Hà Sĩ
Phu
17/08/2013
Bài
2
Năm nhà trí thức phát biểu
về “Con đường xã hội – dân chủ” ở nước ta
Chuyên đề “Con đường Xã hội-Dân chủ : Tìm hiểu hai
trường phái của chủ nghĩa xã hội”
Lê
Bảo Sơn, Phan Trọng Hùng
Trong những tháng cuối năm 2004, Ban Tổ chức Trung
ương của ĐCSVN đã thực hiện chương trình khoa học KX. 10 [1]
nhằm phục vụ cho Đại hội X của Đảng. Đây là một công việc mang tính chất “nội
bộ”, nghĩa là hoàn toàn bí mật đối với công luận. Đáng lý chúng ta không được
biết gì về những nội dung được trình bày. Tuy nhiên, có hai bài phát biểu đã
lọt ra ngoài, gây xôn xao trong dư luận:
1.
Trước hết là bài phát biểu của Giáo sư Phan Đình
Diệu, thuộc Viện Đại học Quốc Gia Hà Nội, nhan đề “Một
số suy nghĩ về con đường tiếp tục đổi mới của đất nước ta’’. Giáo sư Diệu
là một trí thức đã từng nhiều lần phát biểu những suy nghĩ cấp tiến, nhất là về
chế độ dân chủ đa nguyên, nhưng lại có cái may mắn là chưa lần nào bị áp dụng
biện pháp mạnh để đe doạ, trấn áp. Có thể vì ông nổi tiếng cả trong lẫn ngoài
nước nên Đảng và Nhà nước vẫn còn kiêng nể, vẫn còn phải tìm cách “tranh thủ”
để thông qua ông, chiêu dụ trí thức trong nước và nhất là trí thức Việt kiều.
Trong bài phát biểu này, Phan Đình Diệu đề nghị một
“khung mẫu tư duy” (paradigm of thinking) mới để thay thế cho khung mẫu tư duy
hiện nay – vốn đã bộc lộ nhiều bất cập trong thực tế. Theo ông Diệu, cuộc cách
mạng mới trong khoa học từ giữa thế kỷ XX đến nay đã đem đến cho loài người một
cách nhìn mới, một cách hiểu mới khác với kiểu “tư duy cơ giới”. Một trong
những mô hình được sử dụng rộng rãi trong thời gian gần đây là mô hình “các
hệ thống thích nghi phức tạp” (complex adaptive systems). Mô hình này có
thể giúp chúng ta nghiên cứu các hệ thống kinh tế và xã hội – vốn là những hệ
thống thích nghi phức tạp “trong đó các yếu tố được coi là đối lập không chỉ
có kiểu đấu tranh “ai thắng ai”, mà thông qua những tương tác có tính hợp trội
còn có thể tìm được khả năng hiệp tác để đạt tới trạng thái “thắng – thắng“,
tức là cả hai đều thắng.”
Vận dụng khung mẫu tư duy mới vào lĩnh vực kinh tế,
ông cho rằng không thể phát triển nền kinh tế thị trường một cách lành mạnh
năng động, sáng tạo, nếu bị đặt dưới sự chỉ đạo của một “định hướng xã hội chủ
nghĩa”. Lý luận của nhiều nhà kinh tế học lỗi lạc (trong đó có J. Kornai) cũng
như thực tiễn của các nước Đông Âu và Nga cho thấy rõ sự thất bại của định
hướng đó. Mặt khác, theo kinh tế gia người Áo J. Schumpeter (1883-1950), “kẻ
đóng vai trò chủ yếu trong nền kinh tế thị trường hiện đại là tầng lớp doanh
nhân, và các nhà doanh nghiệp không phải là một giai cấp theo nghĩa xã hội
học”.
