Chủ nhật, ngày 08 tháng chín năm 2013
Mới đây chinh phủ nước CHXHCN Việt Nam ra một nghị
định nhằm quản lý chặt chẽ những người sử dụng intenet. Nghị định có 6 chương
bao gồm 46 điều khoản để xiết chặt những người sử dụng intent phải hạn chế
quyền tự do của mình.
Trước tiên phải nói về nghị đinh. Nghị định không
phải là luật. Thời trước kia ở những năm đầu thế kỷ 20 nó được gọi là sắc lệnh.
Khi ĐCS Việt Nam chưa nắm quyền cai trị đất nước, ở những buổi đầu hoạt động
chống nước Pháp bảo hộ, chủ tịch đảng CSVN ông Hồ Chí Minh đã lên án Thực Dân
Pháp cai trị nhân dân Việt Nam bằng sắc lệnh, ông đòi hỏi thay thế chế độ ra
sắc lệnh bằng chế độ ra những đạo luật. Ông Hồ Chí Minh cũng đòi hỏi người Pháp
phải cho người dân Việt Nam được hưởng những quyền về luật pháp như người Châu
Âu. Cũng như ông đòi hỏi quyền tự do lập hội, tự do ngôn luận, báo chí và quyền
tự do đi lại cho người dân Việt Nam dưới thời Pháp Quốc bảo hộ.
Tiếc rằng 100 năm đã trôi qua từ khi lãnh tụ tối cao
của ĐCS Việt Nam đòi hỏi những yêu sách ấy cho người dân Việt Nam. Thì ngày nay
tự do báo chí của Việt Nam vẫn là một mầu đen kịt trên bản đồ tự do báo chí của
Tổ Chức Phóng Viên Không Biên Giới. Đáng tiếc nữa là mặc dù ông Hồ Chí Minh đòi
hỏi ở người Pháp phải để cho người dân Việt Nam được hưởng quyền về luật pháp
như người dân Châu Âu, thì hiện nay chính phủ Việt Nam của ông Hồ Chi Minh
thành lập lại đang xiết chặt quyền của người dân Việt Nam sử dụng intenet bắng
nghị định ( sắc lệnh) khiến bản thân chính phủ Pháp ngày nay cũng phải quan
ngại.
Những người sử dụng intenet ở Việt Nam rất lo âu
trước nghị định bao gồm quá nhiều điều khoản mơ hồ, nhưng có thế dễ dàng kết
tội những người sử dụng.Y như điều luật 258 trong BLHS nước CHXHCN Việt Nam .
Mới đây hồi tháng 5 đã có 3 blogge bị bắt vì điều 258 của bộ luật hình sự đó là
nhà báo Trương Duy Nhất, nhà văn Phạm Viết Đào và bloger Đinh Nhật Uy. Hãy xem
nội dung của điều 258 luật hình sự Việt Nam.
Điều
258. BLHS.
Người
nào lợi dụng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo,
tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà
nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân thì bị phạt cảnh cáo, cại
tạo, hoặc tù ...
Điều
24 chương I của nghị định 72
An
ninh thông tin trên mạng không gây phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự an
toàn xã hội, bí mật nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức cá nhân.
Rõ ràng nghị định 72 đưa ra để nhằm xác định đối
tượng cho điều luật 258. Trong nghị định 72 có điều khoản buộc người sử dụng
internet phải đăng ký thông tin cá nhân. Cho phép Bộ Công An kết nối thiết bị
với nhà cung cấp dịch vụ intenert để lấy thông tin cá nhân người dùng. Ở chương
V điều 39 khoản 2 tiết D của nghị định này cho phép với lý do an ninh thông tin
Bộ Công An có quyền sau .
