quốc tế biết đến. Tuy nhiên, một chuyên gia đã trích dẫn nội dung công trình
này, đó là R.J. Rummel, trong tập sách thứ tư nằm trong bộ sách 5 tập của ông
có tựa đề Thấu hiểu Xung đột và Chiến tranh (Understanding Conflict
and War) (1975-1981). Ba tập đầu tiên trong bộ sách nghiên cứu này xây dựng
và phát triển nền tảng lý thuyết cho 54 luận điểm, mà trong đó có 33 luận điểm
tập trung vào nguyên nhân và điều kiện dẫn đến xung đột. Luận điểm thứ 11 trong
số 33 luận điểm về xung đột cho rằng “Những hệ thống ủng hộ tự do cá nhân gạt
bỏ việc sử dụng bạo lực với nhau” (Rummel 1979, tr. 279).
Tuy Rummel là người trích dẫn
kết quả từ công trình nghiên cứu của Babst để sử dụng trong những thảo luận của
ông về lập luận hoà bình nhờ dân chủ, nhưng công trình của Babst có lẽ sẽ chỉ
có một số ít người biết đến nếu như nó đã không được Small & Singer (1976)
trích dẫn. Mục tiêu của Small & Singer là cố gắng phủ định luận điểm của
Babst cho rằng các quốc gia dân chủ có một mối quan hệ hoà bình với nhau. Có
điều những lập luận của Small và Singer lại có một số hạn chế. Điểm yếu quan
trọng nhất trong lập luận của họ là đã không thể đưa ra một so sánh giữa tỉ lệ
gây chiến của các quốc gia theo chế độ dân chủ so với các quốc gia theo chế độ
độc tài. Các phân tích dữ liệu của họ chỉ tập trung vào câu hỏi các cuộc chiến
có sự tham gia của quốc gia dân chủ trong lịch sử có sự khác biệt đáng kể về mức
độ bạo lực cũng như độ dài so với các cuộc chiến tranh liên quan đến các quốc
gia độc tài ra sao. “Khi phân tích thời gian được chọn để nghiên cứu, ngay cả
khi các quốc gia dân chủ ít có khả năng tham gia các cuộc chiến hơn tới 99% so
với các quốc gia độc tài và các quốc gia dân chủ ít có khả năng gây chiến với
nhau tới 100%, thì các cuộc chiến mà họ tham gia lại có mức độ bạo lực cũng như
độ dài ngang bằng với các cuộc chiến chỉ có sự tham gia của các quốc gia theo
chế độ chuyên quyền” (Ray, 1995, tr. 12-13).
Tuy vậy, công trình của Small
& Singer thật sự có ích khi gây được sự chú ý cho lập luận hoà bình nhờ dân
chủ vào hai thập niên sau. Nó làm sáng tỏ hơn lập luận của Babst về bản chất
hoà bình trong quan hệ giữa các quốc gia dân chủ. Quan trọng hơn, nó phân
biệt hai mối quan hệ: (1) Ở cấp độ quốc gia: giữa loại hình chế độ Nhà nước và
khả năng gây chiến và (2) Mối quan hệ theo từng cặp quốc gia liên quan đến loại
hình chế độ và xung đột.
Sự phân biệt hai mối quan hệ
trên thật sự quan trọng, bởi vì ý tưởng ở cấp độ quốc gia cho rằng dân chủ có
tác động hoà bình đã được biết đến từ lâu nhưng lại bị các nhà phân tích phủ
nhận. Ngay cả 55 năm trước đây, Wright (1942) đã quan sát thấy rằng: “ Các chỉ
số thống kê khó có thể được đưa vào sử dụng để chứng tỏ rằng các quốc gia dân
chủ ít khi tham chiến hơn so với các nước chuyên quyền… có lẽ thật sự xu hướng
mong muốn có hoà bình và gây chiến của các quốc gia dân chủ cũng ngang bằng với
các quốc gia chuyên quyền – các xu hướng này gần như vô hiệu hóa lẫn nhau và
khiến cho xác suất tham chiến của các quốc gia theo một trong hai chế độ trên
trở nên ngang bằng nhau.” Giai đoạn những năm 1980 và 1990 chứng kiến một nỗ
lực nhằm làm sống lại ý tưởng rằng các quốc gia dân chủ có xu hướng hoà bình
hơn nhưng đã vấp phải rất nhiều phản ứng hoài nghi. Tuy nhiên, trong suốt
quá trình đấy, sự tập trung vào mối quan hệ giữa các quốc gia dân chủ [có lẽ
bắt nguồn từ việc Small & Singer (1976) phân biệt giữa mối quan hệ cấp độ
quốc gia và mối quan hệ theo cặp quốc gia] đã thật sự tạo ra sự khác biệt so
với ý tưởng ban đầu và nhờ thế, nhận được nhiều phản ứng tích cực hơn.
