Robert D. Kaplan
The National Interest 01/8/2013
BS Hồ Hải dịch
Thứ
tư, ngày 07 tháng tám năm 2013
Đây
là một bài viết vô cùng thâm thúy và đáng để các quốc gia nhỏ bé quan tâm đến
nhiều vấn đề trong vận hành đất nước. Không đọc, không dịch thì không được!
Bài
viết của Robert D. Kaplan trên trang The National Interest ngày 01/8/2013. Ông
là nhà phân tích địa chính trị cho Stratfor, một công ty tình báo tư nhân toàn
cầu. Cuốn sách mới nhất của ông là Sự trả thù của Địa lý (The Revenge of Geography).
Bài
viết gốc: The Tragedy of U.S. Foreign Policy
Trong
hơn hai năm qua, cuộc nội chiến ở Syria đã được sánh đồng nghĩa với
những tiếng khóc của sự cấp bách về đạo đức. Hãy làm một cái gì đó! Câu nói này
như là tiếng thét của những người yêu cầu Hoa Kỳ can thiệp quân sự để thiết lập
tình hình vì những việc thiện, nhưng đến bây giờ tình hình ngày càng tồi tệ hơn
với chiến tuyến bao gồm hàng trăm chế độ và những nhóm nổi loạn và quân nổi dậy
đã bắt đầu xách súng bắn vào nhau. Rồi thì, các nhà can thiệp đạo đức cũng chỉ
biết thét lên, vâng, nếu như chúng ta can thiệp sớm hơn!
Trước
Syria, năm 2011 cũng chủ nghĩa nhân đạo đòi hỏi sự can thiệp quân sự vào Libya,
mặc dù chế độ Muammar Qaddafi đã từ bỏ chương trình hạt nhân của mình và đã hợp
tác trong nhiều năm với các cơ quan tình báo phương Tây. Nhưng thực tế, Hoa Kỳ
và Pháp đã cầm đầu một sự can thiệp, và Libya hôm nay hầu như không còn là một
nhà nước, với Tripoli nghèo hơn, trong khi đó thì điểm yếu của trọng tài đế
quốc cho lực lượng dân quân xa xôi, các bộ lạc, và gia tộc, mà các đơn vị lân
cận sa mạc Sahara đang trong tình trạng hỗn loạn hơn vì vũ khí tràn ngập ra
khỏi Libya.
Những
năm 1990 đầy những cuộc kêu gọi can thiệp nhân đạo: ở Rwanda, mà bi kịch đã
diễn ra chẳng ai chịu nghe, trong khi đó thì ở Bosnia và Kosovo nơi được can
thiệp, dù muộn, nhưng đã đạt được thành công lớn. Tự do từ những nhu cầu chính
sách thực dụng của chiến tranh lạnh, chủ nghĩa nhân đạo đã trải qua hai thập kỷ
cố gắng để giảm bớt chính sách đối ngoại đối với một khía cạnh của công tác
phòng chống tội diệt chủng. Thật vậy, Nazi Holocaust của Đức Quốc xã chỉ có tồn
tại ngắn ngủi đã bị loại bỏ trong đời sống của chúng ta – nó chỉ chiếm khoảng
một phần nghìn giây trong lịch sử loài người và do đó bây giờ chính sách đối
ngoại sau chiến tranh lạnh một cách đúng đắn chỉ tồn tại như cái bóng của nó.
Để rồi cuối cùng nó được hệ thống hóa chỉ trong 2 chữ R và P: "Trách nhiệm
đến Bảo vệ"(“Responsibility to Protect”), một câu thần chú không hơn không
kém của chủ nghĩa nhân đạo.
Nhưng
chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ có thể không chỉ được xác định bởi “Trách nhiệm
đến Bảo vệ” mà còn là "Không bao giờ lập lại!" ("Never
Again!"). Chính khách có thể hiếm khi quan tâm với các can thiệp nhân đạo
và bảo vệ nhân quyền để loại trừ những mối quan tâm khác. Hoa Kỳ, như bất kỳ
quốc gia nào khác - nhưng đặc biệt là bởi vì Hoa Kỳ là một quyền lực vĩ đại -
chỉ đơn giản là có những lợi ích mà không phải lúc nào cũng gắn liền với giá
trị lợi ích của Hoa Kỳ. Đó là bi kịch, nhưng lại là một bi kịch mà đã được
khẳng định và phải chấp nhận.
