Đào Tiến Thi
Posted by basamnews on August 27th, 2013
Giáo sư Hoàng Chí Bảo vừa có bài Trọng
sự thật và công lý để hành động có trách nhiệm nhằm bác bỏ những ý kiến (chủ yếu là của ông Lê Hiếu Đằng và
ông Hồ Ngọc Nhuận) về việc thành lập Đảng Dân chủ xã hội ở Việt Nam.
Toàn bài của Giáo sư Hoàng, từ tiêu đề, đều toát lên
tiếng nói của kẻ có quyền phán quyết và dạy dỗ. Ví dụ ngay đoạn đầu đã đóng
đinh bằng hàng loạt nhận định mang tính tiên đề, không có chứng minh, phân
tích, biện bác gì cả: “Ý Đảng – Lòng dân – Phép nước đã thống nhất và hòa
quyện làm một, tạo thành sức mạnh thúc đẩy đổi mới, làm nên sức sống của đổi
mới, thành tựu phát triển đất nước như hiện nay. Đổi mới là sự gặp gỡ tất yếu
và tự nhiên giữa những hối thúc của đời sống thực tiễn với những sáng kiến,
sáng tạo của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân từ cơ sở, cùng với quyết
sách đúng đắn, kịp thời của Đảng”.
Giáo sư dựa vào đâu để nhận định: “Ý Đảng – Lòng dân –
Phép nước đã thống nhất và hòa quyện làm một”? Và nếu thế không có gì phải
bàn, phải làm nữa. Chẳng lẽ Giáo sư không hề biết chỉ trong mấy năm qua hàng
loạt tập đoàn kinh tế nhà nước đổ vỡ, hàng nghìn dân oan bị tước đoạt ruộng
đất, phải đi khiếu kiện năm này qua năm khác mà vẫn không có kết quả gì; hàng
chục nghìn người phải ra nước ngoài làm thuê; hàng ngàn phụ nữ phải lấy chồng
ngoại, thực chất là những cuộc bán mình; hàng trăm người yêu nước và đấu tranh
cho chủ quyền dân tộc và lẽ công bằng bị kết tội tuỳ tiện hoặc thường xuyên bị
sách nhiễu, bất chấp luật pháp. Cả xã hội gần bất lực trước nạn tham nhũng, lạm
quyền và các loại tội phạm. Biển đảo thì ngày càng bị nhà cầm quyền Trung Cộng
ngang nhiên xâm lấn, ngư dân luôn bị khủng bố mà không có một chiến lược, một
quyết sách gì để ngăn chặn và hy vọng. Và còn bao nhiêu nan giải khác về xã
hội, giáo dục, y tế,… Là một nhà khoa học, nhất là khoa học xây dựng Đảng, lẽ
ra Giáo sư Hoàng phải cảnh báo cho Đảng để có sự điều chỉnh về đường lối chính
sách; còn đối với những tiếng nói đối lập, phải đối thoại cởi mở trên cơ sở
chân lý và đạo lý; nhưng qua bài trên, tôi thấy Giáo sư chỉ ra sức tô hồng hiện
thực và kết tội những người khác ý kiến, như thế còn đâu là “sự thật”, còn đâu
là “công lý” với “trách nhiệm” như tiêu đề của bài?
Giáo sư Hoàng khen ngợi thành tựu đổi mới của Đảng. Đồng
ý. Nhưng là một bài tranh luận, Giáo sư phải bác bỏ từng luận điểm của đối
phương. Khi ông Lê Hiếu Đằng nêu những cái phi lý, bất cập, tội lỗi của chính
thể hiện nay, lẽ ra Giáo sư phải bác bỏ từng điểm một mới phải, chứ sao lại lấy
cái hay để thay thế cho cái dở? Làm cho “Ông nói gà, bà nói vịt”, chẳng ăn nhập
gì cả. Công là công, tội là tội, làm sao lấy công thay cho tội được?
Bây giờ tôi xin tập trung phân tích hai ý chính trong của Giáo sư Hoàng Chí
Bảo:
- Ca ngợi công lao của Đảng, chủ yếu là giai đoạn từ phát
động “đổi mới” đến nay.
- Coi sự độc quyền lãnh đạo của Đảng là hợp lý, hợp tình.