Một nguồn quan trọng khác dẫn
đến mối quan tâm đối với lập luận hòa bình nhờ dân chủ chính là hai bài viết
của Doyle (1983a, b). Trong đó Doyle đã nhấn mạnh nền tảng tư tưởng của Kant
của lập luận hoà bình nhờ dân chủ và đã chỉ rõ điều này trong dạng thức cặp
quan hệ giữa các quốc gia. “Chưa thấy có trường hợp những quốc gia tự do được
bảo vệ bằng hiến pháp nào từng tham chiến với nhau” (Doyle 1983a, p. 213). Hai
bài viết này thực sự có một tác động sâu sắc. Những nội dung cơ bản của chúng
sau đó được xuất bản ở những tập san có nhiều người đọc hơn (như Doyle 1986),
qua đó nhận được nhiều sự chú ý của các chuyên gia, những người trước đây chưa
biết đến các công trình nghiên cứu của Rummel, Babst, hoặc Singer & Small.
Thêm vào đó, Doyle, cũng như Rummel, đã thực hiện một phân tích dữ liệu mang
tính hệ thống về tính xác thực của lập luận hoà bình nhờ dân chủ. Cả hai
đều phân tích các dữ liệu đáng tin cậy về các cuộc chiến tranh giữa các quốc
gia (dữ liệu lấy từ dự án Correlates of War do Đại học Michigan thực
hiện; tham khảo Singer & Small 1972, Small & Singer 1982) và thực hiện
một cách hệ thống việc phân loại các quốc gia tham chiến theo chế độ nhà nước.
(Doyle còn tỉ mẫn thực hiện việc phân loại quốc gia theo thể chế chính trị).
Chính nhờ điều này mà Doyle có thể lặp lại một cách thuyết phục hơn kết
luận của Babst (1972), một kết luận vốn được Small & Singer (1976) công
nhận một cách miễn cưỡng và được Rummel (1975-81) lặp lại trong các công trình
nghiên cứu của mình, rằng chưa từng có cuộc chiến tranh nào xảy ra giữa hai
quốc gia theo chế độ dân chủ.
Việc chưa từng xảy ra chiến
tranh giữa các quốc gia dân chủ có lẽ là bằng chứng quan trọng và thuyết phục
nhất về mặt tâm lý cho lập luận hoà bình nhờ dân chủ, và là lý do chủ yếu giải
thích cho sự phổ biến của nó hiện nay. Việc các quốc gia dân chủ chưa
từng gây chiến với nhau dường như là nền tảng của phát biểu thường được trích
dẫn của Levy (1988, tr. 662) cho rằng lập luận hoà bình nhờ dân chủ là ‘mệnh đề
gần nhất với một quy luật thực nghiệm mà chúng ta có trong lĩnh vực quan hệ
quốc tế,” cũng như một nhận định bao quát của Gleditsch (1992, tr.372) rằng mối
tương quan “hoàn hảo” giữa chế độ dân chủ và tình trạng không có chiến tranh
giữa các cặp quốc gia (dân chủ) có nghĩa là “Tất cả các nghiên cứu hành vi về
điều kiện dẫn tới chiến tranh và hoà bình trong thế giới hiện đại giờ đây có
thể phải bị vứt vào sọt rác của lịch sử, và các nhà nghiên cứu có thể phải bắt
đầu lại từ đầu với một nền tảng mới.”