Về chính trị–xã hội, ông cho rằng mô hình “chủ
nghĩa xã hội khoa học” theo kiểu Marx-Lenin vốn chịu ảnh hưởng của chủ
nghĩa duy lý và cơ giới luận đã “bị thực tiễn bác bỏ”. Trong khi đó: “Một
mô hình khác của chủ nghĩa xã hội là chủ nghĩa xã hội dân chủ, từng bị
phê phán là tay sai của chủ nghĩa tư bản, kẻ phản bội cách mạng vô sản, đã
chứng tỏ là có sức sống hơn, và trong chừng mực nào đó đã thành công ở các nước
Bắc Âu và có ảnh hưởng to lớn đến thế giới ngày nay. Ta thấy rõ ràng là các
nước Phần Lan, Thuỵ Điển, Na Uy, Đan Mạch vẫn luôn đứng đầu về chất lượng sống,
xã hội trong sạch, có tự do dân chủ nhất trong thế giới hiện đại. Bước sang thế
kỷ 21, các lực lượng tiến bộ trên thế giới, tập hợp xung quanh Quốc tế Xã hội,
vẫn đang tiếp tục tìm con đường cho một chủ nghĩa xã hội của thế kỷ 21 với mục
tiêu “tự do, công bằng, đoàn kết”, chắc chắn sẽ có vai trò quan trọng trong sự
phát triển của nhân loại, rất đáng được chúng ta quan tâm.”
Kết luận bài phát biểu, Giáo sư Phan Đình Diệu khẳng
định: “Trước sau gì thì một nền dân chủ cũng phải là đa nguyên thôi,
vì đa nguyên luôn luôn là điều kiện cần của dân chủ, đó là điều mà cả về lý
luận lẫn thực tiễn ta không có cách gì có thể bác bỏ được.”
2.
Bài phát biểu thứ hai có đề cập đến mô hình xã hội–dân chủ
là của Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, nguyên là Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản
lý Kinh tế Trung ương, một chuyên gia kinh tế hàng đầu của Đảng CSVN, từng giữ
vai trò cố vấn cho nhiều nhà lãnh đạo Việt Nam như các ông Phạm Văn Đồng,
Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Nguyễn Duy Trinh… Đây là một bài nói chuyện hoàn toàn
mang tính chất “nội bộ”, nhằm phục vụ cho các nhà “tham mưu” của Đảng trong
việc chuẩn bị văn kiện Đại hội X. Không rõ vì lý do nào, băng ghi âm cuộc nói
chuyện hôm 2-11-2004 này lại lọt ra ngoài, được ghi chép lại thành một bài dài
32 trang và được phổ biến rộng rãi qua mạng Internet.
Trong bài nói chuyện này, Lê Đăng Doanh đã nêu rất
nhiều dẫn chứng về các nước Bắc Âu như Thuỵ Điển, Na Uy, Phần Lan, Đan Mạch,…
tức là những quốc gia mà đảng Xã hội – Dân chủ đóng vai trò đặc biệt
quan trọng trong đời sống chính trị.
Khi nói về công bằng xã hội, ông nói về thực trạng ở
nước ta:
“Chúng ta nhận là chúng ta có định hướng xã hội chủ
nghĩa, nhưng bất công trong xã hội hiện nay cực kỳ lớn. (…) Hiện nay, ở Hà Nội
mức chênh lệch giàu nghèo là khủng khiếp luôn. Chỗ nhà tù Hỏa Lò cũ, nó có một
nhà trẻ quốc tế, giá là 2.800 đô la một tháng. Quá 16h30 mà anh không nhận trẻ
thì nó giữ lấy cho anh, nhưng mỗi giờ nó đòi thêm anh 4 đôla. Có một cô người
nước ngoài tưởng rằng là giá cao thế chắc không đến lượt người Việt Nam nên cô
ấy đến chậm một chút. Cô ấy gặp tôi bảo là có 20 chỗ thì người Việt Nam làm hết
rồi, không đến chỗ cho con bà nữa, lại phải đi kiếm nhà trẻ khác. Thế tức là
2.800 đô la không là cái gì. Các anh chị cứ xem mà xem, có rất nhiều người đi
khám bệnh ở Singapore, đi nghỉ, đi chữa bệnh luôn xoành xoạch, rồi giám đốc đi
Macao đánh bạc luôn xoành xoạch. Thử hỏi các cơ quan xuất nhập cảnh báo cáo xem
nào, những ai đi nhiều, đi đâu lúc này chúng ta sẽ biết.”
