Trần Gia
Phụng
August 10, 2013
August 10, 2013
Việt
Minh cộng sản đã giết Phạm Quỳnh (1892-1945) hai lần: Lần thứ nhất hạ sát, che
giấu và phi tang thân xác ông tại Huế năm 1945. Lần thứ hai, bóp méo lịch sử,
viết sai lạc về Phạm Quỳnh, nhằm hủy diệt luôn sự nghiệp và thanh danh của ông. Một câu hỏi cần
được đặt ra là lúc đó Phạm Quỳnh đã rút lui khỏi chính trường, tại sao cộng sản
lại giết Phạm Quỳnh, trong khi cộng sản không giết Trần Trọng Kim và toàn bộ
nhân viên nội các Trần Trọng Kim, là những người đang còn hoạt động? Câu
hỏi nầy cần tách ra làm hai phần để dễ tìm hiểu:
Thứ
nhất
Từ
khi đến Trung Hoa hoạt động năm 1924, Hồ Chí Minh, điệp viên của Đê Tam Quốc tế
Cộng sản, lúc đó có tên Nguyễn Ái Quốc, Lý Thụy, đã chủ trương “giết tiềm lực”.
Giết tiềm lực là tiêu diệt tất cả những cá nhân có khả năng tiềm tàng mà không
chịu theo chủ nghĩa cộng sản hay đảng Cộng Sản, có thể sẽ có hại cho đảng Cộng
sản trong tương lai. Những người nầy về sau có thể sẽ hoạt động chính trị và có
thể sẽ gây trở ngại, gây nguy hiểm cho sự phát triển của cộng sản. Nạn nhân
danh tiếng đầu tiên của chủ trương giết tiềm lực của Hồ Chí Minh là Phan Bội
Châu (1867-1940). Phan Bội Châu bị Lý Thụy bán tin cho Pháp, để Pháp bắt Phan
Bội Châu năm 1925 tại nhà ga Thượng Hải, nhằm đoạt lấy tổ chức của Phan Bội
Châu. (Tưởng Vĩnh Kính, Nhất cá Việt Nam dân tộc chủ nghĩa đích ngụy trang giả,
bản dịch của Nguyễn Thượng Huyền, Hồ Chí Minh tại Trung Quốc, California: Nxb.
Văn Nghệ, 1999, tt. 84-85.)
Từ
đó, Hồ Chí Minh và phe đảng thi hành chủ trương giết tiềm lực, ngầm thủ tiêu
rất nhiều thanh niên sinh viên hoạt động chính trị, và nhất là năm 1945, khi
nắm được quyền lực, Việt Minh (VM), mặt trận ngoại vi của đảng Cộng Sản Đông
Dương (CSĐD), đã giết hầu hết những nhân tài không theo VM.
Tại
Huế, VM tìm tất cả các cách nhắm cô lập vua Bảo Đại. Cách tốt nhất là cách
ly nhà vua với những người có khả năng và uy tín thân cận bên cạnh nhà vua,
trong đó quan trọng hơn cả là Phạm Quỳnh và Ngô Đình Khôi. Do đó, VM ra
lệnh bắt Phạm Quỳnh và Ngô Đình Khôi cùng con của ông Khôi là Ngô Đình Huân
ngày 23-8-1945. Đồng thời VM sắp đặt những người của VM như Tạ Quang Bửu,
Phạm Khắc Hòe vây quanh rỉ tai nhà vua, phóng đại về kháng chiến, về Việt
Minh.(Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, tr. 184.)