Những câu tuyên bố tương tự
cũng như sự chú ý hiện tại mà lập luận hoà bình nhờ dân chủ có được cho thấy
cần đưa ra một thảo luận ngắn gọn ở đây về tính xác thực của lập luận cho rằng,
gần như là một quy luật, các quốc gia dân chủ không gây chiến với nhau.
Tuy nhiên, một danh sách dài các trường hợp ngoại lệ đã được bàn đến (Ray 1993,
1995), ví dụ như cuộc chiến tranh năm 1812 giữa Hoa Kỳ và Anh Quốc, Nội chiến
Hoa Kỳ, Chiến tranh Boer, Chiến tranh Tây Ban Nha – Hoa Kỳ, Chiến tranh thế
giới lần thứ nhất, và những cuộc “chiến tranh” giữa Phần Lan và các đồng minh
dân chủ của Liên Xô xảy ra trong thời kì Chiến tranh thế giới lần thứ hai.
Để giải quyết được những tranh cãi đối với các trường hợp ngoại lệ ở trên
đòi hỏi cần có một phương án giải thích được ít nhất ba vấn đề lý thuyết cơ
bản.
Vấn đề đầu tiên là định nghĩa
thế nào là “chiến tranh liên quốc gia.” Ngoài trừ định nghĩa của Babst
(1972), đa phần các nỗ lực giải quyết vấn đề này đều dựa trên định nghĩa
do dự án Correlates of War đưa ra trước đây. Theo đó, chỉ các cuộc xung
đột vũ trang xảy ra giữa các quốc gia độc lập dẫn đến ít nhất 1.000 trường hợp
tử vong trên chiến trường (tức tử vong của binh lính) mới được coi là “chiến
tranh liên quốc gia”. Định nghĩa này đương nhiên cũng vấp phải nhiều tranh
cãi. Ví dụ, nó đã loại bỏ ra trường hợp Nội chiến Hoa Kỳ (bởi vì các bang
miền Nam không phải là một quốc gia độc lập), và nhiều cuộc chiến khác nhau
giữa quân đội Mỹ và các bộ lạc thổ dân da đỏ.
Tuy nhiên, đa phần các tranh
cãi tập trung vào vấn đề thứ hai, đó chính là định nghĩa “dân chủ.” Có một quan
điểm được chấp nhận rộng rãi cho rằng dân chủ cơ bản là một khái hiệm gây tranh
cãi và định nghĩa của nó phụ thuộc vào yếu tố thời gian (Oren 1995). Nếu cách
nhìn nhận này được chấp nhận hoàn toàn, thì tính xác thực của lập luận hoà bình
nhờ dân chủ sẽ khó mà được đánh giá một cách thuyết phục và có hệ thống bởi
không thể nào phân loại các chế độ chính trị một cách nhất quán mà lại được
chấp nhận bởi phần lớn các nhà phân tích, qua đó tạo ra được sự đồng thuận.
Một chính phủ dân chủ thường
được cho là một chính phủ được thành lập dựa trên sự chấp thuận của dân chúng
và đáp ứng các nguyện vọng của cử tri. Thật ra việc đưa ra định nghĩa chung cho
khái niệm “dân chủ” vấp phải nhiều khó khăn là do nhiều chính phủ có thể được
coi là đáp ứng được các nhu cầu và mong muốn của cử tri nhưng lại có cấu trúc
và tính chất rất khác biệt, thậm chí đối lập với chế độ “dân chủ”. Ví dụ, các
chế độ như cộng hoà tư sản, độc tài phát-xít, hay chuyên chính vô sản có thể và
thực sự đã được nhiều ủng hộ viên nhiệt thành cho là đáp ứng được các tiêu
chuẩn cơ bản của một nền “dân chủ”.
Mặc dù vậy, có lẽ “tranh cãi về
lập luận hoà bình nhờ dân chủ không cần phải giải quyết các tranh luận mang
tính triết học về việc liệu các chế độ như thế nào là “thật sự” dân chủ” (Ray.