Trong khi đó, về kinh tế, với dân số 81,3 triệu
người, diện tích 330.900 km2, GDP bình quân đầu người chỉ “vào khoảng 500 đô la
một năm”. Nếu tính theo sức mua tương đương thì chúng ta xếp thứ 130/175 nước,
nhưng nếu xếp theo tỷ giá thì chúng ta xếp thứ 149/203 nền kinh tế. Về chỉ số
phát triển con người thuộc loại trung bình, năm 2003 xếp thứ 109/175 nước, năm
2004 xếp thứ 112/177 nước. “Tức là sau ngần ấy năm phát triển, sự thực là
chúng ta vẫn là một nước nghèo”.
Sau đó, ông liên hệ đến Thuỵ Điển để chứng minh rằng
họ công bằng hơn:
“Xin báo cáo là ở Thụy Điển, thuế thừa kế tài sản là
50%. Bố anh chết, anh chỉ được nhận 50% tài sản còn lại. Tôi hỏi Thụy Điển là
tại sao mày làm dã man thế mày. Nó bảo, triết lý của chúng tao là không cho
thằng nào sống phè phỡn được bằng tiền thừa kế cả. Bố nó giàu, chúng tao sẽ lấy
cái giàu có ấy đi cho đất nước; còn lại, nó phải tự đi làm. Tiền thừa kế ấy có
thể làm một bệ phóng tốt, nếu mà nó muốn thành người.”
Nói như vậy chẳng khác nào thừa nhận mô hình xã
hội-dân chủ tỏ ra công bằng hơn so với mô hình cộng sản (hay nói theo ngôn
ngữ dân gian Nam Bộ, mô hình cộng sản là xã hội chủ nghĩa “dỏm”; còn mô
hình xã hội–dân chủ mới là xã hội chủ nghĩa “thứ thiệt”).
Khi đề cập đến vấn đề hệ thống giám sát, ông nhận
xét:
“Báo cáo với các anh về hệ thống Thụy Điển là thế
này. Anh tốt nghiệp đại học mà muốn làm tiến sĩ thì anh đi ông thầy khác. Anh
không bao giờ được làm tiến sĩ ở ông thầy đã cho anh tốt nghiệp đại học ở
trường đại học ấy. Tốt nghiệp rồi, anh phải ra nước ngoài kiếm ăn 3 năm. Bất kỳ
tiến sĩ nào, anh cũng phải kiếm được việc, anh phải ra nước ngoài anh làm ba
năm trời rồi anh mới được về Thụy Điển làm. Anh về anh không được làm ở cái chỗ
nó đã cấp cho anh bằng tiến sĩ, anh phải đi chỗ khác. Và cứ như thế, cứ năm năm
anh lại thay đổi, từ ông Vụ trưởng đến ông nhân viên. Nó thay rất ác liệt luôn.
Một ông Vụ tài chính quản trị đùng một cái gửi sang làm Vụ chính sách. Ông
không làm được thì chuyển. Vì vậy, cái nước Thụy Điển chỉ có 10 triệu người
thôi nhưng thằng nào cũng giỏi giang cả. Đi đến đâu cũng thấy thằng ấy làm việc
tốt quá, thả vào đâu nó cũng làm được.”
“Có một mệnh đề là một hệ thống đóng kín là một hệ
thống tự tha hóa. Một chủng tộc cứ loạn luân, cứ lấy nhau mãi như thời nhà Trần
thì sẽ bị thoái hóa. Một khu rừng mà chỉ có một loại cây, không cho mọc một
loại cây gì khác thì sâu bệnh nó sẽ hại cho bằng hết. (…) Nên một hệ thống muốn
phát triển phải rộng mở… phải chấp nhận sự giám sát và phải chấp nhận sự thách
thức, chấp nhận đi ra ngoài khơi.” Nói thế chẳng
khác nào nói: “Có một quy luật là: một chế độ độc đảng là một hệ thống tự
tha hoá” ?