Cái
gì là những lợi ích quan trọng hơn đối với Hoa Kỳ? Đơn giản, Hoa Kỳ là thế lực
thống trị ở Tây bán cầu, nó luôn luôn phải ngăn chặn bất cứ một quyền lực nào
khác trở nên nổi trội ngang bằng ở bán cầu Đông. Hơn nữa, vì một sức mạnh hàng
hải cấp tiến, Hoa Kỳ phải tìm cách bảo vệ các đường giao thông huyết mạch trên
biển vì một sự dễ dàng cho thương mại thế giới. Nó cũng phải tìm cách bảo vệ cả
hai hiệp ước và các đồng minh trên thực tế của mình, và đặc biệt là tiếp cận
với các nguồn năng lượng hydrocarbon. Đó là tất cả những lợi ích mà, Hoa Kỳ không
nhất thiết phải vì quyền con người mà gây ra mâu thuẫn, cho dù là ở bất cứ quốc
gia nào không hoạt động trong cùng thể chế với nó.
Bởi
vì Hoa Kỳ là một cường quốc tự do, những lợi ích của nó - ngay cả khi những lợi
ích đó không trực tiếp liên quan đến nhân quyền - nói chung là đạo đức. Nhưng
chúng chỉ là loại đạo đức thứ yếu. Để tìm cách điều chỉnh cán cân quyền lực
trong lợi của một quốc gia đã được định hình trong suốt lịch sử một sự nghiệp
không đạo đức để theo đuổi bằng cả hai quyền lực tự do và phi tự do. Tuy nhiên,
khi một quyền lực tự do như Hoa Kỳ mà theo đuổi một mục tiêu vì trách nhiệm
ngăn chặn chiến tranh giữa các cường quốc, thì đó lại là hành động đạo đức mang
ý nghĩa cao cả nhất.
Một
ví dụ nói về sự căng thẳng này - một trong số đó được cho là trung tâm của lý
do tại sao Không bao giờ lập lại! và Trách nhiệm đến Bảo vệ không thể luôn luôn
là những ngôn từ dùng trong nghệ thuật chính trị(statesmanship) - mà gần đây đã
được lưu ý bỡi chuyên gia về những vấn đề đối ngoại Leslie H. Gelb. Gelb lưu ý rằng sau khi Saddam Hussein đã cho phép
Alli hóa học dùng hơi ngạt để làm chết 7.000 người Kurd ở miền bắc Iraq vào năm
1988, đây là một sự kiện mà thậm chí được xem là một "đạo lý thực sự"
đến nỗi ông Ngoại trưởng Hoa Kỳ George Shultz(*) đã phải cam kết một "sự
phẫn nộ về đạo đức". Nhưng lúc đó, đối với ông Shultz về cơ bản bỏ qua vụ
việc này và buộc phải tiếp tục hỗ trợ Saddam Hussein trong cuộc chiến của mình
để chống lại Iran, bởi vì mục tiêu làm suy yếu Iran không bảo vệ các công dân
của Iraq là quan tâm chính của Hoa Kỳ vào lúc đó.
Do
đó, có phải Shultz đã hành động vô đạo đức? Tôi tin là không hoàn toàn như vậy.
Shultz đã phải hành động theo một đạo lý khác hơn với một người bình thường áp
dụng chủ nghĩa nhân đạo. Ông ta đã hành động cho một đạo lý vì cộng đồng, mà
không mang tính riêng tư. Ông và phần còn lại của chính quyền Reagan đã có một
trách nhiệm đối với hàng trăm triệu người Hoa Kỳ mà họ phải nhận lấy trách
nhiệm phải bảo vệ. Và trong khi những triệu người này là những người đồng
hương, họ là các cử tri và là công dân, về cơ bản những người quan trọng hơn
những người Kurd xa lạ không biết đến Shultz hoặc Reagan là ai, nhưng lại là
những người đã trao cho Shultz và Reagan bằng chính lợi ích của họ. Và lợi ích
của cộng đồng Hoa Kỳ đã quyết định rõ ràng rằng trong hai quốc gia, Iran và
Iraq, thì Iran vào thời điểm đó là một mối đe dọa lớn hơn. Trong việc bảo vệ
lợi ích cộng đồng của cả một quyền lực tự do, một chính khách có thể không phải
lúc nào cũng phải hành xử tốt đẹp, hoặc nhân đạo.
