Nguồn: Liu
Xiaobo (2006). “Liu Xiaobo on China’s Quest for Democracy”, Journal of
Democracy, Volume 22, Number 1, January 2011, pp. 152-166.>>PDF
Posted on 12/09/2013
Giới thiệu
Ngày 8-10, Ủy ban Nobel của Na Uy thông báo Giải Nobel
Hòa bình 2010 sẽ được trao cho Lưu Hiểu Ba – nhà văn và nhà bất đồng
chính kiến người Trung Quốc đang bị giam giữ “vì cuộc đấu tranh lâu dài và bất
bạo động của ông vì quyền con người cơ bản ở Trung Quốc.” Ông Lưu – tác giả của
11 cuốn sách và hàng trăm bài luận – là một nhân vật chủ chốt trong phong trào
dân chủ Trung Quốc từ thời những sự kiện dẫn tới cuộc thảm sát Quảng trường
Thiên An Môn năm 1989. Ông bị bỏ tù trong thời gian 1989-91 và 1996-99. Các
hoạt động của ông trong thập niên vừa qua bao gồm việc làm chủ tịch Trung tâm Independent
Chinese PEN Center và là biên tập viên của tạp chí Trung Hoa Dân chủ
[Democratic China]. Ông là người soạn thảo chính và là người ký tên quan
trọng trong Hiến chương 08, một văn kiện mô phỏng theo Hiến chương 77 của Tiệp
Khắc, nhằm kêu gọi dân chủ và tôn trọng nhân quyền ở Trung Quốc.
Không lâu trước khi bản Hiến chương này được chính thức
công bố vào tháng 12-2008, ông Lưu bị Sở Công an Bắc Kinh tạm giữ. Ngày
23-6-2009, ông chính thức bị bắt vì các cáo buộc “kích động lật đổ chính
quyền.” Tại phiên tòa vào tháng 12 năm đó, ông bị kết tội và kết án 11 năm tù.
Hiện nay ông đang thụ án ở Trại giam Cẩm Châu, tỉnh Liêu Ninh, nơi vợ ông – bà
Lưu Hà – đã đến thăm chồng và báo tin ông đã đoạt giải Nobel. Tuy vậy, từ đó
đến nay, chính phủ Trung Quốc – vốn lên án mạnh mẽ giải thưởng dành cho ông –
đã áp dụng chế độ quản thúc tại gia với bà Lưu Hà và tìm cách ngăn cản bà hay
bất cứ họ hàng, bạn bè nào của ông Lưu rời Trung Quốc để dự lễ trao giải được
dự kiến diễn ra ngày 10 tháng 12 ở Oslo, Na Uy. Hiện vẫn chưa rõ liệu ông Lưu
có thể đưa ra tuyên bố nhận giải hay không.
Trong các trang tiếp theo, chúng tôi giới thiệu các bài
tham luận hùng hồn nhất của ông Lưu. Cả hai đều được viết năm 2006 và đưa lên
bằng tiếng Trung ở website www.observechina.net Cả hai bài
đều được tổ chức Trung Quốc Nhân quyền dịch sang tiếng Anh và
xuất bản trong Diễn đàn về các Quyền của Trung Quốc, tạp chí hàng quý số
1 năm 2010, kèm các bài viết và tuyên bố khác của Lưu cùng rất nhiều thông tin
về bản thân và sự nghiệp của ông. Độc giả quan tâm có thể tìm số tạp chí này
với tên gọi “Quyền tự do ngôn luận đang bị xét xử ở Trung Quốc,” theo đường dẫn
www.hrichina.org/public/contents/category?cid=173549.
Chúng tôi xin cảm ơn tổ chức Trung Quốc Nhân quyền đã cho phép in lại
các bài luận được xuất hiện ở đây với những thay đổi tối thiểu về hình thức.
Bài luận đầu tiên, tựa đề “Liệu có phải là người dân
Trung Quốc xứng đáng với mỗi nền ‘dân chủ do Đảng dẫn dắt’?” được viết để phản
bác lại ấn phẩm “Xây dựng nền chính trị dân chủ ở Trung Quốc” của Phòng Thông
tin thuộc Quốc Vụ Viện ngày 19-10-2005 – sách trắng đầu tiên về việc xây dựng
dân chủ do chính phủ cộng sản Trung Quốc ấn hành. Ông Lưu chỉ ra văn bản này
“không phải là tuyên bố về ‘việc xây dựng nền chính trị dân chủ ở Trung Quốc’
mà là sự công khai biện hộ cho việc ‘bảo vệ chế độ độc tài của sự tối cao của
quyền lực Đảng.’” Ông bày tỏ sự đau buồn về lịch sử cai trị đế quốc và độc tài
lâu dài của Trung Quốc, đổ lỗi cho “sự thờ ơ của quần chúng” hơn là cho chính
quyền. Ông kết thúc bằng việc nói rằng “sự xuất hiện của một nước Trung Quốc tự
do” sẽ không đến từ chính sách mới của những người đang cầm quyền mà từ “sự mở
rộng liên tục” của quyền lực trong nhân dân.
