Phạm Chí Dũng
Gửi cho BBC từ Sài Gòn
Cập nhật: 14:22 GMT - thứ hai, 26 tháng 8, 2013
Một “triển vọng” đang ngày càng rõ dần là bối cảnh xã hội
Việt Nam đang gần hoàn tất giai đoạn vận động thứ hai của nó, nếu lấy mốc từ
thời điểm mở cửa kinh tế những năm 1990.
Nhưng cho tới giờ, ở Việt Nam hầu như chưa hình thành một
lực lượng đối lập, chưa mang tính đối trọng đủ lớn đối với chính quyền để ít
nhất có thể tác động nhằm điều chỉnh một số chính sách và hoạt động thực hành
chính sách.
Những tiền đề đối trọng ở Việt Nam cho tới nay vẫn chỉ là
phong trào phản biện xã hội đa dạng và đa tầng, thể hiện chủ yếu qua ý kiến chứ
không phải bằng những hành động sâu xa hơn.
Ngoài nhóm “Kiến nghị 72” và vài nhóm blogger, đa phần
còn lại là những cá nhân phân tán và hoạt động manh mún.
Tác động của hoạt động bất đồng chính kiến đối với chế độ
chỉ có ý nghĩa như một xúc tác phụ.
Nếu không được tác động sâu sắc bởi hành động của lực
lượng đối trọng, hoặc không có một số tác động vừa thuyết phục vừa áp lực về
chính sách kinh tế, quân sự và chính trị, ngoại giao từ Mỹ và phương Tây, nền
chính trị Việt Nam sẽ do chính nội bộ trong lòng nó quyết định.
Mọi chuyện ở Việt Nam đang diễn ra theo một quy luật: vô
cảm quan chức tỷ lệ thuận với tham nhũng và quyền lợi của nhóm lợi ích.
Thời gian suy thoái kinh tế từ đầu năm 2011 đến nay đã
cho thấy một hiện tượng xã hội rất đặc trưng: bất chấp sự phản ứng và tâm trạng
phẫn uất của nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều nhóm lợi ích và chủ nghĩa thân hữu
vẫn liên kết đầy se sắt, hòa quyện vào nhau với độ kết dính như thể bám víu vào
sự tồn tại cuối cùng.
Người ta có thể nhìn ra rất nhiều minh chứng cho thái độ
bất chấp đó từ những cú làm giá không tiền khoáng hậu của các nhóm đầu cơ bất
động sản, chứng khoán và vàng, kể cả những nhóm lợi ích có quyền lợi can dự như
điện lực và xăng dầu.
Song song với trào lưu lợi ích ấy, cũng có nhiều bằng chứng
về hoạt động chạy chính sách vì đặc quyền đặc lợi cho “tư sản đỏ”.
Tác động ở tầm mức mạnh mẽ nhất của người dân và xã hội
đối với thể chế cầm quyền ở Việt Nam nhiều khả năng sẽ được quyết định bằng
việc có hay không mối cộng hưởng của một cuộc khủng hoảng kinh tế ở chính đất
nước này.
Trong 2-3 năm nữa thôi, chính đảng cầm quyền ở Việt Nam
sẽ có thể phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng kinh tế với hậu quả chưa có
tiền lệ tính từ giai đoạn lạm phát tăng đến 600% vào những năm giá – lương –
tiền 1985-1986.
Những kịch bản kinh tế - chính trị
Kịch bản 1: Trong trường hợp cuộc suy thoái
kép hoặc khủng hoảng kinh tế thế giới chưa nổ ra vào những năm tới, và do vậy
nền kinh tế Việt Nam vẫn có thể trì kéo tấm thân băng hoại rệu rã của nó, tình
thế vẫn chưa diễn ra một sự thay đổi đủ lớn.
Những phản ứng tự phát của dân hiện không mang tính hệ
thống và hình thành các liên kết sâu rộng và thường thể hiện bằng biểu
tình, thậm chí bạo động cục bộ vẫn có thể bị chính quyền phong tỏa và đàn áp.
Tiếng nói của các nhóm trí thức dân chủ và kể cả những
nhóm chính trị có mục tiêu đối kháng và triển khai bằng hành động sẽ chỉ đóng
vai trò xúc tác mà không thể hiện tính dẫn dắt cho một phong trào đối lập nhằm
thay đổi thể chế.
Kịch bản 2: Trong trường hợp xảy ra suy thoái
hoặc khủng hoảng kinh tế thế giới, những lô cốt cuối cùng của nền kinh tế Việt
Nam sẽ có thể bị tàn phá cùng nhiều hệ lụy trực tiếp.
Vốn đang nằm trong xu thế không chỉ suy thoái gần như
toàn diện nội lực trong nước mà còn quá kém hiệu quả trong cơ chế xuất khẩu và
chịu ảnh hưởng không nhỏ từ làn sóng thoái vốn đầu tư nước ngoài, Việt Nam sẽ
nhanh chóng rơi vào tình thế bĩ cực không lối thoát. Một cuộc khủng hoảng toàn
diện đối với nền kinh tế Việt Nam cũng từ đó mà khởi phát.
Cuộc khủng hoảng có thể như thế còn cần được tính thêm
một yếu tố cộng hưởng rất “láng giềng”: Trung Quốc.
