Lữ Giang
Posted on August 20, 2013 by editor
— 0 Comments
“Hoa Kỳ sẽ không để vấn đề Dân chủ, Nhân quyền gây
ảnh hưởng và cản trở bước phát triển trong mối quan hệ song phương giữa Trung
quốc và Hoa Kỳ.” – Hillary Clinton.
Trong các năm 1992 và 1993, phái đoàn Hoa Kỳ đã đến
Việt Nam nhiều lần, nói là để tìm các quân nhân Mỹ mất tích (MIA). Nghe thế,
cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lúc đó đang ở Massachusetts, đã lên tiếng nói
rằng nếu ông còn lãnh đạo Việt Nam ông sẽ giải quyết vấn đề này một cách nhanh
chóng. Nhiều người đã cười.
Khi đang cầm quyền, ông Thiệu chẳng biết Mỹ và CSVN
làm gì, ông cứ hành động theo cảm tính. Khi mất chức rồi ông vẫn tiếp tục suy
nghĩ và tuyên bố như thế. Ông không biết người Mỹ đang trở lại Việt Nam dưới
danh nghĩa tìm MIA, nhưng trong thực tế là bàn việc bãi bỏ cấm vận và
thành lập bang giao với Việt Nam.
Ngày 3/02/1994: Tổng thống Bill Clinton tuyên bố bỏ
hoàn toàn cấm vận Việt Nam và lập cơ quan liên lạc giữa hai nước.
Ngày 11/07/1995: Tổng thống Bill Clinton tuyên bố
bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
Lịch
sử tái diễn
Bản tin của đài VOA ngày 12.8.2013 cho biết hôm
10/08/2013, một phái đoàn của Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Hoa Kỳ đã đến Việt Nam
được nói là “để tìm hiểu về thực trạng nhân quyền của Hà Nội trong bối cảnh
nhân quyền Việt Nam đang bị chú ý.” Thành viên chính của phái đoàn gồm có ba
người:
1. Ông Hunter M. Strupp, Chuyên gia phân tích Chính sách Châu Á, Ủy Ban Đối
Ngoại Hạ viện Hoa Kỳ
2. Bà Janice Kaguyutan, Tham mưu Trưởng cho Ủy Ban Đối Ngoại Hạ viện
Hoa Kỳ
3. Bà Joan O’Donnell Condon, Thành viên giúp việc cao cấp của Ủy Ban Đối
Ngoại Hạ viện Hoa Kỳ.
Trong khi đó, Hạ Viện Mỹ biểu quyết dự luật HR
1897 ngăn chận viện trợ phi nhân đạo cho Việt Nam nều không cải thiện về nhân
quyền.
Đa số người Việt chống cộng đã vui mừng về các hoạt
động này của Mỹ. Nhưng các chuyên gia tin rằng Hoa Kỳ đang đến thảo luận với Hà
Nội về kế hoạch trở lại Đông Nam À của Mỹ, dân chủ và nhân quyền chỉ là một
chiêu bài, giống như vụ MIA trước 1994. Bản tin của VOA nói trên có nói thêm:
“Chuyến đi được thực hiện giữa lúc Việt-Mỹ thương
lượng về Hiệp ước Đối tác Xuyên Thái Bình Dương TPP, giữa lúc Hoa Kỳ tuyên bố
nghiêm túc xem xét việc bỏ cấm vận bán võ khí sát thương cho Việt Nam với một
số điều kiện nhất định bao gồm cải thiện nhân quyền, và giữa những lời đề nghị
đưa tên Việt Nam trở lại danh sách các nước cần đặc biệt quan tâm về tự do tôn
giáo CPC.”
Kế hoạch Mỹ trở lại Đông Nam Á đã được đưa ra từ năm
2001 để ngăn chận sự bành trướng của Trung Quốc, nhưng vì xảy ra cuộc chiến với
khối Hồi Giáo nên kế hoạch này đã được đình hoãn lại. Nay vì sự lộng hành của
Trung Quốc, Hoa Kỳ thấy cần phải xúc tiến ngay. Nhưng vấn đề không giản dị. Có
nhiều dấu hiệu cho thấy Hoa Kỳ đang úy thác việc phát triển kinh tế ở Đông Nam
Á cho Nhật Bản và Hoa Kỳ đứng đàng sau.