Bài luận thứ hai được xuất bản ở đây – “Thay đổi Chế độ
bằng cách Thay đổi Xã hội” – bàn luận cụ thể hơn chủ đề đưa ra ở kết luận của
bài thứ nhất. Ông Lưu nhận ra rằng xã hội dân sự ở Trung Quốc vẫn còn yếu và họ
thiếu cả năng lực lẫn sự sẵn sàng thay đổi hệ thống chính trị của đất nước.
Nhưng ông vẫn hy vọng vào tương lai và lưu ý rằng sự áp đặt quyền lực độc đoán
lên xã hội của Đảng Cộng sản đã nới lỏng từ thời Mao. “Sự chuyển đổi mạnh mẽ
theo hướng đa nguyên trong xã hội đã và đang xảy ra,” ông lập luận, “và chính
quyền chính thức không còn có thể kiểm soát đầy đủ toàn bộ xã hội.” Ông kêu gọi
cần dựa vào “cải thiện dần dần từ dưới lên” thay vì thay đổi mang tính cách
mạng hay từ trên xuống, và đặt ra một số yếu tố cơ bản của chiến lược đó: phong
trào bất bạo động để bảo vệ quyền con người; tập trung “đưa tự do vào thực tiễn
trong cuộc sống hàng ngày”, nỗ lực của từng cá nhân trong việc sống trung thực
và có phẩm hạnh; cam kết không ngừng nghỉ đối với những giá trị tự do và lòng
khoan dung; nhưng không được “sa lầy vào vũng bùn của chủ nghĩa tương đối thuần
tuý”.
Khi viết những dòng này, chúng ta không biết điều gì sẽ
xảy ra tại buổi lễ ngày 10 tháng 12, càng không biết số phận của ông Lưu sẽ ra
sao trong những tháng, năm tới. Có lẽ chính phủ Trung Quốc sẽ quyết định rằng
phương thức ít tổn hại nhất là để ông ra nước ngoài lưu vong – một chiến lược dành
cho các nhà bất đồng chính kiến mà Lưu đã phân tích trong một bài luận khác
(cũng đã được Trung Quốc Nhân quyền dịch) mang tên “Những khía cạnh khác
nhau của nền độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc”:
Khi chế độ đàn áp những người nổi tiếng có quan điểm
chính trị khác biệt, nó đang nỗ lực tránh việc tạo ra những anh hùng nhân dân –
những người gây cảm hứng cho người khác noi theo để đạt được thẩm quyền đạo đức
và danh tiếng quốc tế. Họ biết rằng thông qua việc đẩy những người bất đồng
chính kiến nổi tiếng đi lưu vong, họ sẽ dùng một mũi tên bắn trúng hai đích:
cho người bất đồng chính kiến một đường lùi và dành sự ủng hộ của cộng đồng
quốc tế; đồng thời gạt bỏ được các đối thủ chính trị trực tiếp và hạ thấp hình
ảnh đạo đức của người bất đồng chính kiến ở trong nước, từ đó làm suy yếu sức
mạnh huy động và sự đoàn kết tập thể của các lực lượng đối lập dân sự. Trừ
những quyết định chính sách điên rồ đưa ra trong những trường hợp bất thường
hoặc đưa ra bởi sự sợ hãi quyền lực vượt mức thì chế độ sẽ luôn ít có khuynh
hướng dựa vào các phong trào chính trị mở; thay vào đó, họ sẽ ngày càng huy
động những biện pháp tinh vi, được che đậy và thậm chí có thể rất khó phát
hiện, để thanh trừng các đối thủ. Nó sử dụng mọi mưu mẹo bí mật, mang tính hủy
diệt hòng hy vọng loại bỏ bất cứ thách thức nào trong nhân dân từ trứng nước,
và nó kỳ công tìm cách giảm tác động tiêu cực từ sự đàn áp bằng cách ngăn chặn
tiếp cận thông tin. Kết quả là rất nhiều nhà bất đồng chính kiến ở đại lục
Trung Quốc rơi vào tình cảnh nghịch lý “áo gấm đi đêm” – danh tiếng quốc tế thì
rất nhiều nhưng trong nước công chúng lại không biết đến hay chỉ có một nhóm
nhỏ hay biết mà thôi.
