Saturday 17 August 2013

[cải cách giáo dục] TRƯỚC TIÊN PHẢI CẢI CÁCH CON NGƯỜI (Dương Đình Giao)




Dương Đình Giao 
18-08-2013

Mấy hôm nay Ủy ban thường vụ Quốc hội đang bàn về giáo dục. Nghe ý kiến của các vị đại biểu của dân mà khiếp. Các vị bảo chương trình giáo dục hiện nay “chưa mang hồn thời đại”.

Bà con nào có biết cái “hồn thời đại” mặt mũi ngang dọc thế nào làm ơn chỉ cho thẳng dân ngu này biết với!


Hay các vị muốn trở lại cái thời ông Tố Hữu:
Ta đứng đây mắt nhìn bốn hướng,
Trông lại nghìn xưa, trông tới mai sau,
Trông bắc trông nam, trông cả địa cầu?


Và chương trình thế nào là mang hồn thời đại nhỉ?
Hóa ra “chém gió” bây giờ đã không phải là độc quyền của mấy cậu “choai choai”!

Mình thì chỉ thấy, các vị đừng nghĩ tới chuyện cải cách chương trình, sách giáo khoa, … gì vội. Cái quan trọng nhất hiện nay cần cải cách trong giáo dục là chuyện con người. Nếu con người vẫn như hiện nay thì có cải cách kiểu gì cũng lại “mèo lại hoàn mèo” thôi. Đã có bao nhiêu cuộc cải cách chương trình và sách giáo khoa từ năm 1981 đến nay rồi, tốn kém biết bao tiền của, công sức, … mà thất bại vẫn hoàn thất bại.

Sau 1945, chương trình giáo dục còn khá thô sơ (chủ yếu theo chương trình Hoàng Xuân Hãn ra đời một cách vội vàng sau khi Nhật đảo chính Pháp), sách giáo khoa hầu như chưa có, điều kiện cơ sở vật chất cho giáo dục cực kỳ thiếu thốn, nhưng con người lúc đó, dù học hàm, học vị chưa cao, nhưng do có phẩm chất đạo đức, có học vấn đầy đủ, cộng với tấm lòng yêu nước thiết tha đã mang lại thành tựu nhất định cho nền giáo dục. Trong khoảng 15 năm (1945 – 1960), chất lượng của giáo dục Việt Nam có sút kém so với giáo dục trước 1945 nhưng còn chấp nhận được. Vì những người tham gia vận hành nền giáo dục lúc này còn là sản phẩm của nền giáo dục cũ, mặc dù không ai kêu gọi, nhưng phải công nhận, họ đều là những người vừa có đức, vừa có tài.

Nhưng từ sau 1960, chúng ta luôn luôn nói tới “vừa hồng vừa chuyên” nhưng sản phẩm của nền giáo dục Việt Nam lại hoàn toàn không được như thế. Và những con người do chính nền giáo dục đào tạo ra quay lại gây tai họa cho chính nó. Cái vòng lẩn quẩn này cứ quay hết chu kỳ này tới chu kỳ khác, và kết quả của nó là nền giáo dục hiện nay. Nếu không có những cải cách cấp bách về con người, giáo dục Việt Nam chỉ có thể càng tồi tệ hơn hiện nay. Chúng ta sẽ chỉ luôn luôn cố gắng để “năm sau bằng được năm nay” đã là sự may mắn.

Con người tác động đến giáo dục hiện nay có thể chia làm nhóm. Mỗi nhóm này ảnh hưởng khác nhau đến giáo dục.

1. Trước hết là nhóm các vị ở tầng vĩ mô. Tức là những con người quyết định tầm chiến lược, hay cái mà các vị nói là những người xác định triết lý của giáo dục, đường lối giáo dục.

Cứ mỗi khi đến dịp 70, 80 hay 100 năm ngày sinh, ngày mất hay ngày gì đó của các vị, lại thấy không ít các bài tung hô, coi các vị như thánh sống, cứu tinh cho giáo dục Việt Nam. Mình chẳng dám phủ nhận, nhưng xin phép được nghi ngờ. Vì các vị ấy, suốt trong bao nhiêu năm chèo lái con thuyền giáo dục Việt Nam, hết người này tới người khác, nhưng chưa bao giờ mình thấy giáo dục Việt Nam có chiều hướng đi lên. Từ sau 1945, tức là khi mình bắt đầu biết hưởng thụ nền giáo dục cho đến khi mang cả đời góp phần nhỏ bé vào sự nghiệp trồng người, chỉ toàn thấy nó đi xuống, và đến nay thì nó “đang tan hoang” như từ dùng của một nhà giáo đáng kính.