Theo
David G. Marr trong Vietnam 1945, The Quest for Power, sau khi Phạm Quỳnh và
hai cha con Ngô Đình Khôi bị bắt, người Nhật can thiệp một cách yếu ớt không
hiệu quả. Ngày 28-8, sáu người Pháp nhảy dù xuống một địa điểm cách kinh thành
Huế khoảng 20 cây số nhắm mục đích bắt liên lạc với vua Bảo Đại và các cựu quan
Nam triều. Lúc đầu, VM địa phương tưởng những người Pháp nầy là người của phe
Đồng Minh, cho họ trú tạm tại một ngôi nhà thờ, nhưng khi biết rằng đây là
những người Pháp có ý định tìm cách liên lạc với các quan chức Nam triều cũ, VM
liền giết bốn người, và cầm tù hai người đến tháng 6-1946. (David G. Marr, Vietnam
1945, The Quest for Power [Việt Nam 1945, đi tìm quyền lực]
University of California Press, tt. 452-453.)
Trong
khi cô đơn, lại bị Phạm Khắc Hòe xúi giục và hù dọa, vua Bảo Đại tuyên chiếu
thoái vị ngày 25-8-1945, và làm lễ thoái vị tại cửa Ngọ Môn ngày 30-8-1945, với
sự hiện diện của đại diện Việt Minh là Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, và Cù
Huy Cận.
Theo
hồi ký của Trần Huy Liệu, sau khi Nhật đầu hàng, người Pháp nhảy dù xuống Huế,
liền hỏi ngay đến Bảo Đại, Phạm Quỳnh và những người cộng tác với Pháp trước
đó. Việt Minh bắt được toán người Pháp nầy và “xử lý thích đáng” Ngô Đình
Khôi và Phạm Quỳnh. (Nguyên văn lời của Trần Huy Liệu.) Theo lối chơi chữ
của Trần Huy Liệu, “xử lý thích đáng” có nghĩa là thủ tiêu hai ông Ngô Đình
Khôi và Phạm Quỳnh.
Nhiều
người cho rằng việc người Pháp muốn kiếm cách liên lạc với cựu hoàng Bảo Đại và
Phạm Quỳnh (vì lý do gì không được rõ) vô tình đã làm cho VM lo ngại, sợ rằng
một khi người Pháp trở lui, Pháp sẽ nhờ Phạm Quỳnh và những người đã từng làm
việc với Pháp như Ngô Đình Khôi giúp Pháp lật ngược thế cờ, đưa cựu hoàng trở
lại cầm quyền.
Do
đó VM vội vàng “mời” cựu hoàng Bảo Đại rời Huế ngày 4-9-1945, ra Hà Nội làm cố
vấn chính phủ, để cách ly cựu hoàng với cố đô, chiếc nôi của nhà Nguyễn, đồng
thời cách ly cựu hoàng với những cận thần cũ. Vì vậy VM giết ngay các ông Phạm
Quỳnh, Ngô Đình Khôi ngày 6-9 để trừ hậu hoạn. Trong khi đó, nếu người Pháp trở
lui Huế, người Pháp cũng không hợp tác với Trần Trọng Kim, vì ông Kim và nội
các của ông bị gán cho là thân Nhật.
Thứ
hai
Khi
cướp chính quyền, VM đã chủ ý giết một số người trong đó có Phạm Quỳnh. Việt
Minh chủ ý giết Phạm Quỳnh vì:
1.
Phạm Quỳnh muốn xây dựng nền quân chủ lập hiến tại nước ta, và cho rằng cộng
sản là “nạn dịch” gây bất ổn xã hội. (Phạm Quỳnh, “Ce que sera l’Annam dans
cinquante ans?”[Nước Nam sẽ ra sao năm mươi năm sau?], Essais
franco-annamites (1929-1932), Huế: Nxb. Bùi Huy Tín, 1937, tr.
500.) Phạm Quỳnh muốn xây dựng nền quốc học trong khi Việt Minh muốn phổ
biến chủ nghĩa cộng sản.
2. Ở
trong nước, Phạm Quỳnh tiêu biểu cho giới trí thức làm văn hóa, theo chủ nghĩa
dân tộc, lập trường quốc gia, bất bạo động, dấn thân hoạt động chính trị. Việt
Minh giết Phạm Quỳnh để đe dọa, uy hiếp và khủng bố tinh thần giới trí thức
hoạt động văn hóa trên toàn quốc. Đây là lối mà người xưa gọi là “sát nhất
nhân, vạn nhân cụ “(giết một người, mười ngàn người sợ).