Có tin nói rằng chính phủ Trung Quốc đã đề nghị để ông
Lưu lưu vong nhưng ông đã từ chối. Và trong lúc Trung Quốc gắng hết sức để ngăn
ngừa tin tức trong nước về ông Lưu lan ra thì việc ông được giải Nobel khiến
cho đồng bào của ông khó mà không nhận thấy cuộc đời và sự nghiệp của ông sẽ
tiếp tục nở rộ.
—Các Biên tập viên, ngày 8-12-2010
***
Liệu có phải người Trung Quốc chỉ đáng có “nền dân chủ do Đảng dẫn dắt”?
Ngày 19-12-2005, Phòng Thông tin của Quốc Vụ Viện nước
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã ra sách trắng “Xây dựng nền chính trị dân chủ ở
Trung Quốc”. Mặc dù đây là sách trắng đầu tiên về việc xây dựng dân chủ do chính
phủ Cộng sản ban hành kể từ khi lên nắm quyền nhưng trừ việc xuất bản ra thì nó
không mang lại điều gì mới mẻ về mặt nội dung.
Trọng tâm của sách trắng là lập luận liên quan đến “lý
thuyết về điều kiện quốc gia,” “lý thuyết quyền lực Đảng [Cộng sản Trung Quốc]
[(ĐCS)],” và “lý thuyết về sự sáng suốt [của ĐCS].”
“Lý thuyết về điệu kiện quốc gia” trong sách trắng không
còn nhấn mạnh sự tụt hậu kinh tế và chất lượng dân số dưới chuẩn của Trung Quốc
nữa, mà nhấn mạnh rằng vai trò lãnh đạo trung tâm của ĐCS vừa là sự lựa chọn
lịch sử, vừa là sự lựa chọn tự nguyện của người Trung Quốc; có nghĩa là điều đó
do lịch sử tạo ra chứ không phải do ý chí áp đặt của ĐCS với người dân. Rõ
ràng, mục đích của “lý thuyết về điều kiện quốc gia” là bác lại bản chất phổ quát
của dân chủ và hé lộ các vấn đề về tính chính danh của chế độ ĐCS hiện nay bằng
cách viện dẫn những điều kiện đặc biệt của quốc gia.
“Lý thuyết lãnh đạo của Đảng” công khai khẳng định hệ
thống lãnh đạo tối cao của Đảng hiện nay ở Trung Quốc. Cho dù đó là ý tưởng
trừu tường về việc xây dựng mang tính dân chủ nền chủ quyền nhân dân hay là
việc bảo vệ nhân quyền và các quyền con người cụ thể được ghi trong Hiến pháp;
cho dù đó là thể chế Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc (Quốc hội) và hệ thống
tham vấn chính trị hay cái được gọi là chế độ tập trung dân chủ mang màu sắc
Trung Quốc cộng sản; cho dù đó là quá trình dân chủ cơ cở hay pháp quyền, thì
tất cả những điều trên phải tuân theo sự lãnh đạo của ĐCS và chẳng liên quan gì
đến chủ quyền nhân dân.
Mục đích của “lý thuyết về sự sáng suốt của ĐCS” là nhằm
tuyên bố rằng công lao của mọi thành tựu hiện nay của Trung Quốc là nhờ ĐCS và
bao biện đến mức coi hàng loạt thất bại là thành tựu vĩ đại. Tương tự như vậy,
bất cứ thành tựu dân chủ nhỏ nhoi nào từng có từ khi cải cách đều được coi là
nhờ có sự lãnh đạo sáng suốt của ĐCS và tất nhiên không phải là kết quả của nỗ
lực tự phát từ nhân dân.
Vậy là sách trắng tương đương với một lời tuyên bố ra
toàn thế giới rằng trên cả dân chủ của chủ quyền nhân dân, thẩm quyền của ĐCS
là thẩm quyền cao hơn, và thẩm quyền đó của Đảng là tối cao, có nghĩa là “Đảng
chịu trách nhiệm đối với người dân” và “Đảng chịu trách nhiệm về dân chủ”, và
có nghĩa rằng Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc là con rối của quyền lực của
Đảng, Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Toàn quốc là vật trang trí, hệ
thống tư pháp là công cụ, và ngữ vựng về quyền con người, dân chủ, vv…chỉ là để
làm đẹp. Cũng như sách trắng về nhân quyền do các nhà cầm quyền ĐCS phát hành,
sách trắng về dân chủ chứa đầy dối trá. Ví dụ, sách trắng viết: “Mọi quyền lực
ở Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thuộc về người dân”. Nhưng 1,3 tỷ người dân của
Trung Quốc là một đàn cừu do chính quyền ĐCS chăn dắt và không có cơ hội tham
gia bầu cử chủ tịch nước. Một ví dụ khác là sách trắng tuyên bố “có sự phát
triển của dân chủ trong Đảng”. Thế nhưng đa số trong 68 triệu đảng viên không
khác gì nô lệ của Đảng và tất nhiên là không có cơ hội bầu cử lãnh đạo Đảng.