Suy nghĩ mãi mà vẫn chưa tìm được lời giải đáp. Sau nghĩ rằng, có lẽ các vị không phải không có tài năng, chỉ có điều cái tài năng ấy chưa được sử dụng. Hay nói đúng hơn, những đường lối giáo dục người ta vẫn cho rằng các vị là tác giả thật ra không phải. Nhưng các vị ở cái thế “chẳng đặng đừng”. Lẽ ra, khi đã ở trong cái tình thế như vậy, các vị nên có thái độ phản đối. Những người cầm quyền sẽ phải có thái độ thận trọng hơn. Hay ít ra, những người được hưởng thụ cũng thấy thận trọng niềm tin khi không thấy các vị đứng tên tác giả. Đằng này, các vị cứ im lặng, coi “im lặng là vàng. Thế là dân chúng “ăn quả lỡm”. Cuối cùng chỉ có dân là thiệt. Tốn kém bao nhiêu tiền của công sức cho con ăn học mà chẳng đâu vào đâu. Thậm chí có người cả tin vào cái nền giáo dục của các vị chủ trương mà đứa con dứt ruột đẻ ra, lại nuôi nấng với bao hy vọng trở thành một con người “bán thân bất toại” về trí tuệ. Vì sự im lặng của các vị mà giáo dục ngày càng đi xuống.

Tóm lại, nhóm người cần cải cách đầu tiên là những người có quyền quyết định đến những vấn đề vĩ mô của cải cách giáo dục. Cải cách giáo dục phải vì tự thân yêu cầu của giáo dục, vì sự nghiệp nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài phục vụ cho sự nghiệp xây đựng đất nước chứ không phải vì phục vụ cho mục đích chính trị của một nhóm lợi ích nào đấy.

Không thay đổi nhóm người này, chỉ rồi lại lãng phí nhiều nghìn tỷ đồng tiền thuế của nhân dân, lãng phí biết bao thế hệ con người Việt Nam sinh ra, lớn lên mà chẳng giúp ích gì, thậm chí còn làm hại tới tương lai của đất nước.

2. Nhóm người thứ hai cần cải cách là nhóm những người làm công việc chỉ đạo, nghiên cứu, theo dõi, đôn đốc hiện đang làm việc ở Bộ, ở các Sở, Phòng Giáo dục.

Trước hết, vì các lợi ích riêng mà chính các nhóm người này đã đi ngược lại những gì các nhà cải cách ở tầm vĩ mô đã đề ra. Còn nhớ trong cải cách giáo dục năm 1981, các nhà cải cách đã chủ trương thêm một lớp ở cấp trung học cơ sở để học sinh sau khi tốt nghiệp cấp học này được thêm một tuổi, được trang bị thêm một số kiến thức để có thể ra trường, theo học các lớp dạy nghề, chỉ khoảng 30% học sinh tốt nghiệp tiếp tục theo học lên cấp trung học phổ thông rồi được chọn lọc tiếp để vào đại học. Lẽ ra với chủ trương này, sự phát triển các trường phổ thông trung học cần được hạn chế về số lượng. Thay vào đó, ngân sách nhà nước dành cho giáo dục phải được đầu tư vào việc nâng cao chất lượng các trường phổ thông trung học sẵn có và mở thêm nhiều trường dạy nghề.

Nhưng những người làm công việc quản lý ngành giáo dục từ cấp trung ương đến các tỉnh, thành phố đã làm điều ngược lại. Ở các địa phương, các trường phổ thông trung học cả công lập lẫn dân lập tiếp tục được phát triển hết mức. Số lượng trường phổ thông trung học nay đã thỏa mãn gần 100% nhu cầu học tập của học sinh tốt nghiệp phổ thông cơ sở, thậm chí, nhiều trường phổ thông trung học còn không có học sinh vì chẳng ai có nhu cầu học mà không có trường.

Một mặt họ vẫn kêu gào chương trình quá nặng, học sinh bị quá tải, cần phải giảm tải…(dĩ nhiên cần phải có tiền), nhưng một mặt, họ vẫn để cho học sinh tha hồ ngồi nhầm lớp, đó chính là nguyên nhân gây nên chuyện học thêm dạy thêm tràn lan trong các nhà trường hiện nay.

