Việt-Long-GS Nguyễn Mạnh Hùng
2013-08-01
2013-08-01
Chuyến
công du của Chủ tịch Nước của Việt Nam sang Hoa Kỳ được những ý kiến trong và
ngoài nước nhận xét khá khác biệt, khác biệt ngay cả giữa những ý kiến từ
bên ngoài Việt Nam. GS Nguyễn Mạnh Hùng trả lời cuộc phỏng vấn của Việt-Long,
nói lên nhận định của một chuyên gia trong lãnh vực bang giao quốc tế. GS dạy
môn bang giao quốc tế tại đại học George Mason ở Virginia, Hoa Kỳ.
Tính chất của hai hiệp ước với Trung Quốc và Hoa Kỳ
Việt-Long: Việt Nam và Hoa Kỳ ký
kết thoả thuận thiết lập đối tác toàn diện, giữa những thoả ước khác về TPP,
hợp tác an ninh quốc phòng, khoa học, giáo dục... trong đó có thoả thuận tăng
cường hợp tác tại các diễn đàn an ninh quốc phòng khu vực. Trước đó Việt Nam đã
ký với Trung Quốc một hiệp định chiến lược trong đó quy định hai nước phối hợp
và điều phối với nhau trong chính sách ngoại giao. Những hiệp định này với nội
dung như vậy có gì tương đồng hay mâu thuẫn về quyền lợi không?
GS
Nguyễn Mạnh Hùng:
Hai hiệp định này khác nhau. Với Trung Quốc, Việt Nam ký hiệp ước hợp tác chiến
lược toàn diện, còn với Hoa Kỳ, đó là hiệp ước đối tác toàn diện, không có từ
"chiến lược", hai cái khác nhau nhiều, không có gì mâu thuẫn.
Tại Trung tâm nghiên cứu chiến lược và bang giao quốc tế CSIS ở Washington D.C.
khi được hỏi liệu thoả ước giữa Mỹ với Việt Nam có anh hưởng đến bang giao
với các nước khác không, ông Trương Tấn Sang đã khẳng định Việt Nam là một nước
thành viên Liên Hiệp Quốc, có quyền ký kêt hiệp ước với bất kỳ thành viên nào
của Liên Hiệp Quốc.
Việt-Long: GS cho biết thành
quả nào quan trọng nhất trong Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ-Việt vừa qua.
Những bất cập
GS
Nguyễn Mạnh Hùng:
Một cách tổng quát, thành quả không đúng như dự đoán, nhưng cũng có một số điều
thuận lợi. Trước hết, về những gì không đúng theo tiên đoán, hay ước vọng, thì
trong hội nghị Shagri La, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đoc một diễn văn rất lớn,
nói rằng Việt Nam muốn thiết lập đối tác chiến lược với tất cả các hội viên
thường trực của Hội đồng Bảo An; ba năm trước đó Ngoại trưởng Mỹ Hillary
Clinton cũng nói Hoa Kỳ muốn tạo đối tác chiến lược với Việt Nam, Hai bên đều
có ý muốn đó. Sau đó Việt Nam đi nhiều nước để ký các hiệp ước đối tác chiến
lược. Riêng đối với Mỹ khi đến đây người ta không thấy chuyện đó.Như vậy rõ
ràng đã không như tiên đoán, hay kỳ vọng.
Điểm
thứ hai: Khi Bộ trưởng quốc phòng Phùng Quang Thanh rồi sau đó là Tổng tham mưu
trưởng Đỗ Bá Tỵ sang Mỹ trước ông Sang có một tháng thôi, có nói Việt Nam muốn
thiết lập quan hệ toàn diện với Mỹ, trong đó có quan hệ quốc phòng nữa. Như vậy
chuyến đi của ông Sang cũng không đưa đến những gì khác biệt với những điều như
ông Tỵ đã nói, và kém với những gì mong muốn của ông Dũng.
Điểm
kế tiếp, ông Thanh cùng ông Tỵ đều nói nếu bình thường hoá quan hệ quốc phòng
thì dĩ nhiên phải bỏ lệnh cấm vận vũ khí sát thương với Việt Nam, nhưng việc đó
cũng không xảy ra. Vì vậy một chuyến thăm lớn mà không đạt được những kết quả
đó thì không đúng với dự đoán hay ước vọng.