3.
Đối với nước ngoài, Phạm Quỳnh là người được Pháp ủng hộ và rất có uy tín trên
chính trường Pháp. Với đường lối ôn hòa, ông còn có thể được cả Nhật, Trung Hoa
(lúc bấy giờ do Tưởng Giới Thạch và Quốc Dân Đảng cầm quyền), Anh, Hoa Kỳ chấp
nhận hơn là đường lối cực đoan theo Liên Xô của Hồ Chí Minh.
4.
Hồ Chí Minh muốn chụp lấy ngay thời cơ tạo ra do khoảng trống chính trị sau tối
hậu thư Potsdam vào cuối tháng 7-1945, nên chủ trương tiêu diệt tất cả những
người nào có khả năng tranh quyền với Hồ Chí Minh, để cho ở trong cũng như
ngoài nước thấy rằng chỉ có một mình Hồ Chí Minh mới xứng đáng lãnh đạo đất
nước. Phạm Quỳnh đã từng là thượng thư bộ Lại, đứng đầu triều đình Huế. Đặc
biệt những điều ông viết về tương lai thế giới mà ông đưa ra từ 1930 trong bài
“Ce que sera l ‘ Annam dans cinquante ans?” [Nước Nam sẽ ra sao năm mươi năm
sau?] đều đã diễn ra đúng theo ông tiên liệu, như mối đe dọa của Nhật Bản, nạn
dịch cộng sản, xung đột Thái Bình Dương, đại hỏa hoạn ở châu Âu [thế chiến 2].
Nhờ thế mà uy tín Phạm Quỳnh lên rất cao.
Phạm
Quỳnh có uy tín và tư thế lớn đối với dư luận trong và ngoài nước, là một trong
những người có thể trở thành đối thủ đáng ngại của Hồ Chí Minh, nên Hồ Chí Minh
quyết tiêu diệt Phạm Quỳnh để tránh trở ngại về sau.
5.
Khi mới nổi dậy năm 1945, để lôi cuốn quần chúng, Hồ Chí Minh và Mặt trận Việt
Minh tuyên truyền rằng Hồ Chí Minh là nhà yêu nước, chứ không phải là đảng viên
cộng sản, và Hồ Chí Minh ra đi để tìm đường cứu nước, đồng thời Hồ Chí Minh tự
giấu thật kín chuyện xin vào học trường Thuộc Địa Paris mà bị loại. Một chuyện
nữa cũng thuộc loại “thâm cung bí sử” của Hồ Chí Minh là việc Nguyễn Ái Quốc
gia nhập Hội Tam Điểm (Franc-Maçonnerie) ở Paris vào đầu năm 1922. (Jacques Dalloz,
“Les Vietnamiens dans la franc-maçonnerie coloniale” [Người Việt trong hội Tam
Điểm thuộc địa], tạp chí Revue Française d’Histoire d’Outre-mer, Tam cá
nguyệt 3, 1998, Paris: Société Française d’Histoire d’Outre-mer, tr.
105.) Hội Tam Điểm là một hội có chủ trương chính trị đối lập với đảng
Cộng Sản và là kẻ thù của đảng Cộng Sản.
Cũng
trong năm 1922, theo lời mời của chính quyền Pháp, Phạm Quỳnh đến Paris diễn
thuyết tại Trường Thuộc Địa (École Coloniale) ngày 31-5-1922 về đề tài “Sự tiến
hóa về đường tinh thần của dân Việt Nam từ ngày đặt bảo hộ đến giờ”. Sau
đó, Phạm Quỳnh ở lại Paris để đi diễn thuyết vài nơi, kể cả Viện Hàn lâm Pháp.