Cấp đại học cũng đua nhau phát triển mặc dù từ cách nay khoảng gần hai chục năm, người ta đã cảnh báo nạn “thừa thầy thiếu thợ”. Nhiều nơi, dù không có trường sở, không có giảng viên, thậm chí không có cả sinh viên, người ta vẫn đua nhau mở trường đại học để tới nay, trường không có người học (mặc dù nhiều trường đã phải lấy tới những thí sinh chỉ được 7 điểm thi 3 môn). Luôn kêu chất lượng đại học xuống cấp, nhưng ngân sách không được sử dụng để nâng cao chất lượng các trường đã có mà được sử dụng để mở trường tràn lan dù cho tỷ lệ sinh viên ra trường không tìm được việc làm ngày càng cao.
Lối “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” này đã khiến cho tình trạng giáo dục nước ta ngày càng lộn xộn. Việc mở trường (cả trung học và đại học) chỉ nhằm phục vụ lợi ích của những người có quyền ra quyết định thành lập trường, các “ông chủ” trường, và người dạy (mặc dù chất lượng rất thấp, nhiều khi chỉ trong tình trạng “cơm chấm cơm”, cử nhân đào tạo cử nhân) và một số ít người cần cái bằng đại học làm đồ trang sức, để hợp thức hóa việc chui vào các cơ quan nhà nước của những “con ông cháu cha” chứ hoàn toàn không phục vụ nhu cầu chính đáng của người học và của toàn xã hội. Ngân sách dành cho giáo dục vốn đã chưa dồi dào, lại được sử dụng không đúng chỗ khiến sự lãng phí không thể nào chấp nhận được. Làm sao nền giáo dục có thể phát triển lành mạnh khi những người có trách nhiệm quản lý chỉ chăm chăm vào nhóm lợi ích của mình?

Một tình trạng cần cải cách ở nhóm những người này là thói quan liêu. Cán bộ ở các Viện nghiên cứu có nhiệm vụ giúp các cấp quản lý tiếp cận với các nghiên cứu khoa học tiên tiến để vận dụng vào thực tế nhưng họ ngoài sự hạn chế về trình độ (do được đào tạo hời hợt, chỉ chạy theo bằng cấp nhằm thực hiện vượt mức chỉ tiêu) lại ít hiểu biết về nghiệp vụ quản lý còn rất hạn chế trong việc hiểu biết một cách đầy đủ hiện trạng của các trường, những biểu hiện tích cực và tiêu cực của những người đang “đứng mũi chịu sào” trên mặt trận giáo dục.

Những lần về cơ sở của họ phần lớn đều trong tình trạng “cưỡi ngựa xem hoa”. Vì thế, những chủ trương, biện pháp do các cơ quan này ban hành thường thiếu sức thuyết phục. Những cái được gọi là công trình nghiên cứu của các Viện này chỉ làm được việc gần như duy nhất là tiêu hết tiền của các dự án, còn khi đem vận dụng luôn gặp tình trạng xa rời thực tế vì chỉ giải quyết những chuyện hết sức hình thức, kiểu như giáo án điện tử, sử dụng những công cụ hỗ trợ của công nghệ thông tin cho một số môn học, …Phần lớn những kết quả này đều khó tổng kết, đánh giá vì phần lớn đều trong tình trạng “đứt gánh giữa đường”. Những giải pháp mang tính chất hình thức này chỉ khiến cho cái ao tù giáo dục gợn lên vài làn sóng ở bề mặt, không những chẳng hề làm cho làn nước trong sạch thêm mà còn tạo nên sự ngộ nhận và gây không ít tốn kém tiền bạc cho nhà nước và cha mẹ học sinh.

Loại thứ ba trong nhóm người này là những người chịu trách nhiệm giúp cấp trên theo dõi và chỉ đạo trực tiếp các trường. Đây chính là những người thuộc thành phần trung gian mà người ta đã quen gọi “vừa chung chung vừa gian gian” do cách làm việc và tính cách của họ.

Thay vì làm cầu nối, họ chỉ làm việc “dối trên lừa dưới”. Họ sẵn sàng che giấu những sai lầm của các trường miễn là được hiệu trưởng các trường thỏa mãn một số điều kiện vật chất, thậm chí còn “tham mưu” cho các trường tìm cách để “lách luật”, sau đó tiếp tục lừa dối cấp trên rằng “mọi việc vẫn tốt đẹp” thậm chí còn không tiếc lời để tán dương cho những người mắc sai phạm. Thế là giữa cấp trên và các trường phía dưới mất mối liên hệ tự nhiên. Sự chỉ đạo của cấp trên vốn ít ỏi, qua những cán bộ kiểu này hầu như chẳng còn gì. Thế là trường nào cũng trong tình cảnh “mạnh ai nấy làm”. Nhiều trường, nhất là các trường dân lập, có rất nhiều vi phạm nhưng vẫn được làm ngơ.

Không thay đổi, không cải cách những con người này, sự chỉ đạo, quản lý của các cấp hoàn toàn không có tác dụng.

Nhóm người cuối cùng trong guồng máy giáo dục là Hiệu trưởng và giáo viên trực tiếp giảng dạy. Xin được nói tới vào ngày mai.


Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả



No comments:

Post a Comment

View My Stats