Về ý thứ nhất, khi Giáo sư Hoàng ca ngợi công lao của Đảng trong công cuộc đổi mới đất
nước (từ cuối 1986, khi chấp nhận kinh tế thị trường, kinh tế tư bản, tư nhân)
không phải là sai nhưng coi đấy là tất cả do “thiên tài Đảng ta” thì thật không
khách quan, không vô tư. Cuộc “đổi mới” này, nói cho công bằng, là cuộc gỡ bớt
(bớt thôi chứ không hết) những cái ách phi lý đè nặng bấy nhiêu năm. So với
trước đó (kinh tế tập thể, tập trung, cấm tiệt kinh tế tư nhân, tư bản) thì
đúng là mới. So với Bắc Triều Tiên và Cu Ba, hai quốc gia kiên định giữ nguyên
mô hình CNXH, thì bước đi của Đảng Cộng sản Việt Nam là rất mới, rất táo bạo.
Nhưng so với Đảng Cộng sản Trung Quốc (tiến hành cải cách mở cửa từ năm 1978),
thì ta cũng bình thường thôi (chậm hơn Trung Quốc gần một thập kỷ và tốc độ
cũng chậm hơn nhiều). Còn so với sự đòi hỏi của thực tiễn, so với quy luật
chung của cuộc sống, so với con đường của hầu hết các quốc gia trên thế giới đã
đi thì sự “đổi mới” của ta chẳng có gì mới, thậm chí là quá chậm. Sự đổi mới ấy
chẳng qua là quay về với cái cũ (ở Việt Nam thời Pháp thuộc đã có kinh tế tư
bản không đến nỗi nhỏ). Kinh tế thị trường (tư bản) đã ra đời ở Âu – Mỹ, Nhật
Bản hàng trăm năm trước. Và thị trường của họ ngày nay đã tiến tới sự hoàn
thiện dưới sự điều hành, giám sát của nhà nước pháp quyền, của xã hội dân sự
(trong đó đặc biệt là vai trò của nghiệp đoàn, của tự do ngôn luận, tự do báo
chí), chứ không phải thị trường hoang dã, méo mó như Việt Nam hiện nay.
Tất nhiên là khi gỡ bớt những cái ách trên thì nhân dân
phấn khởi, sức lao động và sức sáng tạo bao nhiêu năm bị kiềm toả bỗng nhiên
được giải phóng. Lại thêm tư bản nước ngoài vào đầu tư, tất cả đã khiến kinh tế
Việt Nam khởi sắc hẳn lên. Tức là kinh tế bước đầu được vận hành theo quy luật.
Cứ nhìn vào hình ảnh người nông dân trên đồng ruộng khi vừa mới có chính sách
chia ruộng những năm cuối thập niên tám mươi, đầu thập niên chín mươi của thế
kỷ trước so với giai đoạn hợp tác xã trước đó thì đủ biết. Thời hợp tác xã,
người ta đệm cho cày nông choèn, rồi cày một đường lại bỏ “lỏi” nửa đường là
chuyện thường. Việc bừa cũng tương tự như vậy. Nhưng đến lúc chia ruộng, bà con
làm ruộng nhuyễn như nồi cháo nấu kĩ. Rồi bao nhiêu phân gio được chiu chắt,
chăm bẵm,… do đó lúa tốt hẳn lên chứ không “chó chạy hở đuôi” như thời hợp tác
xã. Trời còn mờ tối, bà con đã lục tục ra đồng, tối nhọ mặt vẫn chưa chịu về,
khác hẳn thời hợp tác xã, mặt trời còn con sào mới gọi nhau xuống đồng, lại còn
giải lao giữa giờ, trà thuốc chán chê, cho đến khi mặt trời sắp lặn mới xuống
làm tượng trưng một chút nữa rồi về.
