Định vào ngày 1-9-2013 mới có thông báo chính thức
với độc giả về số phận của trang Ba Sàm sẽ ra sao trước Nghị định
72 này, thế nhưng, dư luận sôi nổi quá, nhiều độc giả thân thiết liên
tục hỏi han, lo lắng, lại cả trên BBC
bữa kia một bài nhắc đích danh tới trang BS nhiều, hôm nay thì thêm trả
lời chính thức của “nhóm tác giả” (?) – một quan chức cấp cao hơn nữa, là ông
Thứ trưởng Đỗ Quý Doãn, nên … thôi thì cũng phải lên tiếng. Trước tiên là cho
độc giả đỡ lo và sớm có thông tin trao đổi, mở mang dân trí, sau nữa là hầu
giúp các cơ quan chức năng sớm bổ sung khiếm khuyết, sửa những sai sót yếu kém
cũ cho đến mới của mình. Nhiều điều đáng bàn, nên xin đưa ra dần mỗi bữa một
chút.
Trước tiên, xin lưu ý tới việc ông Thứ trưởng không
biết do vô tình quên, hay muốn cố quên, cái Nghị
định 97, ngay dưới triều đại của ông, cách đây đúng 5 năm, được NĐ72
nhắc tới là sẽ hết hiệu lực từ 1/9/2013, và đặc biệt là Thông tư 07
“đặc cách” giành riêng cho thế giới BLOG, đi kèm NĐ97 nhưng được ra đời sau đó
4 tháng. Ông chỉ nhắc tới NĐ55 và trước nữa là Quyết định 21.
Phải dài dòng trở lại 2 văn bản đặc biệt trên là có
nhiều lý do!
Khi trang Ba Sàm vừa tròn 1 tuổi là lúc ra đời NĐ97.
Ban đầu, dư luận không mấy ai quan tâm, vì nội dung của nó còn rất chung chung,
ngoài 4 “nghiêm cấm” mà Điều
258 Bộ luật Hình sự cũng đã bao quát cả và ai cũng hiểu theo lệ cứ phải
có thông tư thì NĐ mới được thực thi.
Kế đến, khi Thông tư 07 được ban hành, một làn sóng
phản đối dấy lên, từ dư luận quốc tế, và mạng tự do, tuy chưa mạnh như bây giờ
nhưng có
báo cũng đã nhận xét “thực tế Thông tư mới được ban hành thì đã nhận
được không ít phản đối của giới blogger, cho rằng nhiều quy định dù chặt nhưng
khó khả thi. Chẳng hạn, người nào có hành vi đặt đường liên kết thì người đó
chịu trách nhiệm. Cụ thể, blogger khác nhảy vô blog mình comment để đặt liên
kết đến thông tin xấu thì blogger đó chịu trách nhiệm chứ không thể bắt mình
chịu trách nhiệm được. Các ý kiến này cho rằng quy định của Bộ không thực tế,
và không hiểu hết thế giới blog”.
Đáng chú ý là báo chí nhà nước và cả chính quan chức
nhà nước ‘ngành dọc” cũng đã chê bai Thông tư này. Ông Lê Mạnh Hà, khi đó là
Giám đốc sở 4T TP HCM (nay là Phó Chủ tịch TP), đã lên tiếng như mỉa mai, nhưng
cũng tựa một lời cáo chung cho văn bản và lối “quản lý” mơ hồ đó:“một thông
tư như vậy mà muốn đi vào cuộc sống thì có lẽ lại phải có… văn bản hướng dẫn.
Còn văn bản hướng dẫn đó mà chưa rõ thì lại phải… tiếp tục hướng dẫn nữa”.
Nhưng, dù đã thấy một tương lai đen tối cho Thông tư
07, trang BS cũng đã nhanh chóng tỏ ra nghiêm túc thực hiện, bằng cách ra quyết
định thay đổi người quản lý, qua Kính cáo ngày 11/1/2009,
tránh cho cơ quan chức năng phải bận tâm. Với quyết định này, trang BS sẽ được
“quốc tế hóa”, được nằm hoàn toàn ngoài biên giới lãnh thổ VN, bởi người phụ
trách không cư trú tại VN, trong khi nhà cung cấp dịch vụ blog thì đương nhiên
đã thuộc quốc gia khác..
