Hà Văn
Thịnh
24/01/2013
Cách đây 230 năm, năm 1783, cuộc chiến tranh giành độc lập của
nhân dân 13 thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ giành được thắng lợi – đây là thành công
đầu tiên trong sự nghiệp giải phóng dân tộc của toàn thể loài người bị áp
bức trong thời đại tư bản chủ nghĩa!
Một Hiến pháp có trước... nhà nước
Điều “lạ kỳ” là sau thắng lợi đó, những nhà cách mạng Mỹ không
thành lập một chính quyền cho tương xứng với công lao của những người đã khai
sinh ra nền độc lập; hầu như họ không quan tâm đến việc ai sẽ giữ chiếc ghế
nào, “ăn chia” ra sao chiếc bánh lợi quyền béo bở mà phải mất bao xương máu,
suốt 10 năm trời mới giành được (17.12.1773-4.9.1783): Cách hành xử của những
nhà cách mạng Mỹ chưa hề có tiền lệ – ai về nhà nấy, sau khi đã làm trọn bổn
phận công dân, không cần biết đến chuyện nên (phải?) khen thưởng ai, như thế
nào đối với sự “có công với cách mạng”!
Ý định đó của sự ấu trĩ của lòng tốt nhanh chóng bị thực tế tàn
nhẫn của xã hội sau chiến tranh giày xéo, tình trạng vô chính phủ nhanh chóng
xảy ra, tiểu bang nào cũng muốn giành cho mình sự độc quyền cao nhất, có lợi
nhất, khiến cho 13 tiểu bang gây ra bao cảnh huynh đệ tương tàn, và “nước” Mỹ,
theo cách nhận xét của George Washington, “giống như một lâu đài được xây bằng
cát”. Muốn khắc phục tình trạng đó, giải pháp duy nhất là phải thành lập một
chính quyền, đây là điều mà đến năm 1787, hầu như ai cũng biết. Nhưng, chính
quyền đó sẽ ra sao? Nó giống với mô hình Pháp hay Anh? Những bậc tiên tổ của
nhà nước Mỹ tương lai giật mình bởi họ đoan quyết rằng phải thành lập một mô
hình nhà nước hoàn toàn mới, không giống với bất kỳ ai; và, quan trọng nhất, nó
phải là nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân. Sáu chữ đó là
sáu chữ vàng bởi nó trở thành nền tảng, cội nguồn, nguyên tắc bao trùm mọi
nguyên tắc trong suốt quá trình soạn thảo Hiến pháp (HP).
G. Washington, nguyên là Tổng Tư lệnh quân Cách mạng trước đây,
được mời giữ ghế chủ tọa Hội nghị Lập Hiến. 55 con người trẻ tuổi (đa số dưới
40 tuổi, riêng A. Hamilton, vào năm 1787, chỉ mới 30 tuổi; J. Madison
mới 36 tuổi – họ được coi là những cha đẻ của HP Mỹ) chính là các tinh
hoa chính trị được tập hợp từ các tiểu bang, về sau được ca ngợi đó là những
người tinh anh nhất, “gần như là thánh thần” của nhân loại vào cuối thế kỷ 18.
Những gì lịch sử ca ngợi về tài năng của 55 người đó không hề quá lời: Chẳng
hạn, Benjamin Franklin (1706-1790) là một người đa tài: thợ in, chủ tòa báo,
thẩm phán, Chủ tịch Hội Triết học Mỹ, thống đốc tiểu bang, nhà ngoại giao,
thương gia giàu có, người thành lập Đại học Pensylvania, người phát minh ra cột
chống sét, ống thông tiểu, đàn harmonica, kính hai tròng, công ty cứu hỏa tư
nhân và, ông nói thành thạo 5 ngoại ngữ... Tài năng, nhân cách và tầm nhìn vĩ
đại đã được cộng hưởng để làm ra bản HP đầu tiên trong lịch sử loài người mà hầu
như, không có bất kỳ một lỗi văn bản lớn nào!
55 “cha đẻ” của nhà nước Mỹ, trong đó nổi bật nhất là Alexander
Hamilton (hình của ông được khắc trên tờ 10 USD), James Madison (người có hình
trên tờ 50 USD) và Benjamin Franklin (trên tờ 100 USD)...
Ngày 25.5.1787, Hội nghị Lập pháp được khai mạc tại Philadelphia –
“thành phố của tình huynh đệ”. Gần bốn tháng ròng rã, những cuộc tranh luận
quyết liệt đã nổ ra và tận cho đến lúc đặt bút ký (17.9), nhiều đại biểu vẫn
còn chất chứa những bất đồng. Bản dự thảo và những bất đồng đó còn được 5 triệu
người dân xem xét kỹ lưỡng trước khi được Quốc hội chính thức thông qua vào năm
1789. Nhìn chung, HP Mỹ đã được làm ra trên cơ sở những định hướng tìm tới sự
hoàn hảo có thể; được cụ thể hóa thành nhiều nguyên tắc do nhiều đại biểu đề
xuất, được A. Hamilton và J. Madison diễn đạt phần nào qua những bài báo rồi
tập hợp thành tác phẩm Liên bang thư tập (The Federalist Papers).