1997a, tr.52), hay chế độ nào phản ánh trung thành nhất và đáp ứng được
(hay phục vụ được) các lợi ích cũng như nguyện vọng của cử tri. Các nhà ủng hộ
lập luận hoà bình nhờ dân chủ đưa ra một khái niệm về dân chủ dựa trên khía
cạnh quy trình, tập trung vào các yếu tố như bầu cử cạnh tranh, phạm vi dân
chúng có quyền bầu cử, quyền công dân, quyền tự do báo chí, v.v… Một số
những đặc điểm và cấu trúc liệt kê trên có thể dễ dàng nhận biết được. Liệu
những đặc điểm này có thể dẫn tới các chính phủ thật sự phục vụ lợi ích của cử
tri hay không là một câu hỏi đáng quan tâm khác, nhưng việc giải quyết câu hỏi
này không đóng vai trò quan trọng đối với cuộc tranh luận về lập luận hoà bình
nhờ dân chủ. Thay vào đó, cuộc tranh luận này nên tập trung vào việc những chế
độ chính trị sở hữu những đặc điểm tương đối dễ nhận biết, ví dụ như có bầu cử
cạnh tranh, quyền bầu cử rộng khắp, tôn trọng quyền công dân, sẽ có cách hành
xử khác biệt, nhất là đối với nhau, so với các dạng chế độ chính trị khác.
Cũng phải thừa nhận rằng việc
nhận diện các chế độ chính trị sở hữu những cấu trúc và đặc điểm kể trên cũng
không phải là một công việc dễ dàng. Đa phần các nỗ lực để phân loại các chế độ
chính trị nhằm phục vụ cho việc đánh giá lập luận hoà bình nhờ dân chủ đều sử
dụng dữ liệu do Gurr và cộng sự của ông xây dựng nên (xem Gurr 1974, 1978; Gurr
et al, 1989, 1990; Jaggers & Gurr 1995). Tập hợp dữ liệu hiện được sử dụng
thường xuyên nhất là bộ dữ liệu Polity III. Tuy có giá trị sử dụng lớn,
nhưng bộ dữ liệu này cũng không tránh khỏi những hạn chế nhất định trong việc
trở thành cơ sở cho việc giải quyết cuộc tranh luận về việc liệu các quốc gia
dân chủ có gây chiến với nhau hay không và mức độ thường xuyên ra sao
(Gleditsch & Ward 1997). Gurr và các cộng sự đã sử dụng một thang
điểm 11 bậc nhằm đánh giá mức độ dân chủ của toàn bộ các quốc gia trên thế giới
từ 1800 đến 1990. Số điểm dân chủ của từng quốc gia là tổng các điểm cho
các khía cạnh khác nhau như về việc chính phủ có được dân bầu không, mức độ cởi
mở của việc tuyển dụng nhân sự cho nhánh hành pháp, sự cân bằng giữa nhánh lập
pháp và hành pháp của chính quyền… Bản thân các khía cạnh riêng rẽ này cũng có
sự phức tạp trong đó, và khi các mục điểm được cộng dồn lại, kết quả tổng điểm
dân chủ lại bao hàm nhiều lớp phức tạp khác nhau. Các lập luận cho rằng một
quốc gia nào đó tại một thời điểm cụ thể không đạt được tổng số 7 điểm trên
thang điểm của Polity III thì không thể được xếp vào nhóm quốc gia dân
chủ đã không đủ sức thuyết phục đối với những người hoài nghi và thậm chí cả
những nhà quan sát ít quan tâm khác, bởi vì ngưỡng 7 điểm của bảng điểm Polity
III , hay của bất kỳ chỉ số nào khác trong đó, đều không thực sự rõ ràng,
thuyết phục.
Tuy nhiên, việc đặt ra ngưỡng
là hoàn toàn hợp lý và rất cần thiết để có thể trả lời câu hỏi liệu chiến tranh
giữa các quốc gia dân chủ đã từng xảy ra hay chưa. Theo một nghĩa nào đó, việc
này đã tạo ra một vấn đề không có lối thoát (vấn đề thứ ba trong ba vấn đề mang
tính lý thuyết được đề cập ở trên). Dân chủ là một khái niệm liên
tục; các quốc gia có thể ở một mức độ dân chủ cao hơn hay thấp hơn, và vì thế
thật khó để có thể quyết định xếp một quốc gia vào một trong hai nhóm, dân chủ
hay phi dân chủ. Điều này dẫn tới việc những ai “mong muốn bảo vệ [hoặc
đánh giá] lập luận các quốc gia dân chủ không bao giờ gây chiến với nhau cần
phải thừa nhận rằng trong thực tế lập luận mà họ đang bảo vệ nói chính xác hơn
là “Những quốc gia đã đạt được một mức độ dân chủ nhất định…chưa từng gây chiến
với nhau” (Ray 1995, tr.90).