Sự “quốc tế hóa”, rồi cả “tập thể hóa” (chứ không
còn là “trang thông tin điện tử cá nhân”) của trang BS còn được tiếp tục thể
hiện 2 lần nữa.Lần thứ nhất là qua Kính
báo thay đổi tạm thời, ngày 1/10/2012. Lần thứ hai sau khi bị tin
tặc cướp trang ngày 8/3/2013, phải thay đổi địa chỉ nhiều lần, được
chính thức thông báo của Biên
tập viên – điều hành hoàn toàn trang BS, người cũng đã “được” tin tặc
tiết lộ danh tính là đang định cư ở nước ngoài.
Kết cục là: suốt 5 năm qua, NĐ97 và Thông tư 07
dường như đã bị lãng quên, chẳng thấy nó “khả thi” hay được “thực thi” ra sao,
ít ra là với giới BLOG. Tưởng buồn, nhưng thực tế là đáng mừng cho xã
hội. .
Thế rồi, NĐ72
đã được ra đời. Ngoài một số “tham vọng” mới, rất đáng được mổ xẻ, thì như thể
đang có một cuộc “rượt đuổi”, kéo dài suốt 5 năm qua, một điều khoản mới rất
độc đáo hình như ít ai quan tâm, nhưng lại rất gần với quyết định của trang BS
từ 5 năm trước, và có thể cả sự hiện hữu của nhiều web, blog, trang Facebook
khác hiện nay. Cái “độc đáo” đó được gói gọn trong Điều 22: Cung cấp thông
tin công cộng qua biên giới, với lời bỏ ngỏ rằng nó sẽ phải được Bộ 4T quy
định cụ thể, mà có lẽ còn phải kèm theo cả Nghị định về xử lý vi phạm trên
Internet, như
Thứ trưởng Lê Nam Thắng cho biết, rồi thông tư kèm NĐ này, và v.v. (Mời
độc giả theo dõi tiếp bình luận vào sáng mai).
Tiếp theo bình luận
sáng qua về Nghị định
72.
Điều
22. Cung cấp thông tin công cộng qua biên giới. 1. Các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân nước ngoài khi cung cấp thông tin
công cộng qua biên giới có người sử dụng tại Việt Nam hoặc có truy cập tại Việt
Nam cần tuân thủ các quy định của pháp luật của Việt Nam. 2. Bộ Thông tin và
Truyền thông quy định cụ thể về cung cấp thông tin công cộng qua biên giới.
Nội dung trên cho thấy có lẽ riêng loại hình này
phải có hẳn một thông tư, hoặc sẽ chiếm dung lượng đáng kể trong một thông tư
hướng dẫn thi hành NĐ72 (tương tự Thông tư 07
kèm NĐ97
cách đây 5 năm). Như vậy, do chưa có “quy định cụ thể” về khái niệm, đối
tượng nào nằm trong diện “cung cấp thông tin công cộng qua biên giới”,
nên chỉ xin đưa ra những gợi ý, riêng về đối tượng là “cá nhân”, hầu
giúp cho cơ quan soạn thảo văn bản sắp tới.
- “… Cá nhân nước ngoài”: có vẻ như nhắm đến
các chủ thể “ngoại” đang hoạt động ở VN. Nhưng như vậy chưa đủ và rõ, mà có thể
sẽ phải được hiểu đó là những đối tượng đang ở nước ngoài, hoặc đang sinh sống
lâu dài ở VN (bao gồm cả nhân viên ngoại giao các nước), bao gồm: + người gốc
Việt và không phải gốc Việt đang mang quốc tịch không phải VN; + người gốc Việt
vẫn mang quốc tịch VN nhưng được định cư lâu dài ở nước khác; + người gốc không
phải VN nhưng đã được vào quốc tịch VN; + và người không có quốc tịch.
- “Cung cấp thông tin công cộng qua biên giới”.