Nhận xét về việc điều tiết thu nhập để tạo nên sự
công bằng trong xã hội, ông so sánh:
“Một điều mà tôi nhấn mạnh lại một lần nữa là sự
thất bại, sự yếu kém của chế độ là không điều tiết được. Cái đó mình kém xa
thằng Thụy Ðiển. Xã hội Thụy Ðiển, Phần Lan đấy, trở nên mẫu mực của thế giới
là vì nó có tình đoàn kết, nó đánh thuế công khai, minh bạch. Tôi có biết Thứ
trưởng Ngoại giao Thụy Ðiển, hôm tôi đi họp, vào cái nhà hàng Indonesia, cái
nơi mà có múa khỏa thân, uống khoảng nửa chai sâm banh và ăn một bữa, một tối
vào đấy nó lấy đâu khoảng 300 đô la. Thằng ấy chi. Về kiểm toán, Bộ Ngoại giao
nó bảo là đừng có chi vào đây, khoản này là không được. Thằng này nó bảo là mày
cứ chi đi. Kiểm toán chuyển sang Quốc hội. Quốc hội lập tức gọi báo chí đến
thông báo, cho chụp ảnh, đưa ra công luận. Báo chí đưa ra một cái là ngay ngày
hôm sau ông Thứ trưởng xin từ chức ngay. Bởi vì không thể nào chấp nhận được.
Tiền của nhân dân không phải để cho ông đi xem múa khỏa thân. Ông xem thì ông
phải bỏ tiền túi của ông ra, tôi không cấm ông. Ðằng này ông lại bắt tôi trả,
lại còn hống hách mượn quyền của Bộ Ngoại giao nữa. Tôi thấy là quyền hạn
càng nhiều thì phải có sự khống chế quyền lực. Không nên được bỏ nguyên lý
cơ bản đó”.
Giám sát là thế đó! Quốc hội, báo chí có quyền độc
lập là như thế đó! Chống tham nhũng, lãng phí với cái tâm ngay thẳng là như thế
đó! Vậy thì: Thuỵ Điển, Phần Lan (chứ không phải là Trung Quốc) mới thật sự
là “mẫu mực của thế giới”!
Việc ông Lê Đăng Doanh ca ngợi mô hình xã hội–dân
chủ một cách khéo léo trong cùng một chương trình nghiên cứu khoa học với ông
Phan Đình Diệu cho thấy hai trí thức tiêu biểu (một ngoài Đảng, một trong Đảng)
đã đồng thuận với nhau ở một điểm: coi mô hình dân chủ-xã hội là mô hình
có thể thay thế cho mô hình cộng sản đã sụp đổ trên phạm vi toàn thế
giới.
Một điều đáng lưu ý là hai ông chỉ phát biểu mạnh mẽ
như thế trong phạm vi “nội bộ”, còn khi ra công khai trước công luận, thì tiếng
nói của hai ông lại trở nên thận trọng hơn, mực thước hơn. Đã đành ông Doanh là
một đảng viên, tất nhiên phát ngôn có kỷ luật. Thế còn ông Diệu? Hồi cuối tháng
7, tại Hội nghị Đà Nẵng, ông phát biểu nhẹ nhàng hơn trước rất nhiều. Nhiều
người tự hỏi: phải chăng, vì trước đó (ngày 14.6.05), hai “nhà lý luận” chính
thống Phạm Văn Chúc và Lương Khắc Hiếu đã có bài đả kích ông trên trang web của
ĐCSVN? Tuy không nêu đích danh tác giả và tên tài liệu, ai đọc qua cũng đều
hiểu hai nhà “trí thức” khả kính nói trên nhắm vào ai; vì họ nói khá rõ: tài
liệu đó “được giới thiệu là “đề cương ý kiến phát biểu”, tác giả của tài
liệu đó là “một nhà toán học”, mà lại được lưu hành “gần đây, trên
trang thông tin điện tử X”. Quan niệm được nêu ra để “phê phán” chính là
quan điểm của ông Diệu.