Viết đến đây tôi muốn muốn minh hoạ thêm bằng một ý của
Mạc Ngôn (nhà văn Trung Quốc, giải Nobel 2012). Năm 1993, Mạc Ngôn qua thăm một
thành phố vùng biên giới Nga – Trung. Ông hết sức ngạc nhiên khi thấy cùng thảo
nguyên ấy, bên Nga đất đai hết sức phì nhiêu và rộng rãi so với Trung Quốc,
nhưng dân Nga lại nghèo khổ hơn hẳn dân Trung Quốc (lúc ấy Trung Quốc đã cải
cách được 15 năm, còn Nga vừa mới tan rã đế chế Xô Viết). Mạc Ngôn nhận định: “Người
dân dưới bất kỳ chế độ xã hội nào đều là một quần thể cần lao, dũng cảm, giàu
sức sáng tạo nhất. Chỉ cần nới lỏng một chút bàn tay xiết trên cổ họ, để họ có
thể hít thở được, chỉ cần nới lỏng một chút cái sợi dây xiềng xích giữ tay và
chân họ, để họ có thể lao động được, họ có thể sáng tạo ra cả một nền văn hoá
rực rỡ và những của cải lớn lao”[1].
Dẫu sao thì dân ta hiện nay cũng “vênh mặt” được với Bắc
Triều Tiên và Cu Ba. Nhưng so với Nhật Bản, Hàn Quốc, những nước cho đến tận
đầu thế kỷ XIX chỉ tương đương mình như, thì mình thật đau xót; còn so với
những nước lân bang như Thái Lan, Singapore, cho đến tận đầu thế kỷ XIX, vẫn
còn là “đàn em” của ta, thì thật hổ thẹn.
Và đúng là cuộc đổi mới đã giúp Đảng Cộng sản thoát hiểm
như nhận định của Giáo sư Hoàng Chí Bảo. Nhưng cuộc thoát hiểm đó mang tính
chất tình huống, tạm thời. Bởi vì chỉ đổi mới kinh tế mà không đổi mới chính
trị. Theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, kinh tế là cơ sở hạ tầng, quyết
định kiến trúc thượng tầng, tức hình thái nhà nước; và kiến trúc thượng
tầng phải phù hợp với cơ sở hạ tầng. Lực lượng sản xuất phát triển đến độ như
bây giờ thực sự đã mâu thuẫn gay gắt với kiến trúc thượng tầng. Kinh tế thị
trường do không đi đôi với nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự đã dẫn đến
những nhóm lợi ích, những sự cạnh tranh mang tính maphia,… Và đặc biệt là tình
trạng tham nhũng vô phương cứu chữa. Càng duy trì tình trạng này sẽ càng tiếp
tục khủng hoảng, cả kinh tế và chính trị. Chính nó đe doạ sự tồn vong của Đảng,
chứ không phải “các thế lực thù địch”.
Về ý thứ hai, Giáo sư Hoàng nêu: “Dân ủy thác cho Đảng trọng trách. Sứ mệnh, địa vị
và trọng trách của Đảng là sự lựa chọn của dân, là sự tin cậy mà dân dành cho
Đảng…”. Thế nhưng giáo sư lại không biện luận, không chứng minh được điều
này. Thử hỏi, dân uỷ thác cho Đảng bao giờ, dưới hình thức nào? Đã gọi là uỷ
thác thì phải qua một hình thức “khế ước” như qua hiến pháp, qua các bộ luật,
qua việc bầu cử tự do. Hiến pháp hiện hành có ghi: “Đảng Cộng sản Việt Nam là
lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội” (Điều 4) nhưng nhân dân chưa bao giờ
được phúc quyết điều này. Tất cả các chức danh lãnh đạo của Đảng hoàn toàn do
Đảng bầu, Đảng cử chứ dân không có quyền gì. Giáo sư lý giải thế nào hình ảnh
một xã hội được gọi là dân chủ nhưng người đại diện cho mình, thực thi những
quyền lợi của mình, quyết định số phận của mình, lại không phải do mình bầu
lên?
Giáo sư viết tiếp: “Phản ứng và thái độ của cá nhân là
quyền của mỗi người, nhưng quyền ấy phải thuận theo đạo lý và luật pháp”.