Một mức độ dân chủ “nhất định”
nào đấy lý tưởng nhất nên là một ngưỡng đơn giản, dễ nhận biết, dễ bảo vệ về
mặt lý thuyết. Ví dụ, ngưỡng đó có thể quy định rằng các quốc gia có đủ dân chủ
để có thể tránh được các cuộc chiến với nhau nếu các lãnh đạo lập pháp và hành
pháp của họ được chọn ra dựa trên một quy trình bầu cử công bằng và cạnh
tranh. Để xác định được ngưỡng này, một cuộc bầu cử cạnh tranh được định
nghĩa là có ít nhất hai đảng chính trị độc lập (hoặc các nhóm khác) tham gia
tranh cử. Một cuộc bầu cử được xem là “công bằng” nếu có ít nhất 50% dân
số ở độ tuổi trưởng thành được tham gia bỏ phiếu, và nếu hệ thống chính trị
liên quan đã thực hiện một cuộc chuyển giao quyền lực từ một đảng độc lập sang
một đảng khác một cách hoà bình và hợp hiến thông qua bầu cử. Đối với điểm cuối
nhấn mạnh chuyển giao quyền lực hợp hiến, điểm này rất quan trọng để có thể dễ
dàng nhận diện được trong các trường hợp thực tế liên quan, đồng thời quan
trọng đối với việc xác định các quốc gia nào đủ dân chủ để có thể hành động
theo các cách được được công nhận bởi các tiếp cận lý thuyết quan trọng về “dân
chủ”. Nếu như ngưỡng này được áp dụng trong các trường hợp gây tranh cãi, như
cuộc chiến vào năm 1812 giữa Hoa Kỳ và Anh Quốc, cuộc nội chiến Hoa Kỳ, Chiến
tranh Boer, Chiến tranh Hoa Kỳ – Tây Ban Nha, thì có thể đưa ra lập luận cho
rằng không có cuộc tranh chấp nào giữa các quốc gia đã leo thang trở thành
chiến tranh giữa hai nước dân chủ nếu ít nhất một trong hai quốc gia không (đủ)
dân chủ (Ray, 1993, 1995).
Phân tích dữ liệu về lập luận hòa bình nhờ dân chủ
Cho dù các nước dân chủ chưa
từng gây chiến với nhau là một sự thật được công nhận rộng rãi, thì nó vẫn chưa
có ý nghĩa đáng kể về thực tiễn lẫn lý thuyết. Trung bình mỗi năm có khoảng 99%
số cặp các quốc gia trên thế giới có quan hệ hoà bình với nhau. Và cho
tới gần đây, tỉ lệ các quốc gia theo chế độ dân chủ trên thế giới vẫn còn rất
ít. Vì thế về nguyên tắc có thể có một lý do giải thích cho việc các quốc gia
theo chế độ dân chủ chưa từng gây chiến với nhau là do điều đó khó khả thi về
mặt thống kê.
Quá trình nghiên cứu về khả
năng xảy ra chiến tranh giữa các quốc gia dân chủ đã chứng kiến nhiều tiến bộ
đáng kể từ khi Small & Singer (1976) công bố các phát hiện mở đường của họ.
Trước tiên, do họ không có dữ liệu về các dạng chế độ chính trị trong khoảng
thời gian dài họ chọn để nghiên cứu (1816-1965), nên họ chỉ có thể đưa ra dữ
liệu về chế độ của những quốc gia thực tế đã tham chiến. Do đó, họ không thể so
sánh một cách có hệ thống tỉ lệ tham chiến giữa các cặp quốc gia dân chủ với
các cặp quốc gia theo chế độ nhà nước khác.