Vấn
đề tôi đang nói ra đây là của một nền luân lý của kết quả công khai, chứ không
phải là một trong những mục đích riêng tư. Bằng cách hỗ trợ Iraq, chính quyền
Reagan đã thành công trong việc ngăn chặn Iran trở thành một bá quyền khu vực
trong những năm cuối của Chiến tranh Lạnh. Đó là một kết quả thuận lợi cho lợi
ích của Hoa Kỳ, ngay cả khi đạo lý của vụ việc là nhập nhằng, dù theo đánh giá
cho rằng chế độ của Iraq lúc đó là tàn bạo hơn của Iran.
Trong
việc đi tìm một kết quả tốt, nhà hoạch định chính sách thường được hướng dẫn
bởi những thúc ép: ví dụ, một nhận thức thực tế về những gí mà Hoa Kỳ nên và
không nên làm, với nguồn tài nguyên hữu hạn của nó. Cuối cùng là sự cân nhắc,
Hoa Kỳ đã có hàng trăm hàng ngàn binh lính bị mắc kẹt tại châu Âu và Đông Bắc Á
trong Chiến tranh Lạnh, và do đó phải kiềm chế Iran thông qua việc sử dụng một
sự ủy quyền, Saddam Hussein của Iraq là một sự lựa chọn tối ưu. Đó không phải
là một sự lựa chọn bất đạo lý hoàn toàn: mà đó là việc sử dụng thông minh của
những tài sản hạn chế trong bối cảnh của một cuộc chiến tranh địa chính trị
trên toàn thế giới.
Vấn
đề đối với một chính sách đối ngoại quan trọng nhất thúc đẩy bởi nguyên tắc
“Không bao giờ lập lại!” có nghĩa là nó phải biết bỏ qua các giới hạn và các
nguồn tài nguyên sẵn có. Thế chiến II đã cho thấy hiệu quả đạo lý, thứ yếu của
việc cứu lấy những gì còn lại của người Do Thái ở châu Âu. Hiệu quả và mục tiêu
chính của nó là nhằm khôi phục lại sự cân bằng quyền lực của châu Âu và châu Á
một cách chấp nhận được đối với Hoa Kỳ - một cái gì đó mà Đức quốc xã và phát
xít Nhật đã làm đảo lộn. Tất nhiên, Liên Xô giành quyền kiểm soát Đông Âu trong
gần nửa thế kỷ sau chiến tranh. Nhưng một lần nữa, do nguồn lực hạn chế đòi hỏi
phải có một liên minh của Hoa Kỳ với kẻ độc tài giết người hàng loạt Stalin để
chống lại một kẻ giết người hàng loạt khác là Hitler. Đó là vì một sự lựa chọn
khủng khiếp như vậy và một sự phục vụ cho sự thỏa hiệp - trong đó cả hai quốc
gia Hoa Kỳ và Liên Xô buộc phải bện chặt vào nhau với sự phi luân của đạo lý,
cái mà chủ nghĩa nhân đạo sẽ thường phải thất vọng với chính sách đối ngoại
ngay cả với một chính quyền có nghĩa khí nhất.
Thế
chiến II chắc chắn liên quan đến nhiều thỏa hiệp gớm ghiếc và thậm chí sai lầm
do một phần của Tổng thống Franklin D. Roosevelt. Ông đã vào cuộc chiến tranh ở
châu Âu quá muộn, ông không cho ném bom những đường sắt dẫn đến các trại tập
trung, ông có thể đã bị lôi vào sự hiếu chiến hơn với Liên Xô về vấn đề Đông
Âu. Nhưng như một người đại diện cho lợi ích của hàng triệu người lạ, mà họ đã
có và không bỏ phiếu cho ông, mục đích của ông là để đánh bại Đức Quốc Xã và Đế
quốc Nhật Bản trong một cách mà mạng sống những người lính Hoa Kỳ ít bị phí
phạm nhất, và làm sao sử dụng số lượng ít nhất từ các nguồn tài nguyên quốc
gia. Cứu những tàn tích của người Do Thái châu Âu là hậu quả luân lý về hành
động của ông, nhưng những phương pháp của ông có những nhượng bộ chiến thuật
chứa những yếu tố phi đạo đức cơ bản. Với Abraham Lincoln, về phần mình, ông đã
đưa hàng loạt đau khổ đến người dân miền Nam trong giai đoạn cuối cùng của cuộc
nội chiến để quyết đánh bại miền Nam. Tổng số cuộc chiến tranh tiến hành bởi
các tướng William Tecumseh Sherman và Ulysses S. Grant là bằng chứng về điều
đó. Đơn giản chỉ cần đặt mình vào vị trí đó thì sẽ thấy, có những hành động của
nhà nước mà buộc phải làm, ngay cả khi những hành động ấy không thể được định
nghĩa theo đạo lý thông thường.