Không hiểu đó là đạo lý gì và luật pháp nào? Ở dưới, Giáo sư có giải thích
nhưng cũng chẳng sáng tỏ gì hơn: “Đó là lẽ phải và đạo lý ở
đời và làm người mà Bác Hồ gọi là Thân dân và Chính tâm. Với
những đảng viên của Đảng Cộng sản, đòi hỏi này càng cần phải tôn trọng
nghiêm ngặt hơn bởi sự dẫn dắt của lý trí tỉnh táo, sáng suốt và thái
độ chính trị nghiêm túc, biết tự mình trung thành với lý tưởng và
nguyên tắc, cùng với giữ trọn đạo làm người cách mạng” (nhấn mạnh
của ĐTT). Thật quá nhiều ngôn từ to tát nhưng lại không nói được điều gì. Thử
hỏi ông Lê Hiếu Đằng, ông Hồ Ngọc Nhuận,… vi phạm đạo lý và lẽ phải
ở chỗ nào? Không thân dân, không chính tâm, không tỉnh táo,…
ở chỗ nào?
Lại nữa, Giáo sư viết: “Khi đã giác ngộ chân lý thì
phải phục tùng chân lý”. Không hiểu Giáo sư nói chân lý nào đây? Sống dưới
chế độ Sài Gòn, ông Lê Hiếu Đằng thấy không có tự do, độc lập; Đảng nêu cao tự
do, độc lập, ông thấy đấy là chân lý nên đi theo. Nay ông Lê Hiếu Đằng thấy
Đảng không coi trọng tự do, độc lập nữa, ông muốn thành lập một đảng khác để
thực thi tự do, độc lập, thì đó cũng là chân lý. Chân lý là quá trình nhận
thức, quá trình tìm kiếm không ngừng chứ đâu phải là cái gì bất biến.
Phần cuối, Giáo sư Hoàng vô tình hay hữu ý đã đánh tráo
khái niệm khi ông bàn sang vấn đề đa đảng ở các nước tư bản (dân chủ): “Có
một thực tế lịch sử hiển nhiên cũng cần được làm rõ, trong các nước tư bản chủ
nghĩa, dù tồn tại đa đảng và các đảng đối lập, nhưng vẫn định hình một đảng cầm
quyền. Chính trường ở đó thường xuyên diễn ra các cuộc tranh giành quyền lực
giữa các đảng chính trị tư sản. Họ chỉ đa nguyên, đa đảng trên hình thức, còn
trên thực tế đều tỏ rõ sự nhất nguyên, bởi đảng chính trị tư sản nào cũng không
bao giờ xa rời mục đích bảo vệ cho quyền thống trị và sự tồn tại của chủ nghĩa
tư bản”.
Đúng là trong chính thể đa đảng của các nước dân chủ luôn
diễn ra cuộc tranh giành và tất nhiên rốt cuộc có một đảng thắng và lên cầm
quyền. Nhưng sự cầm quyền ấy khác hẳn sự độc quyền của đảng cộng sản ở các nước
cộng sản. Trước hết sự cầm quyền của họ là do nhân dân quyết định (phải thắng
phiếu trong bầu cử); thứ hai, khi cầm quyền, họ buộc phải thực thi pháp luật và
thực thi những điều đã cam kết; nếu không làm được, sẽ bị nhân dân phế truất
bằng nhiều cách khác nhau.
Chưa kể, đảng cầm quyền luôn đối mặt với đảng đối lập,
với xã hội dân sự, với tự do ngôn luận và báo chí, do đó luôn luôn bị chỉ trích
nếu có khuyết điểm. Vì vậy đảng cầm quyền khó có cơ hội chỉ vơ vén cho quyền
lợi ích kỷ của mình. Tuy vậy, một đảng cầm quyền lâu ngày vẫn thường dẫn đến
tha hoá. Do đó như ta thấy ở Mỹ và một số nước, mỗi đảng (cũng như tổng thống)
giỏi lắm chỉ cầm quyền được hai nhiệm kỳ. Nhiệm kỳ hai thường là đuối sức,
nhiều tổng thống buộc phải từ chức giữa nhiệm kỳ. Nền chính trị dân chủ của họ
do đó luôn luôn được “thay máu”, có lẽ vì thế mà chế độ tư bản “giãy” mãi mà
không “chết”!