Đây là một khái niệm rất phức tạp và đa dạng cho loại hình “cung cấp thông
tin công cộng” trên mạng Internet. Bởi vì để hội đủ điều kiện “qua biên
giới”, nó có thể phải bao gồm các đối tượng: + đang ở nước ngoài nhưng có
blog sử dụng mạng xã hội của VN, hoặc lập trang web thuộc nhà cung cấp trong
lãnh thổ VN; + đang ở VN nhưng có blog (bao gồm cả trang trên Facebook), trang
web thuộc nhà cung cấp không phải ở VN; + đang ở VN nhưng lại trong cơ quan
ngoại giao nước ngoài; + tuy nhiên, nếu thuộc ba loại vừa nêu, nhưng lại
không có “người sử dụng tại VN” hoặc không có người “truy cập tại VN”
thì có thuộc diện điều chỉnh của Điều 22 không, điều này cần nêu rõ trong thông
tư sắp tới.
- “Có người sử dụng/ truy cập tại VN”. Đây
cũng lại là một khái niệm khó xác định. Việc lập blog, trang web là quyền ở
người lập, nhưng việc “có người sử dụng tại VN” hay có người “truy
cập tại VN” hay không thì lại không tùy thuộc người lập. Việc xác định có
hay không và mức độ, số lượng người sử dụng, truy cập một blog, trang web nào
đó thì được coi là “có” không phải điều là đơn giản.
Như vậy dường như một chủ thể phải hội đủ đồng thời
cả 2 điều kiện vừa nêu trên thì mới thuộc phạm vi điều chỉnh của NĐ72. Cụ thể,
nếu chỉ có hành vi “cung cấp thông tin công cộng qua biên giới” mà lại
không xác định được là có “người sử dụng tại VN” hay “có truy cập tại
VN” hay không thì cũng không thể là đối tượng của NĐ72.
- Quyền định đoạt, sở hữu phương tiện “cung cấp
thông tin công cộng”. Tức là những “người nước ngoài” thuộc diện
điều chỉnh của thông tư sắp tới, khi “cung cấp thông tin công cộng qua biên
giới” đương nhiên phải thông qua các blog, web; thế nhưng quyền sở hữu của
họ với các công cụ này đến đâu thì được chấp nhận, coi như là “của” họ? Các
blog, web đó phải là do họ lập ra từ đầu, hay có thể cả những blog, web được
cho, tặng, bán, nhờ trông coi, có người khác lập và điều hành hộ, v.v. ? Bằng
cách nào để xác thực những hình thức “sở hữu” đó?
- Trong khi chưa có “quy định cụ thể” thì
những trang thông tin cá nhân, trang thông tin tổng hợp đã từng hoặc lúc
này đưa ra tuyên bố là mình thuộc loại “nước ngoài” và “xuyên biên
giới” thì vẫn phải chờ đợi văn bản hướng dẫn để được quyết định “số phận”.
- Một chữ “cần” (chứ không phải là “phải“)
đáng chú ý trong câu “Các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân nước ngoài … cần
tuân thủ các quy định của pháp luật của Việt Nam”. Nó có thể được
hiểu như một lời khuyên, không phải là một yêu cầu bắt buộc.
Chỉ sơ qua một số gợi ý nêu trên cũng đủ thấy riêng
Điều 22 cũng có thể làm cho NĐ72 này chưa thể “đi vào cuộc sống” được, mà nó
còn phải chờ thêm một Thông tư hướng dẫn, hoặc một thông tư riêng cho loại đối
tượng “… qua biên giới”, chưa nói tới phải có “nghị định về xử phạt vi
phạm trên Internet”, và thêm nữa (xin được trình bày tiếp vào sáng mai).
Xin bình tiếp về Nghị
định 72, với những lỗ hổng, mù mờ và bước thụt lùi, ít nhất là trong kỹ
thuật soạn thảo văn bản luật, so với NĐ97vốn
đã như bị chìm nghỉm suốt 5 năm qua..
+ Trong cả Điều 1 và Điều 2 của NĐ72
về Phạm vi điều chỉnh và Đối tượng áp dụng đều không nêu rõ ràng
về các hoạt động và đối tượng là “tại Việt Nam” như NĐ97 từ 5 năm trước.
Sự khác thường này còn liên quan tới Điều 22 ” xuyên biên giới” mà
sáng qua đã bình luận, dễ làm ta nghĩ đến “tham vọng” của cơ quan quản lý dường
như muốn quản cả hoạt động và đối tượng “cung cấp thông tin công cộng”
từ ngoài lãnh thổ VN khi “có người sử dụng/ truy cập tại VN”. .