Đây chính là “Xây dựng nền chính trị dân chủ ở Trung
Quốc” mà sách trắng tung hô!
Do đó sách trắng này không phải là tuyên bố về ‘việc xây
dựng nền chính trị dân chủ ở Trung Quốc’ mà là sự công khai biện hộ việc ‘bảo
vệ chế độ độc tài của sự tối cao của quyền lực Đảng.”
Ngày 01-10-1949, Mao Trạch Đông tiến tới Cổng Thiên An Môn,
điệp khúc “Người là cứu tinh của nhân dân” vang lên trên toàn quốc – một bài
hát giàu sức sống mà mãi tới ngày nay vẫn là công cụ hoài cổ của những ai muốn
thể hiện sự bất mãn của mình. Ngày 01-10-1984, sau khi Đặng Tiểu Bình xuống
Thiên An Môn để duyệt binh và nhận được sự ủng hộ nhiệt thành [thể hiện qua lời
chào đơn giản] “Xin chào Tiểu Bình”, “vị kiến trúc sư trưởng”, bằng một cái vẫy
tay, đã ban cho nhân dân thấp hèn cơ hội nhanh chóng có chút tiện nghi trong
cuộc sống thường ngày, “cho một số người làm giàu trước” và giành được chút tự
do kinh tế ít ỏi. Ngày 01-10-1999, sau khi Giang Trạch Dân duyệt binh, bất chấp
tấn công diện rộng từ mọi phía, ông vẫn an toàn trên vị trí “nhân vật lãnh đạo
thừa kế sự nghiệp cách mạng và đưa sự nghiệp đó tiến vào tương lai.” Ông lại
bắt tay vào một cải cách mang tính lý thuyết khác đối với kho của bố thí to lớn
đầy quyền uy của hoàng đế, cho các nhà tư bản – những người đã tích lũy hàng
đống của cải – tham gia ĐCS và được tự do về chính trị bằng những chiếu chỉ của
hoàng đế, để họ không chỉ là đối tác của Mặt trận Thống nhất và vật trang trí
chính trị của Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc và Hội nghị Hiệp thương Chính
trị Nhân dân Trung Quốc mà còn trở thành thành viên của đảng cầm quyền. Tôi
không biết liệu khi nào Hồ Cẩm Đào – ông sếp mới của Đảng – định xuống Thiên An
Môn để duyệt binh và xây dựng hình ảnh trước “nhân dân yêu quý” của ông.
Tôi không phủ nhận là trong bộ máy ĐCS đang cầm quyền có
thể có những quan chức cấp cao, kiểu như Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương, những
người đối xử tử tế với nhân dân và có hiểu biết về chính trị học hiện đại. Khi
còn đương chức, họ đã ra một số quyết định chính sách khá tốt và chấp nhận rủi
ro để đẩy mạnh cải cách chính trị. Nhưng kể cả khi đó, người dân vẫn phải chờ
đợi quyền và lợi ích của mình như thể họ được nhận từ thiện do trên ban ra,
chưa kể là những quan chức tốt như thế không mấy khi tồn tại được lâu trong hệ
thống ĐCS.
Chúng ta hãy lùi lại hẳn phía sau để thấy: Nếu đồng bào
của chúng ta vẫn thường xuyên có được một nhà lãnh đạo sáng suốt, hay việc
hoàng đế ban ơn không còn là hành vi ngẫu nhiên mà vẫn thi thoảng xảy ra, thì
quả thực có thể tha thứ được cho thực tế là cả nước ỳ ra chờ đợi được ban ơn
bởi đó là những lợi ích hữu hình có được, cho dù điều ấy là một sự xúc phạm
nhân phẩm. Rất tiếc là đồng bào của chúng ta chịu đựng và chờ đợi mỏi mòn mới
may mắn có được một lãnh đạo sáng suốt một cách tình cờ hoặc được chút ơn huệ
bủn xỉn. Những gì họ nhận được luôn là những bồi thường sơ sài và an ủi bố thí
đến muộn, thế thì tại sao họ vẫn chỉ có thể ngước nhìn vương miện? Hơn nữa,
xuyên suốt lịch sử các triều đại lặp đi lặp lại của Trung Quốc, mọi hành vi
rộng lượng của đế quyền hùng mạnh và bao la chỉ xảy ra ở khúc đầu của mỗi triều
đại mới – khi tiếp quản mọi thứ dang dở từ chế độ trước đó, hoặc trong thời kỳ
cuối khủng hoảng của một triều đại, và không bao giờ xảy ra vì lợi ích của
người dân mà là vì mưu cầu chính trị nhằm củng cố hay duy trì quyền lực chính
trị hoặc để cứu vãn chế độ. Đồng bào của chúng ta vẫn như trẻ sơ sinh, phụ
thuộc hoàn toàn vào sự chăm sóc của người lớn và chỉ biết chờ đợi một đấng minh
vương xuất hiện. Liệu có phải người Trung Quốc sẽ không bao giờ lớn lên, liệu
có phải đặc điểm của họ là mãi mãi yếu ớt và khuyết tật, liệu có phải số mệnh
của họ là ngồi đó cầu xin và chấp nhận quỳ gối trước ơn huệ từ đế vương?