Những thành đạt
Tuy
nhiên, ngược lại, có những điểm khác phản ảnh mối quan tâm của Việt Nam. Có một
điều ít người để ý là trong bản tuyên bố chung của hai nhà lãnh đạo, thường
thường có những điều khoản tôn trọng lẫn nhau, lưỡng lợi, không can thiệp nội
bộ... thì lần này có câu "tôn trọng thể chế chính trị" của nhau. Điều
đó phản ảnh sự quan tâm của Việt Nam. Một điểm khác cũng ít được để ý, là hai
ông đều nhấn mạnh tầm quan trọng của việc học tiếng Anh ở Việt Nam để Việt Nam
có thể hoạt động hữu hiệu hơn khi TPP được lập ra. Đó là mối quan tâm của hai
người, và là điều ông Mỹ muốn. Trong lãnh vực hợp tác thì Việt Nam cũng được
một điều là lần đầu tiên thông cáo chung nói đến vấn đề biển Đông, gọi là biển
Nam Trung hoa. Trong đó Tổng thống Mỹ có ý muốn quốc tế không sử dụng võ lực;
điều này đúng với lập trường của Việt Nam, hay có thể nói Mỹ thiên về lập
trường của Việt Nam rõ rệt hơn trong vấn đề biển Đông.
Một
điểm quan trọng nữa, là hiệp ước giữa công ty dầu khí Mỹ với Petro Vietnam.
Trung Quốc thường doạ là nước ngoài không nên phát triển khai thác gần vùng
tranh chấp (ở biển Đông), nay Mỹ xác nhận là những công ty này sẽ hoạt động ở
(nơi đó) tại Việt Nam. Điều này giúp Việt Nam được an tâm hơn, với sự
giúp đỡ của Mỹ.
Đó
là những điều tôi thấy có positive.
Vấn đề an ninh quốc phòng
Việt-Long: Thoả thuận
hợp tác an ninh quốc phòng trong hội nghị thượng đỉnh vừa rồi có quy định tiếp
tục cộng tác theo tinh thần "bản ghi nhớ năm 2011 về tăng tiến hợp tác
quốc phòng song phương"; vậy thoả thuận này có đem lại cho Việt Nam một
bảo đảm nào về lãnh hải, lãnh thổ không?
GS
Nguyễn Mạnh Hùng:
Không có bảo đảm nào, chỉ có tăng cường hợp tác an ninh quốc phòng thôi. Tăng
cường như vậy thì đến đâu mới hay đến đó, Mỹ không bảo đảm gì cả. Chỉ có việc
là năm 2008 Tổng thống Bush có cam kết trong thông cáo chung với ông Dũng , có
nói là Mỹ "ủng hộ sự vẹn toàn lãnh thổ và độc lập chủ quyền của Việt Nam.
Ủng hộ không có nghĩa là cam kết bảo vệ, hai cái khác nhau, thì nguyên tắc đó
vẫn tiếp tục. Còn có cam kết bảo vệ nhau không thì tuỳ diễn tiến trong khi hai
bên có quan hệ quốc phòng.
Lợi ích của TPP
Việt-Long: Hiệp ước kinh
tế xuyên Thái Bình Dương TPP một khi hoàn tất có đem lại lợi ích gì cho Việt
Nam khi sức sản xuất của Việt Nam thua kém hầu hết các nước thành viên hiệp
ước?
GS
Nguyễn Mạnh Hùng: Có
nhiều cái lợi. Trước hết là mở được thị trường lớn của nước Mỹ. Những rào cản
cản trở những gì Việt Nam làm được sẽ mở ra, có lợi cho rât nhiều. Dĩ nhiên có
những rắc rối về sự đòi hỏi nguồn nhiên liệu (của hàng dệt may là một
ví dụ) nhưng TTP vẫn là điều lợi hiển nhiên nếu được thực hiện. Ngoài ra còn
những điều lợi khác, không thuần kinh tế mà có thể cũng gián tiếp liên quan
đến kinh tế, chẳng hạn khi tham gia hiệp ước đó thì phải cải tổ rất nhiều,
tức là đụng chạm đến vấn đề SOE, các công ty xí nghiệp quốc doanh, mà hiện nay
như là vùng cấm kỵ. Nên Việt Nam muốn cạnh tranh, bắt buộc phải cải tổ lãnh vực
đó. Và khi vào TPP thì có một initiative, có pressure, có áp lực bắt buộc
cải tổ, thì đó là điều tốt cho Việt Nam.
Thêm
nữa, khi Việt Nam vào TPP thì đại đa số trong đó là những nền kinh tế thị
trường, nên Việt Nam đương nhiên được chấp nhận như một nền kinh tế thị trường
với những quyền lợi của kinh tế thị trường mà hiện nay Việt Nam chưa có.
Trong
TPP thì Việt Nam là nước Cộng Sản duy nhất, các nước khác đều là không cộng
sản, họ đều là dân chủ hay bán dân chủ. Sự trao đổi này cũng có ảnh hưởng
khuyến khích Việt Nam cải tổ chính trị, học Việt-Long được kinh nghiệm của các
quốc gia để cải tổ cho thể chế của mình phù hợp với thể chế các nước khác, đưa
đến những sự cộng tác mật thiết hơn.