Những
mục tiêu phi đạo lý, được áp dụng đúng cách, nó lại có tác dụng đạo đức. Thật
vậy, trong thời gian gần đây, Tổng thống Richard Nixon và ngoại trưởng, Henry
Kissinger, vội vã mang vũ khí đến Israel sau một cuộc tấn công bất ngờ của quân
đội Ả Rập vào mùa thu năm 1973. Về cơ bản là hai người đàn ông nói với Bộ Quốc
phòng Hoa Kỳ cho rằng hỗ trợ Israel trong thời điểm họ cần là điều phải làm,
bởi vì nó là cần thiết để gửi một thông điệp rõ ràng về quyết tâm của Liên Xô
và các đồng minh Ả Rập của họ ở giai đoạn quan trọng trong cuộc Chiến tranh
Lạnh. Họ đã chứng minh việc xuất vũ khí hoàn toàn trong việc giúp người Do Thái
sau nạn diệt chủng của Đức Quốc Xã - chứ không phải là về chính trị quyền lực
như họ đã làm – việc này có thể đã làm ra cuộc tranh luận mà Nixon và Kissinger
yếu hơn nhiều ở Washington, nơi các quan chức, một cách đúng đắn, họ mang lợi
ích của dân Hoa Kỳ ở trái tim hơn là vì những người Israel. George McGovern (**)
có thể là một người đàn ông đạo đức hơn cả Nixon và Kissinger. Nhưng nếu ông đã
được bầu làm tổng thống năm 1972, liệu ông sẽ có hành động một cách khôn ngoan
và vì dứt khoát như vậy trong năm 1973 ở chiến trường Trung Đông không? Thực tế
là, sự hoàn thiện cá nhân, như Machiavelli (***) cho biết, không nhất thiết
phải đồng nghĩa với đức hạnh cộng đồng.
Kế
đến là trường hợp của Đặng Tiểu Bình. Đặng Tiểu Bình đã thông qua đàn áp dã man
sinh viên tại Thiên An Môn ở Bắc Kinh trong năm 1989. Mọi người cho rằng ông
không được tôn trọng đối với chủ nghĩa nhân đạo ở phương Tây. Nhưng việc củng
cố kiểm soát của Đảng Cộng sản theo chính sách khẩn cấp cho phép phương pháp,
cải cách kinh tế theo định hướng thị trường của Đặng Tiểu Bình tiếp tục cho một
thế hệ ở Trung Hoa. Có lẽ chưa bao giờ trong lịch sử kinh tế đã ghi lại rất
nhiều người nhìn thấy một sự gia tăng đáng kể trong đời sống, với một sự gia tăng
trong những tự do cá nhân (nếu không đặt vấn đề chính trị ở đây) trong một
khoảng thời gian quá ngắn. Cho nên, Đặng Tiểu Bình có thể được coi là một người
cộng sản tàn bạo và cả là một người đàn ông vĩ đại nhất của thế kỷ XX. Đạo đức
của đời sống ông ta quả là phức tạp.