Giáo sư Hoàng cũng lặp lại một điều mà các đồng nghiệp
của ông ai cũng bám lấy: “Không phải cứ đa nguyên đa đảng là có thể xây dựng
được xã hội dân chủ”. Đúng. Không phải cứ đa nguyên đa đảng là có thể xây
dựng được xã hội dân chủ. Cũng như không phải cứ ăn chất đạm thì khoẻ mạnh, cứ
dùng thuốc thì chữa được bệnh. Nhưng muốn khoẻ mạnh thì không thể từ chối ăn
chất đạm, muốn chữa được bệnh thì không thể không dùng thuốc. Cho nên cái mệnh
đề trên của Giáo sư Hoàng và một loạt giáo sư Mác – Lê-nin khác chả có gì đứng
vững. Nhưng điều này thì có: Không phải cứ đa nguyên đa đảng là có thể xây dựng
được xã hội dân chủ nhưng muốn xây dựng xã hội dân chủ, không thể không đa
nguyên, đa đảng. Điều này thực tế đã chứng minh: chưa hề có nước nào độc đảng
mà có dân chủ, nhưng nhiều nước đa nguyên đa đảng thì đã có dân chủ, ít nhất
cũng dân chủ hơn các nước độc đảng. Tại sao ta không đi con đường mà thế giới
đã đi, cứ nhất nhất đi con đường riêng chưa ai đi, và con đường riêng ấy luôn luôn
phải loay hoay, chật vật? Và thỉnh thoảng, ở tình huống bế tắc quá thì lại làm
cú “phá rào” để thoát hiểm?
Cuối cùng, Giáo sư Hoàng lại quay về với Điều 4 Hiến pháp
để bảo vệ sự độc quyền của Đảng: “Điều 4 trong Hiến pháp đã khẳng định về
vai trò lãnh đạo cầm quyền của Đảng. Đó là ý chí của dân, nguyện vọng của dân,
đạt được sự đồng thuận rất lớn của xã hội. Đảng ta trong nhận thức và đánh giá
của dân, có đầy đủ tính chính đáng pháp lý và sự xứng đáng về phẩm giá và uy
tín của một Đảng lãnh đạo và cầm quyền”.
Sao Giáo sư lại dùng Điều 4 Hiến pháp thay cho lập luận?
Lẽ ra Giáo sư phải làm ngược lại: dùng lập luận để biện giải, chứng minh cho sự
đúng đắn của Điều 4. Dựa vào đâu mà Giáo sư bảo Điều 4 là “ý chí của dân”? Đã
bao giờ Hiến pháp được phúc quyết chưa? Đã bao giờ Điều 4 được đem ra trưng cầu
dân ý chưa?
Mấy năm trước, tôi thấy một số chuyên gia Ban Tư tưởng –
Văn hoá Trung ương lo lắng không biết nên “diễn giải” như thế nào về Đảng bây
giờ. Trong tình hình hiện nay, vấn đề có lẽ càng cấp bách hơn. Người như Giáo
sư Hoàng, lẽ ra có nhiệm vụ biện giải để làm sao sáng ngời tính chính danh của
Đảng (chứ không phải càng nói càng hỏng). Hoặc là phải tham mưu cho Đảng, làm
sao có đủ chính danh. Và nhất là làm sao “thay máu” để Đảng lành mạnh trở lại,
chứ không phải nói lấy được những điều trên.
Một người “gác cổng” lâu năm cho Đảng về mặt lý luận lại
có học hàm giáo sư, tôi thật buồn khi thấy bài của Giáo sư Hoàng chỉ ở tầm “dư
luận viên” mà thôi. Thực tình tôi nghĩ không phải trình độ Giáo sư Hoàng Chí
Bảo như vậy. Vì tôi đã từng nghe Giáo sư Hoàng giảng về Nghị quyết Trung ương
IV khá hay. Lần giảng về NQ Trung ương IV đó, cách đây chưa lâu, Giáo sư đã
phân tích nguyên nhân thoái hoá chính là từ trong Đảng (do tham nhũng, lộng
quyền, dối trá,… mà ra chứ không phải do “thế lực thù địch” dùng thủ đoạn “diễn
biến hoà bình” nào cả). Vậy bây giờ có lẽ do Giáo sư không nói thật, không căn
cứ vào sự thật, cho nên gần như chẳng biện bác được gì ngoài những khẩu hiệu
khô cứng. Thiết nghĩ bảo vệ Đảng như thế thật hoá ra hại Đảng. Như cụ Nguyễn Du
đã viết: Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau.
Đ.T.T.
[1] Tạp văn Mạc Ngôn, Nhà xuất bản Văn học, 2005.
No comments:
Post a Comment