Chắc chắn không còn nghi ngờ là trên đại lục sau thời
Mao, so với thời đại của Mao, đồng bào của chúng ta đã có được lợi ích hữu hình
về chuyện ăn ở và một vài lựa chọn cá nhân vô cùng hạn hẹp. “Thuyết con mèo”
thực dụng của Đặng Tiểu Bình,1 so với hệ tư tưởng của Mao thiên về
chú trọng đấu tranh giai cấp, có độ linh hoạt mềm dẻo và nhanh nhạy. Tuy vậy,
không một biến chuyển nào thay đổi được hiện trạng cơ bản của đồng bào chúng
ta; quan hệ giữa kẻ trị vì và người bị trị ở đất nước này vẫn như cũ qua bao
thời đại, và cho đến nay vẫn được tiếp nối. Cụ thể, quyền lực để khởi đầu và ra
quyết định về những quyền và lợi ích cơ bản của nhân dân, vận mệnh của đất
nước, bất cứ tiến bộ nào trong xã hội và cải thiện nào trong cuộc sống dân
thường đều được các nhà độc tài nắm chắc trong tay. [Mọi sự cải thiện] đều là
của từ thiện do trên ban ra, đòi hỏi người được nhận phải hô ba lần khẩu hiệu
“Vạn tuế” để chứng tỏ lòng trung thành và biết ơn với người cai trị, đòi hỏi
các nhân vật nổi tiếng của công chúng phải đóng vai người phản biện nhưng có
chung mục đích [với giới cầm quyền – ND], và đòi hỏi các bồi bút với ngòi bút
điêu luyện phải bảo vệ và ngợi ca họ, để minh chứng cho sự sáng suốt và đức độ
của giới cầm quyền.
Cho dù đã có một số cải thiện trong các phong trào bảo vệ
quyền dân sự vài năm qua, chúng ta phải nhìn vào thực tế u ám mà sự nghiệp bảo
vệ quyền dân sự đang đối mặt. Nếu không phải do các nhà độc tài xảo trá sử dụng
làm công cụ nắm quyền lực và thiết lập triều đại mới thì phong trào từ dưới lên
nhằm giành nhân phẩm, quyền và lợi ích cá nhân sẽ bị bộ máy chuyên quyền độc ác
xóa sạch, và không có cách nào mà một chuỗi các phong trào phản kháng dân túy
quy mô lớn có thể đạt đến mức làm lung lay nền tảng của hệ thống độc đoán và
văn hóa nô lệ, cho dù đó là những cuộc nổi dậy bạo lực kiểu truyền thống để
thay đổi triều đại hay các phong trào đối lập chính trị hiện đại kiểu phản
kháng hòa bình.
Lý do của chuyện này là gì?
Phải thừa nhận rằng một trong các lý do là sự đàn áp từ
chính quyền độc tài, nhưng lý do lớn hơn chính là sự thờ ơ của dân chúng. Trong
tâm trí của người dân khờ dại, hèn nhát và mù quáng thì bị lợi dụng cũng không
khác gì so với được giải phóng và được trao cuộc sống mới. Còn với những kẻ
hoài nghi hèn nhát nhưng khôn ngoan, bị đàn áp đồng nghĩa với bị khuất phục, và
do đó có nghĩa là trở thành kẻ đồng lõa, tay sai hay ít nhất sẽ thành một thần
dân im lặng, dễ bảo. Có khi nào đồng bào của chúng ta được nếm thử tự do thực
sự đi kèm việc trở thành người chủ vận sự của chính mình? Có khi nào Trung Quốc
phá vỡ chu trình lịch sử luẩn quẩn giữa ổn định và hỗn mang dưới sự cai trị của
các triều đại độc đoán?