Small & Singer có ghi nhận
về việc không thấy có chiến tranh xảy ra giữa các quốc gia dân chủ với “một số
ngoại lệ nhỏ”, nhưng họ lại không chú trọng vào mẫu hình quan trọng này. Và một
lần nữa, có lẽ một phần do không có được nguồn dữ liệu đầy đủ về các dạng chế
độ chính trị , họ đã không đánh giá được xác suất về mặt thống kê của việc các
quốc gia dân chủ không gây chiến với nhau.
Rummel (1983) đã đưa ra một
bước tiến đáng kể để giải quyết vấn đề này bằng cách sử dụng dữ liệu về các
dạng chế độ được thu thập bởi Gastil (1981), cũng như dự án Correlates of
War về các cuộc chiến liên quốc gia (Small & Singer 1982). Rummel
đã phân tích hầu như toàn bộ mọi cặp quốc gia trên thế giới từ 1976 đến 1980, và
tính tổng số các cặp trong mỗi năm lại thành 62.040 quan sát. Từ những dữ liệu
này, Rummel đã kết luận rằng việc các nước dân chủ không gây chiến với nhau so
với tỉ lệ gây chiến giữa các quốc gia khác là rất đáng kể về mặt thống kê. Tuy
nhiên, kết quả nghiên cứu này lại bị giới hạn do các đối tượng nghiên cứu chỉ
nằm trong khoảng thời gian từ 1976 đến 1980. Rummel cũng thú nhận rằng
“thật không may là tôi đã không thể có được dữ liệu để xác định số quốc gia dân
chủ trên thế giới cho giai đoạn 1816-1965” (Rummel 1983, tr. 47-48).
Tuy nhiên, Maoz & Abdolali
(1989) đã có thêm nhiều đóng góp đáng kể để giải quyết vấn đề này bằng cách sử
dụng dữ liệu của Gurr (1974, 1978). Họ phân tích các cặp quốc gia trên thế giới
từ 1816 đến 1976, cho ra 271.904 quan sát. Họ báo cáo rằng không chỉ không có
cuộc chiến tranh nào diễn ra giữa các quốc gia dân chủ với nhau trong thời kì
dài này, mà còn cho rằng số cuộc chiến tranh này (tức bằng 0) là ít hơn nhiều
so với những gì người ta kỳ vọng về mặt thống kê, cho dù số lượng các cuộc
chiến tranh nói chung lẫn số quốc gia dân chủ đều ít trong thời kỳ đó.
Công trình của Maoz &
Abdolali còn thể hiện một bước tiến quan trọng khác, đó là việc xây dựng dữ
liệu về những cuộc tranh chấp bị quân sự hóa nhưng không leo thang thành chiến
tranh liên quốc gia. Những cuộc tranh chấp này nổ ra khi một trong hai quốc gia
có những hành động đe dọa quá mức, thể hiện cũng như thực sự sử dụng sức mạnh
quân sự chống lại nước còn lại (Gochman & Maoz 1984). Sau khi phân tích các
dữ liệu như vậy, Maoz & Abdolali (1989, tr.21) đã tuyên bố rằng từ năm 1816
đến 1976, “các quốc gia dân chủ chưa bao giờ có chiến tranh với nhau. Họ cũng
ít khả năng tham gia vào các cuộc xung đột cường độ thấp hơn với nhau…”
Sau đó, Gurr và các cộng sự đã
xây dựng thang điểm cho loại hình chế độ nhà nước đối với hầu hết các nhà nước
trong hệ thống quốc tế theo từng năm, bắt đầu từ năm 1800 trở đi [trong khi
Maoz & Abdolali (1989) đã dựa quá nhiều vào phép ngoại suy]. Thang điểm của
Gurr và cộng sự đã đóng góp đáng kể cho việc so sánh tỉ lệ tham chiến giữa các
nước dân chủ với nhau so với giữa các nước không cùng theo chế độ dân chủ.
Bremer (1992) đã phân tích dữ liệu của hầu hết các cặp quốc gia trong hệ thống
quốc tế từ 1816 đến 1965, tổng cộng có 202.778 quan sát. Bremer kết luận rằng
kết quả trong giai đoạn khảo sát trên đã cho thấy có một sự khác biệt rõ ràng
trong tỉ lệ chiến tranh giữa các cặp quốc gia dân chủ với nhau so với các cặp
quốc gia khác.