Trong thời gian ở Paris, Phạm Quỳnh ghi nhật ký là đã gặp gỡ những “chí sĩ vào
hạng bị hiềm nghi”, và không nêu tên những người ông đã gặp trong nhật
ký. Tuy nhiên, trên sổ lịch để bàn, Phạm Quỳnh ghi rõ: [Thứ Năm, 13-17]:
“Ăn cơm Annam với Phan Văn Trường và Nguyễn Ái Quốc ở nhà Trường (6 Villa des
Gobelins)”. [Tờ lịch Chủ nhật 16-7]: “Ở nhà, Trường, Ái Quốc và Chuyền đến
chơi.” [Chủ nhật 16-7] [Chuyền có thể là Nguyễn Thế Truyền.]
Như
thế, Phạm Quỳnh là một trong những người biết rõ tung tích Hồ Chí Minh ở Paris,
biết rõ Hồ Chí Minh đã gia nhập hội Tam Điểm Pháp, và đặc biệt Phạm Quỳnh còn
sống cho đến 1945. (Những người khác như Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường,
Nguyễn An Ninh đều đã từ trần.) Phạm Quỳnh là một nho sĩ chính trực nên
ông không tiết lộ cho vua Bảo Đại biết điều nầy, do đó nhà vua mới bị Phạm Khắc
Hòe dẫn dụ về nhân vật Hồ Chí Minh. (Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, tt. 184-185.)
Phải chăng vì là người đã lỡ “biết quá nhiều” về Hồ Chí Minh mà Phạm Quỳnh bị
Hồ Chí Minh ám hại?
Do
những lẽ trên, nếu không có những người Pháp nhảy dù xuống Huế như tác giả
David G. Marr viết hay Trần Huy Liệu kể, cộng sản cũng vẫn giết Phạm Quỳnh.
Phạm Quỳnh và Trần Trọng Kim đều là hai nhà văn hóa, và chính trị nổi tiếng
trên toàn quốc. Trần Trọng Kim viết khảo cứu có tính cách hoàn toàn chuyên
môn, chứ không có chủ trương chính trị lâu dài; nội các Trần Trọng Kim gồm những
chuyên viên cần thiết cho việc xây dựng cơ sở căn bản trong giai đoạn chuyển
tiếp từ chính quyền Pháp qua chính quyền Việt. Trần Trọng Kim ít biết về những
hoạt động của Hồ Chí Minh lúc còn ở Paris.
Ngược
lại, Phạm Quỳnh trước tác với một ý hướng chính trị rõ ràng: xây dựng một nền
văn hóa dân tộc, bảo tồn quốc tuý, nâng cao trình độ văn hóa của dân chúng bằng
cách phổ biến văn hóa Âu tây, dịch thuật những tư tưởng dân quyền của
Montesquieu, Voltaire, Rousseau. Phạm Quỳnh tham gia triều đình Huế cũng nhắm
đến một chủ đích rõ ràng: tranh đấu ôn hòa, nhưng cương quyết yêu cầu Pháp trả
lại chủ quyền cho triều đình, và xây dựng một hiến pháp làm luật lệ căn bản của
quốc gia.
Ảnh
hưởng văn hóa và chính trị của Phạm Quỳnh khá rộng rãi trên các tầng lớp quần
chúng, nhất là giới trí thức trung lưu, từ lớp trí thức Nho học đến cả lớp trí
thức và thanh niên tân học. Tạp chí Nam Phong được các lớp người ưu tú ở các
địa phương lúc bấy giờ trên toàn quốc xem như loại sách báo giáo khoa chỉ
đường. Đó là điều mà cộng sản chẳng những không thể chấp nhận và cũng không thể
dung thứ, vì cộng sản muốn nắm độc quyền lãnh đạo chính trị, độc quyền yêu
nước, độc quyền chân lý.