Trước hết, chúng tôi xin trình bày tổng quát về kế
hoạch trở lại Đông Nam Á của Mỹ, sau đó sẽ nói về những biện pháp mà Hoa Kỳ
đang tiến hành.
Kế
hoạch trở lại Đông Nam Á
Ngày 20/07/2001, Đài Á Châu Tự Do, dưới đầu đề “Một
đề nghị chính sách mới cho Hoa kỳ đối với ASEAN” đã cho phổ biến một tài liệu
mang tên “Hoa kỳ và Đông Nam Á: Đề nghị một chính sách mới cho tân chính
phủ Bush” của Hội đồng Bang giao Quốc tế của Mỹ, một tổ chức rất có ảnh
hưởng như một cơ quan tư vấn trong việc hoạch định chính sách ngoại giao của
Hoa kỳ.
Tài liệu này là sản phẩm của một ban nghiên cứu do
cựu Thượng Nghị sĩ John Kerry thuộc đảng Dân chủ ở bang Nebraska chủ tọa và ông
Robert A. Manning điều hành. Chúng tôi xin tóm lược những nét chính.
Thượng Nghị sĩ John Kerry nói:
“Đông Nam Á là một vùng rất quan trọng đối với Hoa
kỳ. Nói thế không có nghĩa là vùng này là chuyện sống còn đối với Hoa kỳ nhưng
đó vẫn là một vùng mà mậu dịch với chúng ta rất là to lớn. Năm 1997 chúng ta đã
thấy là vụ đồng baht Thái lan mất giá đã có thể tác hại đến như thế nào…”
Tài liệu viết:
“Kinh nghiệm của Hoa kỳ ở Châu Á chỉ cho chúng ta
thấy là chúng ta sẽ có thể gặp rất nhiều rủi ro ngày nào chúng ta còn lãng quên
vùng Đông Nam Châu Á.”
Tài liệu nói rằng một trong những khu vực mà
Mỹ cần phải nhìn vào thật kỹ là chính sách của Bắc kinh đối với các nước ở
Đông Nam Á. Trung quốc đã đặc biệt khôn khéo và thành công trong việc làm
cho các quốc gia ở Đông Nam Á cảm thấy yên tâm trước những bước lấn tới của
nước láng giềng khổng lồ này. Hoa kỳ cần phải theo dõi rất sát bước tiến của chính
sách Trung Quốc đối với các quốc gia Đông Nam Á nhưng không nhất thiết đặt Bắc
kinh vào trong một thế đương đầu hay thù nghịch. Tài liệu khuyến
cáo: “Chúng ta cần tránh buộc các nước Đông Nam Á phải chọn lựa giữa Hoa
kỳ và Trung quốc.”
Tuy nhiên, Hoa Kỳ vẫn cần phải duy trì một sự hiện
diện quân sự khả tín ở trong vùng qua những chương trình huấn luyện chung với
quân đội của các quốc gia thân thiện, cũng như duy trì khả năng yểm trợ linh
động khi cần thiết. Làm được như thế sẽ tránh được những xung đột vùng và không
để cho một nước nào ngoài vùng lại có uy thế quá lớn ở nơi đây.
Tài liệu đặc biệt lưu ý đến Indonesia và cho rằng
tình hình ở này rất bất ổn về mọi mặt, từ xã hội đến kinh tế và chính trị, điều
này rất nguy hiểm vì Indonesia không những giữ một vị thế trung tâm trong vùng
các quốc gia ASEAN, đó còn là nước lớn thứ tư trên thế giới, lại có một dân số
theo đạo Hồi lớn nhất trong các quốc gia Hồi giáo, cùng lúc là một nước xuất
cảng dầu cỡ bự và là nước độc nhất ở Á Châu có chân trong OPEC, tổ chức các
quốc gia xuất cảng dầu trên thế giới.