3.
Người thứ ba nêu ý kiến về con đường xã hội-dân chủ
là nhà lý luận Lữ Phương. Vốn là một trí thức khuynh tả nổi tiếng
ở miền Nam, ông Lữ Phương đã rời bỏ Sài Gòn để vào bưng, trở thành Thứ trưởng
Bộ Văn hoá trong Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam. Sau
1975, ông dần dần rời xa Đảng, thay đổi quan điểm, trở thành một người bất đồng
chính kiến. Là một người cộng tác của nhóm Câu lạc bộ Kháng chiến do Nguyễn Hộ
lập ra vào cuối thập niên 1980, sau khi nhóm này bị đàn áp, ông vẫn tiếp tục
cộng tác với Linh mục Chân Tín và Giáo sư Nguyễn Ngọc Lan để làm báo (tờ Tin
Nhà, về sau là tờ Thư Nhà).
Trong một bài viết đề ngày 11.4.2005 nhan đề “Lại một
bóng ma của Marx!”, nhằm nhận xét, đánh giá tập tài liệu Thời
đại mới, tư tưởng mới của Hoàng Tùng, ông cho rằng nhà mác-xít nổi
tiếng này mặc dù có “một cái nhìn lại” “khá triệt để, táo bạo” so với đường lối
chính thống (phê phán Stalin, Mao Trạch Đông) nhưng vẫn còn “rất nhiều gượng
ép, thiếu nhất quán”. Đó là “một thứ chủ nghĩa Lenin “vận dụng” vào một hoàn
cảnh mới” nhằm mục đích “cố gắng duy trì cho được quyền lực độc tôn của đảng
cộng sản đối với xã hội”.
Phê phán thái độ nửa vời của Hoàng Tùng, Lữ Phương
viết:
“Tôi thấy ở Việt Nam đã có những đề xuất minh
bạch, nhất quán hơn tác giả rất nhiều: nếu thật sự muốn canh tân chủ nghĩa
xã hội theo con đường dân chủ và ôn hoà thì cũng phải chuyển hoá đảng cộng sản
thành đảng dân chủ-xã hội, chấm dứt toàn trị, chấm dứt độc tôn, hoạt động
dưới sự kiểm soát của một nhà nước pháp quyền, một chế độ chính trị đa nguyên,
thực hiện những chính sách phúc lợi, ưu tiên bảo vệ những người lao động…
Không thể khác hơn, vì chỉ có trong điều kiện đó mới
có thể nói đến chủ nghĩa xã hội có cái đuôi “thị trường” đi theo và tiếp tục
viện dẫn Marx với cái học thuyết Marx đã được canh tân. Những đề nghị có nội
dung như vậy đã xuất hiện ngày càng nhiều, nhưng rất tiếc, lại không được tác
giả tham khảo, thừa kế.”
4.
Người thứ tư đề cập đến con đường xã hội–dân chủ là
một trí thức Việt kiều nổi tiếng: kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa. Trong bài phỏng vấn dành cho đài Châu Á Tự do (R.F.A.) ngày
6.7.2005, ông cho rằng khái niệm mang tính chiến lược “kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa” là “một khái niệm tai hại”, bởi vì: “Lòng
dân là kinh tế thị trường, ý Đảng là “định hướng xã hội chủ nghĩa”, thực chất
vẫn chỉ là lý luận nhằm biện minh cho vai trò lãnh đạo và cầm quyền của Đảng.”
Thay cho khẩu hiệu đó, ông đề nghị một khẩu hiệu
khác: “Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội dân chủ”. Ông giải
thích như sau:
“Về cải cách kinh tế thì nên để từ dưới bung lên,
nên giải phóng cho người dân được tự do sinh hoạt, không có hạn chế nơi này, ưu
đãi nơi khác, khiến tiềm năng quốc gia bị kềm hãm và xã hội bị mất kỷ cương vì
tham ô và luật lệ chặt lỏng thất thường.