Can
thiệp ở Bosnia và Kosovo vào năm 1995 và năm 1999 thường được xem như bằng
chứng cho thấy hiệu quả nhất của Hoa Kỳ khi nó hoạt động theo các giá trị nhân
đạo của nó - không bao giờ để tâm vào những lợi ích phi đạo lý của nó. Nhưng
những người lập luận không quan tâm đến hai can thiệp thành công đã dễ dàng
nhìn vào thực tế là Hoa Kỳ hoạt động trong khu vực Balkan với sự cân bằng quyền
lực một cách mạnh mẽ trong thiện ý của nó. Nga trong những năm 1990 suy yếu và
hỗn loạn dưới sự cai trị không đủ năng lực của Boris Yeltsin, và do đó tạm thời
ít có khả năng để thách thức Hoa Kỳ trong một khu vực mà trong lịch sử các Nga
Hoàng(Czars: ám chỉ các ông vua cộng sản) và ủy viên(commissars) đã thống trị
đáng kể. Tuy nhiên, Nga, ngay cả trong những năm 1990, vẫn còn tạo được sự
thống trị đáng kể ở vùng Caucasus, và do đó một phản ứng của phương Tây để ngăn
chặn sự thanh lọc sắc tộc trong cùng thập kỷ này thậm chí cũng không được xem
xét. Nói rộng hơn, những năm 1990 cho phép can thiệp mặt đất trong khu vực
Balkan vì hoàn cảnh quốc tế là tương đối hiền hòa: Trung Hoa đã chỉ mới bắt đầu
mở rộng hải quân của mình (nhưng đã gây nguy hiểm
cho các đồng minh của chúng ta ở Thái Bình Dương) và sự kiện 11 tháng 9 vẫn còn
có thể xảy ra trong tương lai. Quả thật, đàng sau nhiều đáp ứng đạo lý còn một
câu hỏi về quyền lực mà không thể giải thích được một cách toàn diện về mặt đạo
đức.
Vì
vậy, để nâng cao đạo đức như là một trọng tài duy nhất thì không nên nghiêm
trọng về chính sách đối ngoại. Nguyên tắc Trách nhiện đến Bảo vệ phải đóng một
vai trò lớn như thực tế có thể trong những giải pháp của nhà nước. Nhưng nó
không thể được xem là biện pháp cơ bản. Syria là một ví dụ tốt nhất hiện nay về
điều này. Sức mạnh của Hoa Kỳ có khả năng làm được nhiều điều, nhưng lúc này mà
xây một căn nhà trong một xã hội Hồi giáo phức tạp và chiến tranh tàn phá thì
căn nhà ấy không dành cho bất kỳ người Syria nào. Về mặt này, kinh nghiệm bi
thảm của chúng ta tại Iraq thực sự là thích đáng. Ấn định nhanh chóng một vùng
cấm bay và vũ trang cho quân nổi dậy có thể lật đổ nhà độc tài Bashar al-Assad
ở Syria, nhưng điều đó chỉ có thể làm cho Tổng thống Barack Obama đáng khiển
trách trong nhiệm vụ của một bà đở sinh ra quyền lực cho một chế độ
Sunni-Jihad, thậm chí còn tạo ra một cuộc thanh lọc sắc tộc của người Alawites
do al-Assad bắt đầu tạo ra. Ít nhất là ở thời điểm cuối năm này, không nên có
số lượng đáng kể của người phương Tây hoạt động trên mặt đất trong một thời
gian đáng kể - một cái gọi là có sự hỗ trợ nhỏ của cộng đồng - khả năng để có
một chế độ tốt hơn, ổn định hơn có mặt tại Damascus là rất có vấn đề. Thành
thật mà nói, không dễ dàng để có giải pháp ở đây, đặc biệt là chế độ thân
phương Tây ở Jordan đang bị đe dọa bởi bạo lực tiếp tục Syria. Nguyên lý Trách
nhiệm và Bảo vệ đã được áp dụng trong năm 2011 ở Syria có thể thực sự đã mang
lại một kết quả chiến lược tốt hơn: nó sẽ vẫn còn tồn tại mà không một ai biết
được.
Bởi
vì đạo đức trong các vấn đề này luôn bị thúc đẩy bởi niềm đam mê chân chính,
bất cứ khi nào bạn không đồng ý với chúng, bạn cứ theo định nghĩa vô đạo đức và
bạn sẽ bị mất phương hướng; ngược lại những người có óc thực tế, thì xử lý một
cách chính xác bởi vì chúng được sử dụng để tạo ra xung đột, nên họ ít có khả
năng phản ứng thái quá với nó. Những người có óc thực tế biết rằng chính sách
của niềm đam mê và khôn ngoan hiếm khi đi cùng trên một dòng chảy. (Nhà ngoại
giao Richard Holbrooke là một ngoại lệ bất ngờ cho quy tắc này.) Những người có
óc thực tế tuân thủ các niềm tin của nhà khoa học chính trị của trường đại học
Chicago giữa thế kỷ XX, Hans Morgenthau, người đã viết rằng "người ta phải
làm việc với" các quyền lực cơ bản của con người tự nhiên, “chứ không
chống lại chúng". Do đó, những người có óc thực tế biết chấp nhận những
cái hữu hình của con người có trong tay ở bất kỳ hoàn cảnh nào, và hiểu được
cái mình có không bao giờ hoàn hảo. Có nghĩa là, bạn không thể chỉ chăm chăm
vào chuyện lật đổ chế độ chỉ vì bạn không thích chúng. Chủ nghĩa hiện thực,
Morgenthau còn cho biết thêm, "cảm thông với những sự kiện lịch sử chứ
không phải cứ ôm khư khư những nguyên tắc phi thực tế [của công lý] và nhằm vào
mục đích thực hiện cái ít ác hơn là làm những cái tuyệt đối tốt."