Khi ông Colin Powell, Bộ trưởng Ngoại giao Hoa kỳ
lúc đó sắp sang Việt Nam, Thượng nghị sĩ Kerrey cho rằng điều đó rất có ý nghĩa
và sẽ có ảnh hưởng, Ông nói:
“Hoa kỳ có thể chứng minh là chúng ta đang trở lại
vùng Đông Nam Á và đang làm những công việc có tính cách xây dựng. Chúng ta
giúp thương thảo một hiệp ước hòa bình ở Cambodia vào hai năm 91 và 92, chúng
ta tham gia trong việc cung cấp tiền cho lực lượng bảo vệ hòa bình của
Liên hiệp quốc ở đó, cung cấp một lộ trình để chấm dứt tình trạng bao vây
kinh tế Việt Nam và tiến tới bình thường hóa ngoại giao…”
Nay chúng ta thấy những gì mà Hội đồng Bang giao
Quốc tế của Mỹ khuyến cáo năm 2001 đã và đang được Mỹ thực hiện, nhưng hơi
chậm. Hiện nay, ba nước Miến Điện, Lào và Cambodia đã đứng hẳn về phía Trung
Quốc. Indonesia, Việt Nam, Mã Lai và Brunei nghiêng về phía Trung Quốc vì các
quyền lợi của họ ở đó. Mỹ vừa ký thỏa hiệp đối tác chiến lược toàn diện với
Indonesia và Việt Nam, nhưng còn lâu mới xúc tiến được.
Vai
trò của Nhật
Hình như không nước nào ở Đông Nam Á hoàn toàn tin
tưởng vào Mỹ vì hai lý do chính: Lý do thứ nhất là Mỹ đến đâu cũng đều tìm cách
thay đổi chế độ ở đó để phục vụ quyền lợi của Mỹ. Lý do thứ hai là khi cần Mỹ
sẵn sàng hy sinh “đồng minh” để bảo vệ quyền lợi của Mỹ. VNCH là một thí dụ
điển hình. Vì thế Mỹ đã để Nhật đi bước trước.
Cũng như Trung Quốc, Nhật chủ trương không quan tâm
đến chế độ của quốc gia đối tác, chỉ cần quốc gia đó bảo đảo các điều đã cam
kết. Vì thế Nhật đã tiên phong vào Việt Nam và đang tranh giành với Trung Quốc
về quyền lợi kinh tế ở Việt Nam,Cambodia, Thái Lan, Mã Lai và Miến Điện. Công
việc trước tiên mà Nhật và Mỹ muốn thực hiện là hình thành một Con Đường Xuyên
Á đi từ Hà Nội vào Sài Gòn, qua Cambodia, Thái Lan, xuống Mã Lai, Singapore, đi
ngang qua Miến Điện, Bangladesh và Ấn Độ. Không có con đường này thì không thể
mở rộng thị trường được. Nhưng Nhật đang gặp khó khăn với Trung Quốc.
Chính phủ Nhật Bản vừa quyết định chọn 9 dự án hạ
tầng quan trọng ở khu vực Đông Nam Á, với tổng kinh phí ước tính 900 tỷ Yen
(khoảng 1,16 tỷ USD), để đầu tư theo mô hình đối tác công-tư, trong đó có 5 dự
án ở Việt Nam.
Theo nhật báo Nikkei, các dự án này bao gồm dự án
xây dựng ở Việt Nam sân bay quốc tế, nhà máy nhiệt điện chạy than, xây dựng khu
công nghiệp, quy hoạch đô thị và xây dựng hệ thống cung cấp nước sạch; hai dự
án xây dựng hệ thống cung cấp nước sạch ở Malaysia và Indonesia; dự án xây dựng
đường cao tốc ở Philippines; và dự án xây dựng cơ sở xử lý rác thải ở
Indonesia.
Đến cuối tháng 11/2011, các doanh nghiệp Nhật Bản đã
đầu tư vào 1.623 dự án FDI ở Việt Nam, trong đó có 1.007 dự án tập trung vào
lĩnh vực công nghiệp chế biến và chế tạo, với tổng số vốn đăng ký lên tới gần
22,4 tỷ USD, đứng thứ tư trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt
Nam. Chỉ tính riêng năm 2012, vốn đầu tư Nhật Bản chiếm hơn 50% so với vốn đầu
tư của nước ngoài vào Việt Nam.
Cạnh
tranh bán vũ khí
Người ta tin rằng phái đoàn của Ủy ban Đối ngoại Hạ
viện Hoa Kỳ đến Việt Nam hôm 10/08/2013 liên hệ đến việc bán vũ khí sát thương
(lethal weapons) cho Việt Nam hơn là vấn đề nhân quyền. Nhân quyền chỉ là cái
màn che bên ngoài.