Trong hàng thế hệ, tới tận ngày trị vì hôm nay của ĐCS,
những cụm từ như “sau khi giải phóng”, “kể từ khi lập quốc”, và “sau khi Trung
Quốc mới ra đời”, và những lời ngụy biện như “nếu không có Đảng Cộng sản, sẽ
không có nước Trung Quốc mới”, đã trở thành kiến thức lịch sử thông thường cơ
bản nhất và thành thói quen ngôn ngữ bám sâu vào trí nhớ tập thể của đất nước,
được sử dụng một cách phổ quát trong các bài phát biểu và văn kiện của mọi
người. Kể cả những trí thức và giới theo chủ nghĩa tự do trong Đảng biết rõ
lịch sử ĐCS như lòng bàn tay cũng quen dùng các thuật ngữ này để nói tới lịch
sử trong lúc trình bày vô số tội ác mà ĐCS phạm phải sau khi lên nắm quyền.
Tương tự như vậy, khi dân thường đề cập đến Phong trào
1989 và Cuộc Thảm sát [Thiên An Môn] ngày 4-6, đa số vẫn thường dùng các từ như
“rối loạn” và “nổi loạn”. Kể cả người dân Bắc Kinh trực tiếp trải nghiệm
những cuộc diễu hành hòa bình và cuộc thảm sát đẫm máu nhìn chung vẫn sử dụng
những ngôn từ do chính phủ đưa ra. Và mặc dù chính quyền đã lặng lẽ đổi từ “rối
loạn” và “nổi loạn” thành “nhiễu loạn chính trị” trong truyền thông đại chúng
thì ngôn từ của người dân vẫn không thay đổi mấy. Từ khi chế độ Giang Trạch Dân
đàn áp Pháp Luân Công năm 1999, từ “giáo phái” cũng được bổ sung vào tiếng bản
xứ và nhanh chóng phổ biến trong các sinh viên đại học, trung học và tiểu học.
Cách đây vài năm, mỗi khi tôi nghe người quen dùng từ “rối loạn” để nói về
Phong trào 1989, tôi lại muốn bắt bẻ và sửa lại. Những lần chỉnh sửa ấy đầu
tiên diễn ra một cách đầy phẫn nộ, sau đó là nghiêm túc và cuối cùng là trong
cam chịu. Dần dần, tôi chấp nhận buông xuôi. Việc nhồi sọ tư tưởng mạnh mẽ với
những bộ óc đã bị nô dịch suốt một thời kỳ dài chắc chắn khiến cho trí nhớ và
ngôn ngữ bị khô cứng.
Bậc thầy về triết học ngôn ngữ Ludwig Wittgenstein cho
rằng ngôn ngữ không phải là công cụ thể hiện suy nghĩ theo nghĩa thông thường
mà bản thân nó chính là hành động; và rằng cách người ta lựa chọn để thể hiện
bản thân bằng ngôn ngữ là cách họ lựa chọn tư duy, [mà] cách người ta lựa chọn
tư duy là cách người ta lựa chọn cách sống. Bởi vậy, theo nghĩa rộng, nếu ai đó
quen dùng các cụm từ thể hiện lòng biết ơn sâu sắc thì họ chắc chắn tạo ra tư
duy đấng cứu thế; tư duy đấng cứu thế chắc chắn dẫn tới cách sống nô lệ, chờ
đợi từ thiện từ trên ban xuống và nỗi lo sợ rằng nếu không có đấng cứu thế,
người ta sẽ rơi vào cảnh tuyệt vọng hơn và đáng thương hơn cả một con chó
hoang.
Lần này qua lần khác, người dân đã đặt hy vọng của mình
về cải cách chính trị từ trên xuống lên những người mới nhậm chức, nhưng lần
nào cũng bị thất vọng. Điều kỳ lạ nhất là dù thất vọng lên, thất vọng xuống như
vậy mà vẫn không dập tắt được chút hy vọng ít ỏi mà người dân đặt vào các cải
cách do ĐCS khởi xướng. Tại sao? Câu trả lời thường thấy là bởi vì điều kiện
quốc gia là như vậy. Một số người cho rằng một đất nước rộng lớn chỉ có thể
kiểm soát và cai trị được bởi một chế độ độc đoán. Những người khác nói là ĐCS
quá mạnh và họ có quá nhiều độc quyền với các nguồn lực nên nếu ĐCS không tự
chuyển đổi thì không một lực lượng nào có thể thách thức được họ. Một số người
lại cho rằng các nhóm đối lập trong nền chính trị dân túy về nhiều mặt còn xa
mới bằng ĐCS, và nếu họ lên nắm quyền thì họ còn tệ hơn cả ĐCS. Lại có những
người khác nói là phát triển kinh tế đến trước cải cách chính trị; để đảm bảo
tăng trưởng kinh tế nhanh, ta phải duy trì ổn định xã hội, và chỉ khi ĐCS nắm
quyền thì mới duy trì được ổn định. Và còn những người khác cho là dân số đại
lục quá lớn, quá thấp kém và thiếu hiểu biết nên chỉ có thể tiếp nhận sự dẫn
dắt độ lượng từ giới tinh hoa, và chỉ có khả năng thực hiện cải cách từ trên
xuống, v.v… Tất cả các lập luận ấy chỉ dẫn đến một điều: Nếu không có ĐCS, hoặc
nếu ĐCS từ bỏ quyền lực, ai sẽ là người thay thế để cai quản Trung Quốc một
cách hiệu quả? Các nhà hoạt động dân chủ và những người có quan điểm chính trị
khác biệt ở Trung Quốc lại không đặt ra câu hỏi này chắc? Và đó là lý do tại
sao việc chờ đợi món quà hạnh phúc được trên ban cho là lựa chọn duy nhất của
dân thường.