“Tham vọng” trên càng rõ hơn khi trong Điều 2
NĐ72 này không có đoạn quan trọng như NĐ97, là “trong trường hợp các Điều
ước quốc tế liên quan tới Internet mà Việt Nam ký kết và gia nhập có quy định
khác với Nghị định này thì áp dụng quy định của Điều ước quốc tế”..
Có điều, các tác giả của NĐ72 hình như đã quên rằng ngay
trong những lời mở đầu bản NĐ, họ đã viết rằng: “… Căn cứ Luật công nghệ
thông tin ngày 29 tháng 6 năm 2006”. Họ “quên”, vì ngay Điều
2 của Luật Công nghệ thông tin đã “khoanh” Đối tượng áp dụng
chỉ là “tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức cá nhân nước ngoài tham gia hoạt
động ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin tại Việt Nam”. Như vậy cái
sự “quên” đó có thể được gọi là vi phạm “luật mẹ” mà NĐ72 căn cứ vào, là Luật
công nghệ thông tin hay không?.
Chưa hết, “luật mẹ” đó còn có cả quy định mà NĐ72 đã
như lờ đi là “Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là thành viên có quy định khác với quy định của luật này thì áp dụng quy định
của điều ước quốc tế đó” (Điều 3. Áp dụng Luật công nghệ thông tin)..
+ Và … vẫn còn nữa “tham vọng”, với dấu hiệu không
những muốn qua mặt “luật mẹ” mà còn tự mâu thuẫn với chính mình, trong NĐ72.
Trong Điều 20. Phân loại trang thông tin điện tử, có đoạn “4. Trang
thông tin điện tử cá nhân là trang thông tin điện tử do cá nhân thiết lập hoặc
thiết lập thông qua việc sử dụng mạng xã hội để cung cấp, trao đổi thông tin …”.
Ở điều này, có lẽ nhiều người đọc, nhiều báo, và cuối cùng là cả các quan chức
Bộ 4T qua các cuộc phỏng vấn đã tự suy diễn rằng nó bao gồm cả các blog, các
trang dưới dạng “mini blog” trên Facebook và các mạng xã hội khác. Thế nhưng,
họ đã “quên” rằng trong Luật
công nghệ thông tin, “trang thông tin điện tử” đã được “khoanh”
rất rõ là chỉ những website, tại Điều 4. Giải thích từ ngữ, mục 17, mà
hoàn toàn không nhắc tới “blog” hay các trang được lập trên mạng xã hội. Thêm
nữa, ngay trong chính NĐ72, trong Điều 3. Giải thích từ ngữ, mục 21 cũng
ghi rõ “trang thông tin điện tử” là các website, có nghĩa không bao gồm
các dạng blog..
Còn nhiều nữa những điều cần được mổ xẻ, đến độ
không khéo số phận của NĐ72 này sẽ được quyết định nhanh, chứ không phải đợi
tới khi có thông
tư hướng dẫn như người anh số 97 của nó. Có điều, không rõ là Cục Kiểm
tra văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Tư pháp có dám “thổi còi”, để bổ sung NĐ
này vào danh sách dài bất tận lẫy lừng thế giới, chưa từng có trong lịch sử VN,
với 4.178
văn bản ít nhiều vi phạm luật, được đánh giá bằng ngôn từ khéo léo rằng
“chưa đảm bảo tính hợp pháp”, chỉ tính riêng từ đầu 2013 đến nay?
(Xin được tiếp tục vào sáng mai).
Xin bàn tiếp về Nghị định 72, phần này nói tới việc từ sự
không rõ ràng trong văn bản pháp luật dẫn tới những giải thích tùy tiện của cơ
quan quản lý.
Từ văn bản không rõ ràng:
+ Như bình
luận hôm qua đã nêu, theo “Điều 3. Giải thích từ ngữ”
của NĐ72, và cả của Luật
công nghệ thông tin thì “trang thông tin điện tử” là các website.
Vậy “trang thông tin điện tử cá nhân” đương nhiên là các trang web cá
nhân, không phải là các blog, hay mini blog trên Facebook và các mạng xã hội.