Không
có nhóm người nào làm được những hành động bi kịch tốt hơn so với những vị Tổng
thống thuộc đảng Cộng hòa trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Dwight Eisenhower,
Richard Nixon, Ronald Reagan và George HW Bush tất cả họ là những nhà hành động,
có những quyết định phi luân, đi theo chủ nghĩa hiện thực, thận trọng và khiêm
tốn trong các vấn đề ngoại giao (nếu không phải tất cả các thời điểm). Đó là sự
nhạy cảm của họ mà nên là bài học cho chúng ta hiện thời. Eisenhower đại diện
cho một sự thỏa hiệp thực dụng trong đảng Cộng hòa giữa những người theo chủ
nghĩa biệt lập(isolationists) và những người điên cuồng chống Cộng. Tất cả
những người này có xu hướng ủng hộ những chế độ đàn áp, phi dân chủ ở các quốc
gia thuộc thế giới thứ ba trong việc tạo ra sự cân bằng thuận lợi cho sức mạnh
chống lại Liên Xô. Nixon chấp nhận chế độ toàn trị tàn bạo ở Liên Xô và Trung
Hoa “Đỏ” là hợp pháp, ngay cả khi ông tạo ra một cân bằng lấy Trung Hoa chống
lại Liên Xô. Reagan nói theo ngôn ngữ của Wilson tái vũ trang đạo đức, ngay cả
khi ông ta trao cho các đòn bẩy quyền lực hành chính để hiện thực như Caspar
Weinberger(****), George Shultz và Frank Carlucci(*****), những người đã vạch
ra những ảnh hưởng về chính sách làm dịu những lời lẽ của Reagan. Bush cha đã không
phá vỡ mối quan hệ với Trung Hoa sau khi cuộc nổi dậy Thiên An Môn, cũng không
phải ông ta ngay lập tức cam kết hỗ trợ cho Lithuania, sau khi đất nước bé nhỏ
dũng cảm này tuyên bố độc lập, vì sợ làm mếch lòng quân đội Liên Xô. Đó là thận
trọng và kiềm chế đối với đảng của Tổng thống Bush đã giúp mang lại chiến tranh
lạnh kết thúc trong một không khí bình yên - và, đó là đạo đức. Trong một số
những chính sách này, sự khác biệt giữa sự phi luân và đạo đức là cái mà, ta có
thể lấy cách diễn giải của Joseph Conrad(******) trong tác phẩm Lord Jim, không
hơn "độ dày của một tờ giấy."
Và
đó chính là vấn đề: chính sách đối ngoại tốt nhất của mình là tinh tế, sáng
tạo, mâu thuẫn, và sự dũng cảm chỉ đúng vào thời điểm, nhận thức hành xử có
tính kỷ luật nhất là những giới hạn của quyền lực Hoa Kỳ. Đó là điều đau lòng,
chỉ đơn giản bởi vì các cuộc đàm phán hòng giảm bớt những khổ đau cho nhân loại
lại có quá nhiều trường hợp không có giải pháp. Cốt lõi của bi kịch trong đạo
đức ngoại giao không phải là chiến thắng cái ác để đạt đến cái tốt, mà nhiều
khi muốn đạt được cái tốt hơn cần phải chiến thắng một cái tốt để gây ra đau
khổ.
@The
National Interest, 01 August 2013
Ghi
chú:
(*)George
Pratt Shultz
(sinh ngày 13 tháng 12 năm 1920) là một nhà kinh tế Hoa Kỳ, chính khách và
doanh nhân. Shultz là một trong hai cá nhân phục vụ 4 đời tổng thống Hoa Kỳ
trong vị trí trong nội các chính phủ Hoa Kỳ. Người kia là Elliot Richardson.