Xin
hãy chú ý thêm ngày Phạm Quỳnh bị sát hại. Phạm Quỳnh bị bắt ngày
23-8-1945, và bị giết ngày 6-9, nghĩa là ông không bị nhóm VM địa phương
Huế giết liền khi họ nổi dậy. Vua Bảo Đại thoái vị ngày 30-8-1945 với sự chứng
kiến của đại diện chính phủ Việt Minh từ Hà Nội đến là Trần Huy Liệu (bộ trưởng
bộ Tuyên truyền), Nguyễn Lương Bằng và Cù Huy Cận (bộ trưởng không bộ nào tức
quốc vụ khanh). Phạm Quỳnh bị giam giữ một thời gian, rồi mới bị giết ngày
6-9-1945, nghĩa là lúc đó đã có mặt của đại diện trung ương của VM và của đảng
CSĐD.
Khi
đã có sự hiện diện của đại diện trung ương, các cán bộ VM địa phương chắc chắn
không dám tự tiện ra tay, mà chắc chắn phải có ý kiến của trung ương. Nhóm Trần
Huy Liệu cũng không thể tự quyết định được việc nầy. Như vậy phải chăng chính
nhóm Trần Huy Liệu đã đem lệnh từ Hà Nội vào Huế để giết Phạm Quỳnh? Và lệnh đó
từ đâu, nếu không phải là từ Hồ Chí Minh?
Sau
khi Phạm Quỳnh bị giết, hai người con gái đầu của ông là Phạm Thị Giá và Phạm
Thị Thức ra Hà Nội gặp Hồ Chí Minh. Dưới đây là lời kể của bà Thức:”… Tháng 8
năm 1945, Thầy tôi ra đi!… Sau đó, chị tôi [tên Giá] và tôi nhờ một anh bạn là
Vũ Đình Huỳnh ngày ấy là garde-corps [cận vệ] cho cụ Hồ, giới thiệu đến thăm cụ
và hỏi truyện [tức chuyện Phạm Quỳnh]. Cụ bảo: “Hồi ấy tôi chưa về… Và trong
thời kỳ khởi nghĩa quá vội và có thể có nhiều sai sót đáng tiếc…” (Hồi ký viết
tại Paris ngày 28-10-1992 của bà Phạm Thị Thức, nhân kỷ niệm 100 năm sinh Phạm
Quỳnh, tài liệu gia đình.)
Phạm
Quỳnh bị giết ngày 6-9-1945. Hồ Chí Minh cướp chính quyền ngày 2-9-1945, ra
lệnh “mời” Bảo Đại ra Hà Nội, và Bảo Đại rời Huế ngày 4-9-1945. Như thế có
nghĩa là Hồ Chí Minh đã về Việt Nam, đã cướp được chính quyền, đã nghĩ đến cựu
triều đình Huế, đến việc đưa Bảo Đại ra Hà Nội, vậy chắc chắn Hồ Chí Minh không
thể quên hay không biết chuyện Phạm Quỳnh. Lối lý luận của Hồ Chí Minh là cách
chối tội thông thường cổ điển của VM: “Mất mùa là tại thiên tai,/ Được mùa là
tại thiên tài đảng ta.)
Giết
xong Phạm Quỳnh, cộng sản tính việc hủy diệt luôn hình ảnh sáng chói nhà văn
hóa Phạm Quỳnh, tức giết Phạm Quỳnh lần thứ hai. Việc nầy thì không thể nói là
Hồ Chí Minh không biết gì cả. Đảng Cộng Sản quy chụp cho Phạm Quỳnh tội “phản
quốc, làm tay sai cho Pháp”. Gần 40 năm sau, trong Từ điển Văn Học, gồm
2 tập, mỗi tập trên 600 trang, gồm nhiều người viết, do Uỷ ban Khoa học Xã hội
xuất bản tại Hà Nội năm 1984, vẫn không có mục “Phạm Quỳnh”. Khi viết về các
nhóm văn hóa, sách nầy không thể loại nhóm Nam Phong vì nhóm Nam
Phong có khá nhiều tác giả nổi tiếng.