Khi mà đồng bào của chúng ta không đấu tranh, thậm chí
không chuẩn bị để trở thành người chủ của chính mình, khi mà họ từ bỏ mọi nỗ
lực trước cả khi cuộc đấu tranh giành quyền lợi bắt đầu một cách nghiêm chỉnh,
thì họ sẽ dựng lên sự mặc định tiềm thức rằng nếu không có những người cai trị
hiện hành thì đất nước sẽ rơi vào hỗn loạn. Kiểu mặc định này bắt nguồn từ việc
truyền bá tư tưởng lâu dài của ĐCS cũng như bản chất nô lệ của người dân mà đến
nay vẫn không thay đổi. Có thể lý giải tại sao các nhà độc tài bất chấp thực
tiễn lịch sử và nuôi dưỡng kiểu mặc định này. Đó là vì mỗi một quyết định chính
sách họ đưa ra và mỗi điều họ nói chỉ có một mục đích tối cao: duy trì quyền
lực tuyệt đối. Nhưng người dân tuyệt nhiên chẳng có lý do gì phải tin vào điều
mặc định này, bởi vì hệ thống mà sự mặc định này ủng hộ chính là hệ thống không
coi người dân là con người. Chừng nào mà đồng bào còn quên thực tiễn lịch sử và
tin tưởng vào điều mặc định ấy thì họ sẽ không ngần ngại gì mà chờ đợi miếng
bánh trên trời rơi xuống và sẽ chờ đợi một lãnh đạo khôn ngoan hơn hoặc một ông
chủ đức độ hơn cho dù họ phải đợi chín kiếp mới có một người như vậy; họ sẽ coi
các phong trào đối lập từ dưới lên và những ai chiến đấu cho quyền lợi cá nhân
là lực cản, không phải là sự trợ giúp, khiến cho “đổ dầu vào lửa”, và sẽ bảo vệ
những kẻ cầm quyền – những người chỉ làm một điều tốt lặt vặt và 99 điều xấu xa
vô cùng, dùng một phần trăm chính sách tốt ấy để bảo vệ 99 phần trăm chính sách
xấu. Cho dù bị thảm sát, bị bỏ đói, tù đày, lưu vong, tước bỏ quyền và bị phân
biệt đối xử, người dân hèn mọn vẫn cảm thấy mãi mãi mắc nợ và biết ơn và coi
các nhà độc tài là “vĩ đại, đáng kính và không thể sai lầm.”
Một bài thơ của Bạch Cư Dị2 viết: “Dã hoả
thiêu bất tận – Xuân phong xuy hựu sinh” (Lửa đồng thiêu cháy vẫn còn – Gió
xuân thổi tới mầm non lại trồi [Bản dịch Tản Đà] – ND). Ở Trung Quốc lục địa,
vần thơ mãi được tôn vinh này hẳn nhiên không phải là bản mô tả phù hợp những
ai dũng cảm đứng dậy, mà là chân dung tinh tế về những đồng bào vốn quen quỳ
gối một cách duyên dáng. Dưới vương quyền phong kiến, các quan văn quan võ ngăn
nắp quỳ gối khi hô vang “Vạn tuế! Vạn tuế, vạn vạn tuế!”. Từ trên cao ở Thiên
An Môn, kẻ độc tài vẫy tay và quảng trường lớn nhất thế giới trở thành biển
người ngợi ca đấng cứu thế của họ. Kể từ khi nhà Thanh sụp đổ (năm 1911) và đặc
biệt là từ khi ĐCS lên nắm quyền, cho dù đồng bào ta không còn rập người khấu
đầu như thời xưa nhưng trong tâm hồn họ còn quỳ gối sâu hơn cả tổ tiên của
mình.