+ Thế nhưng ở Điều 20. Phân
loại trang thông tin điện tử, khoản 4 lại có thêm một khái niệm mù mờ, rằng
“trang thông tin điện tử cá nhân” là “trang thông tin điện tử do cá
nhân thiết lập hoặc thiết lập thông qua việc sử dụng dịch vụ mạng xã hội …”
Câu này vừa không ổn về ngôn từ (AI “thiết lập thông qua việc sử dụng
dịch vụ mạng xã hội”?) , vừa không rõ loại “trang thông tin cá nhân”
trên mạng xã hội là website hay blog. Bởi theo giải thích từ ngữ thì phải là
website, nhưng trong thực tế thì trên các mạng xã hội gần như chỉ có các blog
mà thôi.
+ Cũng ở Điều 20, khoản
4 nêu “trang thông tin điện tử cá nhân là … không cung cấp thông tin tổng
hợp”. Như vậy điều khoản vừa nêu, cũng như 4 điều khoản kia, nằm trong mục
“phân loại”, có thể được hiểu như là một định nghĩa, hoàn toàn không mang ý
nghĩa như quy định bắt buộc, nhất là khi nó chỉ có chữ “không”, mà không
phải là “không được”, “cấm”, “nghiêm cấm”.
Tới giải thích tùy tiện:
+ Mặc dù từ NĐ72 cho tới Luật
công nghệ thông tin đều đã rõ “trang thông tin điện tử cá nhân” là các
website, thế nhưng ông Cục trưởng Phát thanh truyền hình và Thông tin điện tử
vẫn mặc nhiên coi các blog và mini blog trên Facebook cũng thuộc diện này: “Với
những trang thông tin cá nhân như blog, Facebook… ông Bảo cho biết …” (VNEconomy,
1/8/2913).
+ Chỉ với chữ “không”
mang tính chất “định nghĩa” ở Điều 20 nói trên khi đề cập tới việc gọi là “cung
cấp thông tin tổng hợp”, nhưng lại đã được ông Cục trưởng diễn giải thành “không
được” – mang tính cấm đoán: “Theo ông Bảo, trang cá nhân không được cung
cấp thông tin tổng hợp, bởi như thế thì sẽ thành trang thông tin điện tử tổng
hợp”.
+ Sự tùy tiện và tự mâu thuẫn
thể hiện thêm khi trên Thanh niên
có đoạn: “Trả lời báo chí chiều 1.8, ông Hoàng Vĩnh Bảo, Cục trưởng Cục
Quản lý phát thanh, truyền hình và thông tin điện tử (Bộ TT-TT) cho biết đây là
điều khoản được sử dụng để phân loại các loại hình trang TTĐT và không mang ý
nghĩa ngăn cấm việc “cung cấp thông tin tổng hợp” của chủ sở hữu trang thông
tin cá nhân. “
Cũng lại chính ông Cục trưởng
đã “mở lối” một cách rất tùy hứng, rằng “không ai cấm trang thông tin cá
nhân chia sẻ, nhưng cá nhân chia sẻ thông tin thì phải chỉ dẫn đường link đến
cơ quan sản xuất thông tin” và “trang thông tin điện tử cá nhân khi
trích một mẩu bài báo, một vấn đề nào đó và dẫn link và hoàn toàn có quyền bình
luận nhưng phải chịu trách nhiệm về bình luận ấy.“ Có nghĩa nếu muốn trích
bài báo nào đó, thì chỉ được trích “một mẩu” thôi, thì không bị coi là
“thông tin tổng hợp”? (VNEconomy,
1/8/2913). Còn ở một đoạn phỏng vấn khác, ông lại nói: “Họ có thể
copy một đoạn rồi dẫn link, còn copy cả bài thì không được …” (VNExpress,
1/8/2013). Vậy là chúng ta sẽ phải chờ xem người ta định nghĩa thế nào là
“một mẩu”, “một đoạn” trong một cuộc phỏng vấn khác, hoặc ưu ái hơn thì sẽ có
hẳn một định nghĩa trong thông tư hướng dẫn?