Nói
đến nhóm Nam Phong, trang 121-123, tập 2, tác giả Nguyễn Phương Chi,
trong ban biên tập từ điển, vẫn còn gọi Phạm Quỳnh là “bồi bút, phản
động”. Hơn thế nữa, năm 1997, trong Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, do
nhà xuất bản Văn Hóa, Hà Nội ấn hành, Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế biên
tập, mục “Phạm Quỳnh”, trang 758-759, hai tác giả nầy viết: “Hoạn lộ của ông
[chỉ Phạm Quỳnh] lên nhanh như diều gặp gió vì gắn bó mật thiết với các quan
thầy thực dân…Ngày 23-8-1945, Phạm bị các lực lượng yêu nước bắt ở Huế, rồi sau
đó bị xử bắn ở l.[làng] Hiền Sĩ, t.[tỉnh] Thừa Thiên, hưởng dương 53 tuổi.”
Các
tác giả cộng sản thường đưa ra chiêu bài yêu nước và dân tộc để quy chụp những
người không theo khuynh hướng của cộng sản là phản động, phản quốc, trong khi
chính vì Hồ Chí Minh khăng khăng đi theo cộng sản Liên Xô mà Việt Nam không
được các nước Đồng Minh thừa nhận sau năm 1945. Cũng chính vì đảng Cộng Sản chủ
trương ý thức hệ cộng sản mà gây ra mâu thuẫn quốc cộng, phá hoại tình đoàn kết
dân tộc, là một trong những nguyên nhân chính đưa đến chiến tranh Việt Nam từ
1946 đến 1975, và hậu quả còn kéo dài mãi cho đến ngày nay.
Sau
năm 1954, rồi 1975, chính đảng Cộng sản Việt Nam đã nhập cảng và áp dụng một
cách máy móc chính sách văn hóa Mác, Mao và kinh tế chỉ huy rập theo khuôn Liên
Xô và Trung Cộng, đã làm cho Bắc Việt rồi cả Việt Nam suy kiệt về mọi mặt cho
đến ngày nay mà chưa tìm ra lối thoát.
Nếu
nói rằng: Phạm Quỳnh hợp tác với Pháp để mưu cầu chủ quyền cho Việt Nam, bảo vệ
quyền lợi của quốc gia là làm tay sai cho ngoại bang, còn Hồ Chí Minh và đảng
cộng sản theo Nga Hoa, bán đứng quyền lợi đất nước, thì không phải là tay sai
ngoại bang? Nếu nói rằng Phạm Quỳnh hợp tác công khai với Pháp, viết bài
trình thuật rõ ràng các hoạt động của ông là phản quốc, trong khi Hồ Chí Minh
làm gián điệp cho Đệ tam Quốc tế Cộng sản, cầu viện Trung Quốc và Liên Xô là
không phản quốc?
Nếu
nói rằng Phạm Quỳnh viết bài quảng bá học thuật Âu tây, đề cao tư tưởng dân
quyền của Voltaire, Montesquieu, Rousseau là không có tinh thần dân tộc, còn
cộng sản phổ biến tư tưởng Marx, Lenin, và nhất là chủ nghĩa Stalin thì gọi là
gì? Phạm Quỳnh dịch thơ Corneille, Racine là bồi bút, còn Tố Hữu làm thơ gọi
Stalin là ông nội, “thương cha thương mẹ thương chồng / thương mình thương một
thương ông thương mười”, thì không bồi bút?
Nói
cho cùng, nếu Phạm Quỳnh chỉ là người học trò bình thường của Voltaire,
Montesquieu hoặc Rousseau thì cũng đáng mừng cho dân tộc Việt Nam, vì tư tưởng
của các nhà học giả Pháp nầy là ánh sáng soi đường cho nhân dân toàn thế giới
xây dựng nền tự do dân chủ phân quyền pháp trị.