Trước khi bước vào chính trị, ông là giáo sư kinh tế học tại MIT và Đại học
Chicago, ông từng là hiệu trưởng Graduate School of Business 1962-1969, Đại học
Chicago. Ông là Bộ Trưởng Lao Động 1969-1970, là Giám đốc Văn phòng Quản lý và
Ngân sách 1970-1972, là Bộ trưởng ngân khố 1972-1974, và là ngoại trưởng Hoa Kỳ
từ năm 1982 đến năm 1989. Ông hiện là một thành viên danh dự tại viện Hoover
tại Đại học Stanford.
(**)George
Stanley McGovern
(19 tháng 7 năm 1922 - 21 tháng 10 2012) ông là một nhà sử học người Hoa Kỳ,
một nhà viết sách, một Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ, và ứng cử viên tổng thống Đảng
Dân chủ trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1972 khi tranh cử với cố tổng thống
Richard Nixon.
(***)Niccolò
di Bernardo dei Machiavelli (03 Tháng 5 năm 1469 - ngày 21 tháng 6 năm
1527): ông là một nhà sử học người Ý, chính trị gia, nhà ngoại giao, nhà triết
học, nhân văn và nhà văn có trụ sở tại Florence thời Phục hưng. Ông đã có nhiều
năm làm quan chức tại Cộng hòa Florence, với trách nhiệm trong các vấn đề ngoại
giao và quân sự. Ông là người sáng lập của khoa học chính trị hiện đại, và đặc
biệt hơn đạo đức chính trị. Tác phẩm The Prince(Hoàng Tử) của ông có từ
"Thủ đoạn xảo quyệt"(Machiavellianism), là một thuật ngữ được sử dụng
rộng rãi để mô tả các chính trị gia vô đạo đức. Bản thân cuốn sách đã rất nổi
tiếng.
(****)Caspar
Weinberger
(18 tháng 8 năm 1917 - ngày 28 tháng 3 năm 2006), ông là một chính trị gia và
doanh nhân người Hoa Kỳ. Là một đảng viên Cộng hòa nổi bật. Ông phục vụ nhiều
vị trí quan trọng của nhà nước liên bang một cách thành công trong ba thập kỷ,
bao gồm như, Chủ tịch Đảng Cộng Hòa California, 1962-1968. Đáng chú ý nhất mà
ông được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Quốc phòng và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ dưới
thời Tổng thống Ronald Reagan 1981-1987, để góp phần đặt nền tảng Liên Xô và
Đông Âu sụp đổ năm 1990.
(*****)Frank
Carlucci Charles III (sinh ngày 18 tháng 10 năm 1930) là Bộ trưởng quốc
phòng Hoa Kỳ từ 1987-1989 trong chính quyền của Tổng thống Ronald Reagan. Trước
đó, Carlucci phục vụ trong một loạt các vị trí quan chức cao cấp của chính phủ,
bao gồm cả giám đốc của Văn phòng Cơ hội kinh tế(Office of Economic
Opportunity) trong chính quyền Richard Nixon, Phó Giám đốc CIA trong chính
quyền Jimmy Carter, và Thứ trưởng Quốc phòng và Cố vấn An ninh Quốc gia trong
chính quyền Reagan.
(******)Joseph
Conrad (sinh
ngày 03 tháng 12 năm 1857 - 03 tháng tám năm 1924) là một tác giả Ba Lan đã
viết bằng tiếng Anh sau khi định cư tại Anh. Ông đã được cấp quốc tịch Anh
trong năm 1886, nhưng luôn luôn coi mình là một cực. Conrad được coi là một
trong những tiểu thuyết gia vĩ đại nhất trong tiếng Anh, mặc dù ông không nói
được ngôn ngữ Anh trôi chảy cho đến khi ông đã ở tuổi hai mươi. Ông đã viết
những câu chuyện và tiểu thuyết, thường với một thiết lập hải lý, miêu tả thử
nghiệm của tinh thần con người ở giữa một vũ trụ vô tư. Ông là một bậc thầy văn
xuôi. Lord Jim là một tác phẩm của ông viết năm 1900.
Asia Clinic, 9h53' ngày
thứ Tư, 07/8/2013
No comments:
Post a Comment