Từ góc nhìn thống kê, có thể
nói lập luận của Bremer là hoàn toàn xác thực, tuy nhiên tỉ lệ các cặp quốc gia
dân chủ có chiến tranh với nhau được quan sát trong giai đoạn 1816 đến 1965 là
gần như bằng 0, và tỉ lệ các cặp quốc gia khác có chiến tranh với nhau trong
cùng giai đoạn là 0,0005. Vậy thì liệu sự khác biệt này có thật sự đáng kể?
Một lý do khiến Bremer nhận ra
sự khác biệt rất nhỏ như vậy về tỉ lệ chiến tranh giữa các cặp quốc gia dân chủ
và các cặp quốc gia khác là do có quá nhiều cặp không phù hợp được đưa vào phân
tích. Thật sự số lượng các quốc gia theo chế độ dân chủ trước giai đoạn Chiến
tranh thế giới lần thứ hai (1816-1939) là quá ít đến nỗi người ta nghi ngờ về
mức độ cần thiết về việc sử dụng giai đoạn này để phân tích. Ngoài ra, có một
số lượng lớn các cặp quốc gia mà Bremer sử dụng có khoảng cách địa lý quá xa nhau
khiến cơ hội xảy ra chiến tranh giữa hai nước là không thực tế. Những cặp quốc
gia như Miến Điện và Bolivia hay giữa Chad với Chilê đều có thể dự đoán trước
chắc chắn là khó có cơ hội xảy ra chiến tranh với nhau.
Maoz & Russett (1992) thì
tập trung nghiên cứu giai đoạn từ 1946 đến 1986, vì thế loại bỏ được những thời
điểm có ít các quốc gia theo chế độ dân chủ. Dù vậy, do số lượng các quốc gia
trong giai đoạn từ 1965 (năm cuối cùng trong phân tích của Bremer) đến 1986
tăng lên một cách nhanh chóng và do gộp vào gần hết các cặp quốc gia trên thế
giới theo từng năm, họ có tới 264.819 quan sát –hơn một chút so với số liệu của
Bremer (1992) đã phân tích. Họ đã giảm số liệu trên một cách đáng kể bằng cách
chỉ phân tích các cặp quốc gia “tương thích về mặt chính trị”, có nghĩa là các
cặp quốc gia này ở cạnh nhau về mặt địa lý hoặc có ít nhất một quốc gia là một
cường quốc. (Định nghĩa “cường quốc” sẽ không được đề cập ở đây do hạn
chế về không gian văn bản. Trong suốt thời kì Chiến tranh Lạnh, những quốc gia được
xem là cường quốc bao gồm Trung Quốc, Pháp, Anh Quốc, Liên Xô, và Hoa
Kỳ). Với cách làm này, số lượng quan sát giảm xuống còn 29.081. Kết quả
phân tích dữ liệu cho thấy không có chiến tranh xảy ra giữa các quốc gia dân
chủ với nhau. Tỉ lệ các cặp quốc gia phi dân chủ xảy ra chiến tranh với nhau
trong giai đoạn 1946 đến 1986 là 0,001. Một lần nữa, việc các quốc gia dân chủ
không gây chiến với nhau so với tỉ lệ 0,1% số lần chiến tranh diễn ra giữa các
nước không cùng theo chế độ dân chủ dường như không thực sự đáng kể (mặc dù về
mặt thống kê là có ý nghĩa). Nhưng, như Bueno de Mesquita (1984, tr.354) đã chỉ
ra trong một bối cảnh khác rằng tỉ lệ những người bị ung thư do hút thuốc chỉ
cao hơn những người không hút thuốc là 0.001482. Có lẽ sẽ không bất hợp lý nếu
cho rằng những khác biệt tuyệt đối quá nhỏ như vậy không phải là không có ý
nghĩa.