Về cải cách chính trị, vốn là điều không thể trì
hoãn được nữa, thì nên giảm bớt vai trò nhà nước trong kinh tế, tăng cường vai
trò của chức năng làm luật và chấm dứt tình trạng thống trị của một đảng độc
quyền. Đấy là định hướng “xã hội dân chủ.”
So sánh mô hình xã hội–dân chủ với mô hình cộng sản,
ông nói: “Thế giới thiếu gì đảng chính trị tự mệnh danh Xã hội Dân chủ và
chẳng vì vậy mà xã hội bị loạn. Ngược lại, cứ theo xã hội chủ nghĩa thì còn lâu
mới làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh, công bằng. Trước mắt thì
việc công nghiệp hóa và hiện đại hóa chỉ tạo ra lệch lạc làm xứ sở bị mất chủ
quyền thực tế về kinh tế và bị tụt hậu so với các nước khác.”
5.
Ngày 11.7.2005, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Tụ
(tức Hà Sĩ Phu) - nhà lý luận nổi tiếng với những bài tiểu luận
gây sóng gió trong những năm 1988-1995, người được ngành an ninh Việt Nam “chăm
sóc” kỹ nhất từ 10 năm nay, đã gửi một lá thư cho ông Trần Khuê, để trao đổi ý kiến nhân cuộc hội
luận giữa ông Khuê và Giáo sư Đoàn Viết Hoạt. Trong lá thư đó, ông Hà Sĩ
Phu đề nghị một cương lĩnh mới về xây dựng đất nước: cải
biến theo con đường xã hội–dân chủ (social–démocratie, Social
Democracy) như các nước Bắc Âu, như Tây Đức,… Ông nhận xét:
“Phương án Xã hội Dân chủ là phương án trung dung,
nhưng không đồng nghĩa với cải lương. Tuy trung dung thế mà vẫn đòi hỏi sự dũng
cảm và thật lòng, chứ không dùng mẹo được. Cha ông ta vẫn bảo “Thật thà là cha
quỷ quái”.
Kinh
tế thị trường theo định hướng Xã hội Dân chủ! Đơn giản thế thôi, dân chấp nhận ngay, vì như thế cũng chính là xã hội dân
chủ đa nguyên pháp trị.”
*
Như vậy là chỉ trong vòng nửa năm, một cái gì đó như
thể là “cương lĩnh mới để xây dựng đất nước” đã được hình thành một cách
ngẫu nhiên, từ cái tâm và cái trí của năm nhà trí thức xuất phát
từ những nguồn khác nhau, từ những vị trí khác nhau, nhưng cùng nhắm tới chung
một mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.”
Có thể tóm tắt ngắn gọn như sau:
* Cương lĩnh cũ (mà ĐCS đang chủ trương) = một
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa + một chế độ độc đảng
toàn trị
* Cương lĩnh “Xã hội-Dân chủ” = một nền kinh tế
thị trường theo đúng nghĩa + một chế độ dân chủ đa nguyên – pháp trị
Chúng ta có thể đánh giá ngay cương lĩnh nào là tiến
bộ, là phù hợp với xu thế phát triển của thời đại? Cương lĩnh nào thế giới đã
có nhiều mô hình thành công để ta tham khảo, cương lĩnh nào tiếp tục đưa đất
nước vào một cuộc phiêu lưu mới chưa hề có ai đặt chân đến bao giờ?
Câu trả lời thiết tưởng đã quá rõ.
Việc năm nhà trí thức phát biểu trong những hoàn
cảnh khác nhau, từ những vị trí khác nhau – không hẹn trước, rõ ràng là tình
cờ, ngẫu nhiên. Nhưng tập hợp những cái ngẫu nhiên ấy trong cùng một thời
điểm lại thể hiện một quy luật. Quy luật đó là: Nếu Đảng CSVN đã có
gan rời bỏ mô hình kinh tế tập trung chỉ huy để hoà nhập vào nền kinh tế thị
trường của thế giới thì họ cũng cần có gan chuyển từ nền chính trị chuyên chính
vô sản – toàn trị sang chế độ dân chủ – đa nguyên, nếu không muốn bị lịch sử
đào thải.