Trong cuộc viếng thăm Hà Nội của Bộ trưởng Quốc
phòng Nga Sergei Shoigu vào tháng 3/2013 vừa qua, hai bên đã nhấn mạnh ý định
tiếp tục phối hợp trong lĩnh vực hợp tác kỹ thuật quân sự và mua sắm vũ khí
trang bị của Nga. Hiện nay, có 5 quốc gia nhập khẩu vũ khí trang bị Nga nhiều
nhất là Ấn Độ (35%), Trung Quốc (15%), Algeria (14%), Việt Nam và Venezuela.
Vế không quân, trong thập kỷ qua, Việt Nam đã mua
nhiều chiến đấu cơ của Nga để mở rộng mạnh mẽ đội tiêm kích Sukhoi hiện gồm 12
Su-27SK/UBK và 24 Su-30MK2V.
Về hải quân, Việt Nam đang ở giai đoạn thực hiện hợp
đồng mua 6 tàu ngầm thông thường lớp Projekt 636 của Nga đến năm 2016. Hai
chiếc tàu hộ vệ tàng hình lớp Projekt 11661E Gepard-3.9 tiếp theo đang được
đóng cho Hải quân Việt Nam tại Nhà máy đóng tàu Zelenodolsk. Cuối năm nay,
chiếc đầu tiên trong 6 tàu tên lửa lớp Projekt 12418 Molnya sẽ giao cho Việt
Nam.
Tổng công ty Hỏa tiển chiến thuật (TRV) của Nga đang
hợp tác với phía Việt Nam trong việc triển khai sản xuất hỏa tiển chống hạm
Kh-35 Uran tại Việt Nam.
Theo hãng tin quốc phòng Jane’s, Việt Nam dự trù
trong giai đoạn từ 2013 đến 2017 sẽ xử dụng khoảng 6,5% GDP mỗi năm cho chi phí
quốc phòng. Do đó, Mỹ sẽ không bỏ qua thị trường này.
Con
đường chông gai
Như chúng ta đã biết, trước đây, dân biểu Chris
Smith đã đề xướng ba dự luật Nhân quyền cho Việt Nam trong các năm 2004, 2007,
và 2012 và đã được Hạ viện Mỹ thông qua. Nhưng sau đó Thượng Viện cho chìm
xuồng. Nay thêm dự luật HR 1897. Các dự luật này được coi là công cụ
trong “chiến thuật tay đánh tay xoa” của Hoa Kỳ. Nó được đưa ra để làm áp lực
với Việt Nam về một vấn đề Mỹ đang đòi hỏi, sau đó được bỏ đi.
Người Việt chống cộng không thể quên được lời tuyên
bố của bà Ngoại trưởng Hillary Clinton tại Bắc Kinh ngày 21.2.2009:
“Hoa Kỳ sẽ không để vấn đề Dân chủ, Nhân quyền gây
ảnh hưởng và cản trở bước phát triển trong mối quan hệ song phương giữa Trung
quốc và Hoa Kỳ.”
Chính sách đó cũng đã được áp dụng cho Việt Nam và
nhiều nước khác.
Hoa Kỳ cũng thừa hiểu rằng, CSVN và hầu hết các nước
khác trong vùng Đông Nam Á nếu bị quá nhiều áp lực, sẽ đứng nghiêng về phía
Trung Quốc hay Nga để bảo vệ quyền lực và quyền lợi của họ. Do đó, chuyến mặc
cả để trở lại Đông Nam Á của Mỹ không phải là chuyện dễ dàng. Chúng tôi xin
nhắc lại, Hội đồng Bang giao Quốc tế của Mỹ đã khuyến cáo: “Chúng ta cần
tránh buộc các nước Đông Nam Á phải chọn lựa giữa Hoa kỳ và Trung quốc.”
Nói tóm lại, con đường Mỹ trở lại Đông Nam Á cũng
như con đường dân chủ cho Việt Nam vẫn còn nhiều chông gai.
15/08/2013
Bài do tác giả gởi. DCVOnline minh hoạ.
No comments:
Post a Comment