Small & Singer (1976,
tr.67) đánh giá thấp phát hiện của họ về việc không có chiến tranh giữa các
quốc gia dân chủ là do họ cho rằng đa phần chiến tranh xảy ra là giữa những
quốc gia ở cạnh nhau, trong khi đó “những quốc gia dân chủ tư sản thường không
có cùng biên giới trong phần lớn giai đoạn từ năm 1816.” Kết luận của họ chắc
chắn là dựa vào việc xem xét không có hệ thống các thông tin có sẵn, bởi ở thời
điểm đó không có cơ sở dữ liệu nào phân loại các cặp quốc gia trong hệ thống
quốc tế để xem liệu các cặp quốc gia đó có ở cạnh nhau về mặt địa lý hay không.
Tuy nhiên, việc giải quyết vấn đề này đã đạt được nhiều tiến bộ từ năm 1976. Dự
án Correlates of War đã tạo ra dữ liệu về mối quan hệ địa lý của hầu hết
các cặp quốc gia trong hệ thống quốc tế từ năm 1816 (Gochman 1991). Những dữ
liệu này đã giúp cho Bremer (1992) cũng như Maoz & Russett (1992) và những
nhà nghiên cứu khác có thể kiểm soát được tác động của vị trí địa lý đến tỉ lệ
chiến tranh giữa các cặp quốc gia mà vẫn đánh giá được tác động yếu tố chế độ
chính trị. Những phân tích từ các nhà nghiên cứu trên đã chứng minh được những
suy đoán của Small & Singer (1976) về tác động của sự gần gũi về địa lý đến
mối quan hệ giữa yếu tố chế độ chính trị và khả năng tham gia xung đột là sai
lầm. Dựa vào dữ liệu về khoảng cách giữa các quốc gia, Gleditsch (1995) đã
chứng minh được một cách thuyết phục rằng, trong lịch sử, khoảng cách giữa các
quốc gia dân chủ không cách xa nhau một cách đáng kể so với khoảng cách giữa
các cặp quốc gia không cùng theo chế độ dân chủ.
…..
Các phản biện đối với bằng chứng ủng hộ lập luận hòa bình
nhờ dân chủ
Cơ sở lý thuyết cho lập luận hòa bình nhờ dân chủ
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Xem toàn bộ nội dung văn bản tại đây: Dan
chu co dem lai hoa binh hay khong.pdf
chúng ta khoan nói về vấn đề này, dân chủ có mang lại hòa bình hay không, vẫn biết đây là điều không có gì là vô lý cả, nhưng vấn đề là những người này luôn đưa ra những luận điệu này để kích động cho một số người có hoạt động lợi dụng dân chủ để chống phá đất nước ta
ReplyDeletethứ nhât, chúng ta nên hiểu về những gì mà tác giả muốn người đọc hiểu, đó là họ là những người đang hoạt động cho cái gọi là đòi dân chủ tại việt nam, và họ muốn người dân việt nam yên tâm là hoạt động của họ không gây ra những mâu thuẫn, nhưng họ quên mất rằng ở việt nam đang rất dân chủ hay sao
ReplyDeletemuốn lý luận thế nào thì lý luận, người dân việt nam chỉ cần nhìn vào thực tế hiện nay thì sẽ thấy rõ thôi, thực tế ở một số quốc gia có cái gọi là đa nguyên đa đảng, có một số người cứ tuyên truyền là dân chủ hơn việt nam chúng ta ,nhưng thực tế thì sao, thực tế thì những quốc gia đó luôn luôn có mâu thuẫn xã hội rất lớn
ReplyDeletedân chủ, nếu đúng theo nghĩa của nó thì là một việc rất tốt, ai mà không muốn có dân chủ ,nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam thực hiện mọi chính sách phát triển đất nước cũng luôn luôn quan tâm tới dân chủ ,và dân chủ, theo đúng nghĩa của nó sẽ không bao giờ khiến xã hội mâu thuẫn cả
ReplyDeletetrong thời gian vừa qua thì phong trào dân chủ là một sự kiện rất đáng chú ý, tất nhiên là chúng ta đều biết là mục đích của những người này chẳng phải là hoạt động vì dân chủ, vì nhân dân việt nam gì đâu, mà mục đích của họ chỉ là làm sao lật đổ được chế độ này mà thôi, nhưng khách quan mà nói thì dân chủ đúng theo nghĩa nguyên bản của nó là một điều rất tốt
ReplyDelete