Chúng ta thử đọc lại lời đề nghị của Giáo sư Phan
Đình Diệu: “Tôi hy vọng là Đảng sẽ tự biến đổi thành một Đảng xã hội dân chủ
để lãnh đạo nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa dân chủ, như vậy thì cả vấn
đề giữ quyền lãnh đạo cho Đảng và tạo ra một nền dân chủ của xã hội đều được
giải quyết một cách trọn vẹn, và do đó, nước ta sẽ sớm thực hiện được mục tiêu
“dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, hội nhập vào quốc
tế.”
Nhưng nếu Đảng không chấp nhận lột xác để trở thành
Đảng xã hội–dân chủ thì sao? Cũng ông Diệu nói tiếp: “Nếu không được như
vậy, tức là Đảng vẫn kiên quyết giữ nguyên như hiện nay, thì vì quyền lợi của
dân tộc, Đảng phải tôn trọng quyền dân chủ, kể cả quyền lập đảng, của xã hội,
và ta sẽ có một chế độ đa đảng hoạt động trong phạm vi luật pháp”.
Dù muốn hay không, một “cương lĩnh mới” tự
nhiên đã hình thành song song với cương lĩnh chính thống của Đảng Cộng sản. Một
cương lĩnh hình thành trong lòng nhân dân tất nhiên sẽ được nhân dân đón nhận,
góp ý bổ sung để trở thành hoàn thiện. Đó không phải chỉ là sản phẩm của các
chuyên gia của Đảng, được quyết định bởi “hơn một trăm Ủy viên Trung ương, thậm
chí chủ yếu là mười mấy Ủy viên Bộ Chính trị” (tạo nên cái mà nhà thơ Bùi Minh
Quốc gọi là “cái ách nô lệ vàng son mang tên là sự lãnh đạo của Đảng”).
Ngược lại, cương lĩnh mới đó sẽ là sản phẩm của những bộ óc ưu tú nhất trong
nhân dân – bao gồm cả trí thức trong nước lẫn ngoài nước.
Trong bài trước chúng tôi đã đề cập tác phẩm Huyền
thoại về một Nhà nước tự tiêu vong của Mai Thái Lĩnh, củng cố
thêm cho luận điểm của năm nhà trí thức nói trên. Đây lại thêm một minh chứng
hùng hồn, cho thấy dân tộc ta không thiếu người có cái tâm và có cái
trí lo cho dân, cho nước. Chỉ lo người cầm quyền thiếu cái tâm và cái
trí, dẫn đến chỗ hãm hại người tài, làm hao tổn nguyên khí của dân tộc!
Cạnh tranh, nhất là cạnh tranh trí tuệ, vốn là động
lực tiến hoá của xã hội. Sau khi được đọc những bài lý luận đầy tâm huyết của
các nhà trí thức nói trên, chúng tôi nảy sinh một mong muốn sao cho đông đảo
mọi người, những người yêu nước – yêu dân chủ, trong Đảng và ngoài Đảng, hãy
cùng nhau đóng góp tâm trí, góp phần xây dựng một cương lĩnh có chất lượng và
có sức thuyết phục cao, tạm gọi là “cương lĩnh xã hội-dân chủ” chẳng hạn,
tạo ra một sự “cạnh tranh lành mạnh” với cương lĩnh của Đảng Cộng sản, theo quy
luật chọn lọc rất bình thường của một xã hội tiến bộ ngày nay!
Sống trong nền kinh tế thị trường chắc tâm lý ai
cũng muốn “có hai hay ba để chọn một” thì sẽ vừa lòng hơn là chẳng được quyền
chọn gì cả.
2.9.2005
© 2005 talawas
[1]
Chương trình này có nội dung là: “Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính
trị trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế”.
*
*
No comments:
Post a Comment