đ)
Tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện việc thu thập, phát hiện, điều tra, xử lý
thông tin, tài liệu, hành vi liên quan đến hoạt động cung cấp, sử dụng dịch vụ
Internet và thông tin trên mạng để xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn
xã hội, bí mật nhà nước và các hoạt động tội phạm khác
Khái niệm '' trật tự an toàn xã hội '' là khái niệm
mà Bộ Công An đã áp dụng để ngăn chặn, trấn áp những cuộc biểu tình ôn hòa, những
vụ khiếu kiện đông người. Như vậy có thể hiểu thêm rằng nghị định này 72 ra đời
còn nhằm ngăn cản những lời kêu gọi hội họp biểu tình trên internet, có nghĩa
ngăn chặn các cuộc biểu tình ôn hòa của người dân Việt Nam ngay từ khi còn
trứng nước. Cùng với nghị định 38 của Chính phủ quy định tụ tập 5 người trở nên
phải xin phép chính quyền, người dân muốn hội họp biểu tình chỉ còn cách kêu
gọi trên internet để cùng nhau đến điểm nào đó nay đã bị giới hạn bởi nghị định
72. Trong khi luật biểu tình chưa được nhà nước Việt Nam ban hành, thì chính
phủ đã đánh một đòn dưới thắt lưng về quyền biểu tình của người dân bằng những
nghị định như 38, 72 này.
Điều 4 khoản 5 của nghị định này đòi kiểm soát những
thông tin bên ngoài đi vào trong nước Việt Nam. Chúng ta có thể hiểu nghị định
này hợp pháp hóa việc chính quyền dựng lên bức tường lửa để ngăn chặn những
thông tin mà nhà nước Việt Nam cho là không phù hợp ý họ.
Điều 21 khoản 5 buộc các cá nhân cung cấp, tán phát
thông tin trên mạng phải chịu trách nhiệm theo quy định pháp luật. Một trong
những cái gọi là '' quy định pháp luật " được giới thiệu ở khoản 1 điều
21, đó là '' các quy định pháp luật về xuất bản , báo chí ''. Một cách lập lờ,
nghị định này đã đưa những cá nhân người sử dụng intenert phải theo quy định
pháp luật của luật báo chí nước CHXHCN Việt Nam. Oái ăm luật báo chí chi cho
phép cá nhân công dân được quyền tự do bày tỏ ý kiến trên báo chí. Mà báo chí
Việt Nam do Ban tuyên giáo của Đảng Cộng Sản kiểm soát. Như vậy công dân có
quyền bày tỏ ý kiến mình, nhưng phải đưa lên báo do Đảng cộng sản kiểm soát. Ý
kiến được đăng tải hay không lại là quyền của người kiểm soát báo chí. Luật báo
chí như vậy, nghị định gò ép theo luật báo chí như vậy. Cá nhân người dân sử
dụng internet muốn đưa ý kiến của mình tới dư luận theo cách nào.? Phải chăng
người dân chỉ có quyền sử dụng mail gửi ý kiến của mình đến báo điện tử của
Đảng Cộng Sản quản lý và chờ họ xem xét rồi trả lời có đăng hay không.? Còn họ
chưa trả lời, tự ý đăng trên trang mạng cá nhân là vi phạm quy định pháp luật
về báo chí.?
Không khó khăn gì để thấy những điều khoản ở nghị
định 72 của Chính phủ Việt Nam chứa những nội dung để làm hạn chế quyền tự do
ngôn luận, quyền tự do lập hội , tự do kêu gọi biểu tình. Những quyền lợi mà
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc , người khai sáng ra thể chế này đã từng lên án nước
Pháp đã không trao cho nhân dân Việt Nam những quyền lợi như người châu Âu cách
đây gần 100 năm.
Nếu tới đây ngoại trưởng Pháp Fabius có gặp lại thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Paris, người đã ban hành nghị định 72 này. Xin ngài
Fabius có đôi lời nhắc lại những gì ông Nguyễn Ái Quốc tức Hồ Chi Minh ( người
đã thành lập chính phủ Việt Nam đến ngày nay mà ông Nguyễn Tấn Dũng đang điều
hành chính phủ) đã từng đứng trên đất Pháp đòi hỏi chính phủ Pháp quyền lợi gì cho
người dân Việt Nam cách đây gần 100 năm.
No comments:
Post a Comment