Một lời khuyên về cách trở thành người ngay thẳng dạy
rằng: “Con người sinh ra đã tự do và bình đẳng.” Sự nô dịch hóa và bất bình
đẳng phổ quát không bao giờ do quyền lực quá độ hay sự anh minh của kẻ cai trị
tạo ra, mà nó sinh ra bởi chính những kẻ quỳ gối. Liệu có phải là ngày hôm nay,
hơn một trăm năm sau khi thời đại hoàng đế dựa trên khấu đầu ba lần và quỳ gối
chín lần bị xóa bỏ [tức thời đại của Phổ Nghi, hoàng đế cuối cùng của Trung Hoa
– ND], đồng bào ta vẫn đang tự sỉ nhục chính mình và tìm mọi cách biện bạch cho
tư thế quỳ gối của mình? Liệu có phải là lợi lộc từ mức sống tốt và cho phép
người giàu vào Đảng đã khiến đồng bào ta chỉ còn có thể quỳ gối và khấu đầu tạ
ơn lòng hào hiệp và bao dung của những kẻ độc tài?
Để một Trung Hoa tự do xuất hiện, việc đặt hy vọng vào
“các chính sách mới” của những người cầm quyền còn tệ hơn nhiều so với việc đặt
hy vọng vào việc liên tục mở rộng “quyền lực mới” cho người dân. Cái ngày mà
phẩm giá của nhân dân được xác lập cả về mặt luật pháp lẫn nhận thức chính là
lúc mà quyền con người của đồng bào ta được bảo vệ về mặt thể chế.
Ghi chú của người dịch từ bản tiếng Trung sang tiếng Anh:
Khi Đặng Tiểu Bình quay lại nắm quyền vào giữa những năm
1970, sau Đại Cách mạng Văn hóa, ông có một tuyên bố nổi tiếng: “Tôi không cần
biết là mèo đen hay mèo trắng. Miễn bắt được chuột là con mèo tốt” để nói rằng
ông định nhấn mạnh tính thực dụng cao hơn ý thức hệ. Điều này khiến ông gặp rắc
rối mới, và một lần nữa ông lại bị Mao Trạch Đông tước mất hết chức vị. Tuy
nhiên, sau khi Mao qua đời, vị trí của Đặng được khôi phục và ông khởi động
nhiều thập niên cải cách kinh tế, mở cửa ra thế giới bên ngoài của Trung Quốc.
Bạch Cư Dị (772-846), một trong các nhà thơ đời Đường
được yêu thích nhất, dùng những vần thơ đơn giản một cách tế nhị để phản đối
những xấu xa trong xã hội đương thời, kể cả tham nhũng và quân phiệt.
***
Thay đổi chế độ bằng cách thay đổi xã hội
Chúng ta mới có hơn hai mươi năm cải cách, nhưng do sự
chiếm đoạt ích kỷ giành quyền lực chính trị của ĐCS và sự rải rác của các lực
lượng dân sự, về ngắn hạn tôi không thấy có lực lượng chính trị nào có khả năng
thay đổi chế độ, hay bất cứ lực lượng có tư tưởng tự do nào nổi lên từ giới cầm
quyền chính thức, một kiểu Gorbachev1 hoặc Tưởng Kinh Quốc,2
và cũng không thấy xã hội dân sự có cách nào xây dựng được sức mạnh chính trị
đủ để làm đối trọng với chính quyền chính thức. Và như vậy, công cuộc chuyển đổi
thành một xã hội hiện đại, tự do của Trung Quốc sẽ phải diễn ra từ từ với nhiều
ghập ghềnh trước mặt. Thời gian dài ngắn ra sao có lẽ sẽ vượt xa tất cả những
dự đoán bảo thủ nhất.
Đồng thời, xét về sự đối lập với sức mạnh của chế độ ĐCS
thì xã hội dân sự vẫn còn yếu ớt, lòng dũng cảm của nhân dân chưa đủ và tri
thức dân sự chưa trưởng thành; xã hội dân sự vẫn ở giai đoạn phát triển ban
đầu, và bởi vậy trong một thời gian ngắn không có khả năng phát triển thành một
lực lượng chính trị phù hợp với nhiệm vụ thay thế chế độ Cộng sản. Trong tình
hình đó, thay đổi trong hệ thống chính trị của Trung Quốc và chế độ hiện thời
của nó – với bất kỳ hình thức kế hoạch, chương trình hay hành động tìm kiếm
thành công lập tức nào – vẫn chỉ là xây lâu đài trên cát.
…
Xem toàn bộ nội dung văn bản tại đây:
No comments:
Post a Comment