Những
điều lợi đó là những điều quan trọng mà không phải là tính bằng tiền.
Vấn đề nhân quyền
Việt-Long: Trong lãnh vực nhân
quyền hai bên không nói tới một trường hợp cụ thể nào, trong khi người mà Tổng
thống Obama từng nhắc đích danh, lá blogger Điếu Cày, thì vẫn đang tuyệt thực.
Những người khác từng được hành pháp và lập pháp Hoa Kỳ yêu cầu Việt Nam trả tự
do cũng không được nhắc tới trong thông cáo chung cũng như trong buổi họp
báo. Như vậy Hoa Kỳ đã đạt được lợi ích nào về mặt ủng hộ dân chủ và nhân
quyền trên thế giới, là lý tưởng và cũng là nhiệm vụ mà nước Mỹ tự gánh vác?
GS
Nguyễn Mạnh Hùng:
Tôi đã nói nhiều lần là quyền lợi quốc gia có ba loại: chiến lược, kinh tế và
quyền lợi về giá trị của mình, tức là value. Hoa Kỳ nói đến việc đó từ thời
Tổng thống Carter, và càng ngày vấn đề nhân quyền càng trở thành quan trọng
trong nội bộ nước Mỹ. Từ sau ông Carter nhiều định chế nhân quyền được lập ra.
Đã có định chế thì người ta phải hoạt động. Vì thể nhân quyền là vấn đề không bỏ
được.
Còn
lần này thì thông cáo chung có nói đến vấn đề nhân quyền. Có nhấn mạnh rằng vấn
đề nhân quyền rất quan trọng.
Những thành quả nhỏ, và nhãn quan tích cực
Việt-Long:
GS
vui lòng cho một nhận định tổng quát và toàn diện về hội nghị thượng đỉnh
vừa rồi giữa Hoa Kỳ và Việt Nam.
GS
Nguyễn Mạnh Hùng:
Về phương diện quốc gia, người ta thấy có một số điểm tiến tới giữa Việt Nam và
Mỹ, nhưng tương đối nhỏ. Phải chờ xem sau khi lập ra chín cơ chế tăng cường
quan hệ, người ta có làm được gì không, tiến bộ tới đâU. Nói cách khác đây là
một dự án chưa hoàn thành; tuy nhiên cũng đạt được một số điểm để tiến tới đó,
đó là điểm thứ nhất mà tôi thấy.
Điểm
thứ hai là, không đúng như người ta tiên đoán, hay kỳ vọng, như ký được TPP, ký
được đối tác chiến lược, thì chưa tới được chỗ đó.
Ngược
lại có vài điểm tuy nhỏ những cũng có positive đối với (trong nhãn quan
của) người Mỹ. Ví dụ cung cách hành xử của ông Trương Tấn Sang. Ông Sang
là một nguyên thủ Việt Nam đầu tiên đến phát biểu trong một thinktank hàng đầu
của nước Mỹ, là Trung tâm nghiên cứu chiến lược và bang giao quốc tế CSIS
(Center for Strategic and International Studies); dĩ nhiên bài nói chuyện của
ông Sang thì đã được soạn sẵn, nhưng phần trả lời thì ông trả lời rất lưu loát,
rất thoải mái trước một cử toạ toàn là những chuyên viên. Và tôi đã thấy
người ta vỗ tay ông ấy trong một số những câu trả lời. Điểm thứ hai, mà tôi
thấy ông cũng khôn khéo, là sau cuộc gặp gỡ ở CSIS thì ông Sang đi New York,
qua ngày hôm sau, sau một số buổi họp, tiếp tân, ông ấy đã đặc biệt gặp riêng
ông bà Clinton. Việc này là một hành động khá khéo léo, người ta có thể gọi là
"dùng hòn đá ném chết hai con chim". Thứ nhất ông ấy chứng tỏ Việt
Nam cảm nhận, cám ơn vị Tổng thống đầu tiên ra quyết định dỡ bỏ hàng rào với
Việt Nam, là người đầu tiên sang thăm Việt Nam khi ông (Clinton) còn tại chức.
Điều thứ hai là ông tìm cách, có thể là làm thân với ba Clinton, người có thể
trở thành Tổng thống Hoa Kỳ trong nhiệm kỳ tới. Đó là hành động đầu tư cho
tương lai, có ý nghĩa về phương diện bang giao giữa hai nước.
Việt-Long: Xin cám ơn giáo sư
đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn hôm nay.
No comments:
Post a Comment