Trong
khi đó Hồ Chí Minh là “một người học trò trung thành của Các Mác và V. I.
Lê-nin” (Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng trung ương, Chủ tịch Hồ Chí
Minh, tiểu sử và sự nghiệp, in lần thứ tư, Nxb. Sự Thật, Hà Nội, 1975, tr.
160.), và nhất là người học trò xuất sắc của Stalin, thì thực tế lịch sử đã chứng
minh rằng đó là hiểm họa độc tài đen tối khốc liệt nhất từ trước đến nay trong
lịch sử Việt Nam.
Dầu
sao, việc tuyên truyền của cộng sản một thời gây nhiễu xạ hình ảnh của Phạm
Quỳnh và ảnh hưởng không ít đến dư luận dân chúng, làm nhiều người, kể cả vài
kẻ tự mệnh danh là trí thức tiến bộ, hiểu sai về Phạm Quỳnh, và hiểu sai luôn
về một số nhân vật chính trị theo khuynh hướng quốc gia dân tộc. Phạm Quỳnh đã
từng nói: “Về phần tôi, tôi đã chọn con đường của tôi. Tôi là một người ở buổi
giao thời và tôi sẽ chẳng bao giờ được cảm thông…”. (Thư ngày 30-12-1933 của
Phạm Quỳnh gời Louis Marty, Hành trình nhật ký, Paris: Nxb. Ý Việt, 1997, phần
“Dẫn nhập”, không đề trang.)
Ngày
nay, sau những biến động đảo điên của thời cuộc, mọi người nên công tâm tìm
hiểu Phạm Quỳnh và nhìn lại sự nghiệp của ông. Trước ngã ba đường vào đầu
thế kỷ 20, giữa cựu học, Tây học, và tân học, Phạm Quỳnh chọn con đường tân
học, cải tiến và hoàn chỉnh văn học Quốc ngữ để làm phương tiện xây dựng quốc
học, vừa bảo vệ quốc hồn quốc túy, vừa bồi đắp thêm bằng cách du nhập những
tinh hoa văn hóa nước ngoài.
Chủ
trương hòa nhập văn hóa (acculturation) của Phạm Quỳnh xét cho cùng rất
quý báu và cần thiết cho đất nước, vì nếu chỉ mãi mê tranh đấu chính trị và
quân sự, mà không xây dựng nền văn hóa dân tộc dựa trên quốc hồn, quốc học và
quốc văn, thì người Việt vẫn bị trì trệ trong sự nô lệ tinh thần. Những đóng
góp của ông trong việc phát triển nền văn chương Quốc ngữ thật lớn lao. Những
vấn đề văn chương, triết lý tổng hợp đông tây ông đã viết, những ý kiến do ông
đưa ra trong các bài báo, kể cả những ý kiến ông tranh luận về truyện Kiều, về
Nho giáo, vẫn còn có giá trị. Giấc mơ của Phạm Quỳnh về quốc học, quốc hồn lại
càng cần được cổ xúy làm nền tảng giáo dục tinh thần cho mọi người Việt Nam
ngày nay ở trong cũng như ở ngoài nước. Phạm Quỳnh là nhà văn hóa lớn của Việt
Nam thời hiện đại.
Về
chính trị, Phạm Quỳnh viết nhiều tiểu luận bằng tiếng Việt cũng như bằng tiếng
Pháp để tranh đấu thực hiện lý tưởng chính trị của ông. Nhiều người thường đồng
nghĩa nền quân chủ với phong kiến hoặc thực dân, nên cho rằng quan niệm quân
chủ lập hiến của Phạm Quỳnh là thủ cựu. Cần phải chú ý là Phạm Quỳnh chủ trương
bất bạo động. Ông chọn thể chế quân chủ lập hiến với hy vọng thúc đẩy
Việt Nam chuyển biến một cách ôn hòa trong trật tự.