Nếu hệ lụy khủng hoảng kinh tế thế giới được bắt nguồn từ
khủng hoảng của kinh tế Trung Quốc, Việt Nam sẽ phải chịu hiệu ứng kép: một do
suy thoái kinh tế giai đoạn cuối, một do động loạn từ Trung Quốc.
Trong cả hai yếu tố hiệu ứng tác động đó, xã hội Việt Nam
đều có thể rơi vào vòng bế tắc. Nền kinh tế vốn đã què quặt, cộng thêm nhân tố
rối loạn xã hội, sẽ khiến cho chính thể cầm quyền hết sức khó khăn trong việc
duy trì quyền lực của mình để kiểm soát xã hội.
Phản ứng của nông dân về đất đai, của công nhân về nạn
thất nghiệp và điều kiện làm việc, của tiểu thương về buôn bán, của công chức
và giới về hưu về an sinh xã hội… sẽ liên tiếp xảy ra với quy mô ngày càng
rộng.
Phản ứng của người dân đối với nhân viên công quyền cũng
sẽ diễn ra dày đặc và mang tính tự phát với tính đối đầu nhiều hơn, ban đầu tản
mạn và tự phát, sau đó sẽ có xu hướng liên đới để hình thành những phong trào,
kể cả tổ chức phản kháng, của nông dân, công nhân, trí thức và với cả một số
tôn giáo như Công giáo, Phật giáo Hòa hảo thuần túy, Tin Lành.
Kịch bản về không gian phản ứng và phản kháng sẽ có thể
bắt nguồn từ nông thôn miền Bắc với nông dân, thậm chí ngay tại Hà Nội với
thành phần trí thức, sau đó lan rộng ra các khu vực khác của đất nước như miền
Trung, Tây Nguyên và một số tỉnh ở miền Tây Nam Bộ.
Trong một số trường hợp phản ứng xã hội đặc biệt sâu sắc
về nguyên nhân và tính chất, bạo động và có thể cả bạo loạn sẽ xảy ra.
Đó là chưa kể đến những hoạt động phản ứng riêng rẽ và có
tổ chức chặt chẽ hơn nhiều của các tôn giáo có xu hướng ly khai với nhà nước,
trong đó có một phần Công giáo, Tin lành, Phật giáo Việt Nam thống nhất và Phật
giáo Hòa hảo thuần túy.
Gần như trái ngược với Kịch bản 1, xác suất suy thoái kép
hoặc khủng hoảng của kinh tế Việt Nam trong Kịch bản 2 có thể lên đến ít nhất
70% trong những năm tới. Và dĩ nhiên, sự đổi khác chính trị cũng phải liền mạch
và trực tiếp với các biến động kinh tế.
Lối thoát từ TPP?
Cuộc suy thoái hoặc khủng hoảng kinh tế thế giới, nếu xảy
ra với xuất phát điểm từ Trung Quốc, có thể rơi vào thời gian hai năm
2016-2017. Đó cũng là thời gian chứng nghiệm những nỗ lực cuối cùng và mang
tính quyết định cho sự tồn tại của đảng Cộng sản Việt Nam.
Nếu không tự thay đổi, và hơn nữa phải cải cách một cách
gấp rút theo hướng hạn chế quyền lợi của các nhóm lợi ích và nhóm thân hữu,
đồng thời gia tăng mối quan tâm thực tế cho các tầng lớp dân sinh, trong đó đặc
biệt là nông dân và công nhân, cũng như thực thi quyền tự do dân chủ về ngôn
luận, báo chí và tôn giáo một cách đúng nghĩa…, đảng cầm quyền sẽ vấp phải một
thử thách mà có thể xác quyết sự tồn vong của chính nó.
Một trong rất ít lối thoát để thoát khỏi vòng xoáy kinh
tế - chính trị là TPP – Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương. Thế
nhưng, điều quá rõ ràng là trong hiện tình, TPP chỉ có thể được sinh sôi ra từ
lòng thành chính trị, tương ứng với các điều kiện về dân chủ và nhân quyền.
Cơ hội để “thoát Trung” cùng vô số nguy cơ về an ninh Biển
Đông có thể được giải thoát bởi người Mỹ.
Nếu tận dụng cơ hội này, với điều kiện phải thể hiện được
bản lĩnh của mình trong mối giao hòa với tâm cảm của đại đa số người dân trong
nước và mục tiêu chiến lược địa chính trị của phương Tây, chính đảng cầm quyền
sẽ có được cơ hội tránh thoát một phần ảnh hưởng của Bắc Kinh, trong khi nhận
được sự hậu thuẫn của Washington và Cộng đồng châu Âu.
Cuộc khủng hoảng kinh tế tiềm tàng ở Việt Nam cũng do đó
có thể sẽ được khuôn hẹp với những hậu quả không quá lớn.
Nếu thành công trong cơ chế “xoay trục” sang phương Tây,
chính đảng cầm quyền ở Việt Nam dù có phải “trả giá” bằng một chế độ cởi mở hơn
về dân chủ nhân quyền và chấp nhận sự tồn tại của một hình ảnh mang tính trang
trí về một xã hội dân sự manh nha tại đất nước này, kể cả việc phải chấp nhận
một lực lượng đối lập ôn hòa…, vẫn có thể duy trì được quyền lực một đảng chi
phối và quyền lợi của giới lãnh đạo thêm một thời gian nào đó.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của ông Phạm Chí
Dũng từ TP Hồ Chí Minh.
No comments:
Post a Comment