+ Sự “tùy hứng” còn được thể
hiện từ khái niệm mù mờ qua giải thích từ ngữ trong văn bản NĐ, rằng “thông
tin tổng hợp là thông tin được tổng hợp từ nhiều nguồn thông tin, nhiều loại
hình thông tin …” (Điều 3, khoản 19), nhưng đã được ông Cục trưởng
phát triển ra thành: “… không được dẫn thông tin tổng hợp, tức là không được
trích dẫn thông tin từ các cơ quan báo chí hay các trang web của cơ quan nhà
nước”. (VNExpress,
31/7/2913). Có nghĩa, theo như NĐ72, thì nếu như có ai đó lấy tin từ vài
nhân chứng là các blogger chứng kiến một vụ đụng xe ngoài phố, rồi “tổng hợp”
lại, đưa lên blog của mình, như thế cũng sẽ được gọi là “thông tin tổng hợp”,
là sẽ bị “cấm”. Nhưng với riêng ông Cục trưởng, thì phải là lấy tin từ nhiều
báo, trang web cơ quan nhà nước mới là “thông tin tổng hợp”.
+ Ngoài ra, dường như lại còn
có cả việc “mở lối” cho các “trang thông tin cá nhân” nào thực hiện “tổng hợp
thông tin”, thay vì xử phạt tức khắc: “Theo ông Bảo, không ai cấm trang
thông tin cá nhân trở thành trang thông tin tổng hợp, nhưng với điều kiện phải
thoả mãn các quy định, như phải thành lập doanh nghiệp, tổ chức, phải có
nhân sự quản lý, có đủ khả năng tài chính…” (VNExpress,
1/8/2013). Có nghĩa, khi phát hiện “trang thông tin cá nhân” nào đó
lại thực hiện “tổng hợp thông tin”, thì cơ quan chức năng sẽ yêu cầu chủ trang
làm thủ tục chuyển nó thành “trang thông tin tổng hợp”?
Trong những thủ tục đó, việc
thành lập “tổ chức” sẽ phải được hiểu như thế nào? “Tổ chức” ở nước ngoài, trên
mạng, hay như … CLB bóng đá NO-U có được hay không, hay là phải là “tổ chức
quốc doanh” của VN? Bởi vì trong Điều 20, khoản 2, cũng như Điều 3 Giải thích
từ ngữ, không nói rõ thế nào thì được gọi là “tổ chức”.
Để rồi sẽ áp dụng tùy thích?
Để thấy, từ một vài câu chữ
ngắn ngủi, không rõ ràng trong một Nghị định của Chính phủ, nhưng đã được các
quan chức cấp dưới phát triển ra thành những “quy định chi tiết” theo ý kiến
chủ quan của mình, chỉ qua những cuộc phỏng vấn, đề từ đây họ “đưa luật đi vào
cuộc sống”, để xử phạt, thậm chí bắt bớ?
Trong khi đó, với một người
hiểu ít nhiều về hệ thống pháp luật VN lâu nay, qua những trả lời báo chí ở
trên, có thể hình dung sẽ phải có một thông tư riêng cho các blog cá nhân, như Thông tư
07 kèm NĐ97
cách đây 5 năm.
Thế nhưng, chưa nghe các quan
chức Bộ 4T nói về thông tư đó, ngoài việc cho biết sẽ có thông tư về “cung
cấp thông tin công cộng qua biên giới”. Còn ở một tờ báo khác, thì dường
như lại đem tới “hy vọng” sẽ có một thông tư riêng khác cho việc “đăng tải
thông tin tổng hợp”: “Theo Thứ trưởng Bộ TT-TT Lê Nam Thắng, điều khoản này
trong Nghị định 72 mới chỉ đề ra nguyên tắc chung nhất. Trên cơ sở nguyên tắc
đó, Chính phủ đã giao Bộ TT-TT tiếp tục ban hành các hướng dẫn cụ thể liên
quan.” (Thanh
niên, 1/8/2013).
Như vậy, họ cứ để NĐ72 treo lơ
lửng trên đầu dân chúng theo kiểu này, với hàng vạn, triệu blogger, người dùng
Facebook, … luôn mang cảm giác mình rất có thể bị “phạm tội”, bị xử lý bất cứ
lúc nào mà không hiểu phải tránh “vi phạm” bằng cách nào.
(Kỳ sau bàn về xử lý các trang
tin mạo danh).
No comments:
Post a Comment