Nhìn
ra nước ngoài, hiện nhiều nước trên thế giới vẫn duy trì nền quân chủ lập hiến,
nhưng vẫn là những nước hết sức dân chủ như Anh Quốc, Nhật Bản, Thuỵ Điển, Bỉ…
Ở trong nước, xét trên chiều dài của lịch sử, từ ngày Pháp đặt nền đô hộ năm
1884 đến năm 1945, tuy các vua nhà Nguyễn bị người Pháp khống chế, nhưng vua
vẫn là biểu tượng cao cả của đất nước, nên các cuộc nổi dậy kháng Pháp từ Bắc
vào Nam đều quy hướng về một mối, đó là triều đình ở kinh đô Huế. Trái lại
từ năm 1945 trở đi, khi VM cộng sản cướp chính quyền, người Việt Nam bị chia rẽ
trầm trọng thành nhiều phe nhóm khác nhau, theo những quan điểm khác nhau. Do
đó, Phạm Quỳnh có phần hữu lý khi ông chủ trương cải cách ôn hòa, và chọn quân
chủ lập hiến theo đại nghị chế thay thế cho nền quân chủ chuyên chế.
Ngày
nay, cục diện chính trị Việt Nam đã thay đổi hẳn, quan niệm quân chủ lập hiến
của Phạm Quỳnh không còn phù hợp, nhưng không thể vì thế mà phủ nhận tinh thần
ái quốc, lòng can đảm và sự tận tình của ông trên con đường phụng sự quê hương.
Phạm Quỳnh đã âm thầm tranh đấu bất bạo động để đòi hỏi chủ quyền cho đất
nước. Ông đã hết lòng hoạt động vì nước và đã hy sinh vì lý tưởng của
mình. Đó là điều thật đáng trân quý nơi Phạm Quỳnh, nhà trí thức dấn thân hoạt động
chính trị.
Một
điều đáng ghi nhận cuối cùng trong cách thức hành xử của Phạm Quỳnh. Ông
theo đuổi một lý tưởng chính trị trường kỳ và bất bạo động, nên ông luôn luôn
cố gắng làm những gì có lợi cho đất nước và đồng bào, đồng thời tránh không làm
bất cứ việc gì có hại cho quốc gia dân tộc. Phạm Quỳnh sống lương thiện, không
tham ô nhũng lạm, và cũng không hề gây tội ác giết hại đồng bào. Thái độ nầy là
điều mà rất ít nhà hoạt động chính trị của mọi khuynh hướng thực hiện được, và
là một điểm son sáng chói phân biệt Phạm Quỳnh với những người ra hợp tác với
Pháp để trục lợi cầu vinh.
Đây
là điều cần phải được tách bạch. Trong việc hợp tác với Pháp, có hai hạng
người: hạng thứ nhất là những kẻ hợp tác để mưu cầu danh lợi riêng tư, lợi dụng
quyền thế, hống hách bóc lột đồng bào; hạng thứ hai ra tham chính, làm việc với
Pháp, không dựa vào quyền thế để hiếp đáp dân chúng, mà dùng quyền thế để cứu
giúp đồng bào, và vẫn giữ được khí tiết riêng của mình như Nguyễn Trường Tộ,
Pétrus Trương Vĩnh Ký, và biết bao nhiêu người vô danh khác.
Phải
tránh vơ đũa cả nắm, và phải rõ ràng như thế mới hiểu được tâm trạng cùng sự
can đảm của những nhà trí thức, trong hoàn cảnh éo le của đất nước, dấn thân
hoạt động chính trị, phụng sự dân tộc, nhất thời đã bị hiểu lầm sau những cơn
lốc tranh chấp chính trị kéo dài trên quê hương yêu dấu, trong đó Phạm Quỳnh là
trường hợp điển hình nhất.
Trần
Gia Phụng
(Toronto, Canada)
(Toronto, Canada)
-------------------------------------------------
No comments:
Post a Comment