Những nguyên tắc lập pháp
Chúng ta muốn tạo dựng một nền tảng (HP) sẽ trường tồn qua mọi
thời đại, vậy thì, phải dự liệu đủ những thay đổi mà các thời đại đó sẽ tạo ra.
Nguyên tắc này khẳng định rõ những điều không bao giờ thay đổi như
quyền tư hữu là thiêng liêng và bất khả xâm phạm; quyền sống, quyền tự do và
quyền kiếm tìm hạnh phúc như Tuyên ngôn Độc lập đã chỉ ra; quyền người dân ủy
nhiệm cho chính quyền, nhân dân có quyền bầu lên và bãi nhiệm chính quyền đó...
Tất nhiên, có rất nhiều điều sẽ thay đổi nên HP dự liệu các khoản bổ sung – Tu
Chính Án (Amendment, TCA), chẳng hạn, TCA 22, thông qua năm 1951, quy định tổng
thống không được làm quá hai nhiệm kỳ.
Việc thành lập một chính quyền thích hợp phải do chính người dân
lựa chọn thông qua sự biểu quyết rộng rãi nhất. Không
một ai có quyền áp đặt mô hình nhà nước không tương thích với mong muốn và lợi
ích của người dân. Sau rất nhiều tranh cãi, nhân dân Mỹ đã chọn mô hình nhà
nước tam quyền phân lập; theo đó, một trong ba cơ quan lập pháp, hành pháp và
tư pháp, luôn bị hai cơ quan kia giám sát.
Xu hướng sửa đổi HP để mưu đồ quyền lực nhiều hơn cho một vài cá
nhân là xu hướng lạm quyền của mọi quyền lực; vì thế, phải thiết
lập một cơ chế sao cho có thể ngăn ngừa mọi ý đồ thao túng và sửa đổi HP.
Theo nguyên tắc này, quyền tham gia của mọi công dân là tối hậu chỉ khi nào có
trên 2/3 thượng nghị sĩ hoặc thống đốc bang yêu cầu thì việc xem xét sửa
đổi HP mới được đặt ra. Quy định này có nghĩa là, nếu muốn xóa bỏ quyền được
trang bị vũ khí, phải có ít nhất 67 TNS hoặc 34 thống đốc bang yêu cầu.
Xu hướng lạm quyền và lộng quyền là thuộc tính tất nhiên của con
người, vì thế, phải thiết lập cơ chế sao cho đủ khả năng để ngăn chặn mọi ý đồ
lạm quyền đó. Ngoài cơ cấu tam quyền phân lập, HP Mỹ còn định rõ cơ chế các
thành viên của Tòa án Tối cao, các thẩm phán của tòa án khu vực trong toàn liên
bang, được giữ quyền trọn đời, nếu không xin nghỉ hưu hoặc mắc bệnh hiểm nghèo
(tâm thần, bệnh suy giảm trí nhớ...). Như vậy, tòa án sẽ không phải chịu bất kỳ
áp lực nào từ phía chính quyền hoặc cử tri!
Đảng phái là cội nguồn của chủ nghĩa bè phái và chủ nghĩa bè phái,
đến lượt nó, chủ nghĩa bè phái là cội nguồn làm vẩn đục HP. Vì
thế, cơ cấu tổ chức chính quyền không cho phép bất kỳ đảng phái nào có thể can
thiệp vào bộ máy một cách trực tiếp. Mỗi đảng phái, trước HP, chỉ là một tổ
chức công dân, chịu sự điều chỉnh, giới hạn của luật pháp.
Đa số người dân là thờ ơ với chính trị, vì thế, phải thiết lập cơ
chế sao cho hạn chế đến mức thấp nhất sự vô trách nhiệm của người dân đối với
việc bầu ra chức vụ lãnh đạo cao nhất. Nguyên tắc này khẳng định
cách bầu cử, theo đó, tổng thống sẽ được quyết định bởi số đại cử tri tương
đương với số lượng nghị sĩ của mỗi tiểu bang.
Các tiểu bang lớn luôn có xu hướng chèn ép các tiểu bang nhỏ hơn,
vì thế, cơ chế tổ chức nhà nước phải hạn chế đến mức thấp nhất sự chèn ép này. Đây là
lý do để các tiểu bang dù lớn hay nhỏ đều có hai thượng nghị sĩ trong thượng
viện. Bất kỳ một đạo luật nào dù Hạ viện đã thông qua (nơi các bang lớn có lợi
thế) đều phải được Thượng viện chuẩn y, và ngược lại.
Các cơ quan tư pháp dễ bị mua chuộc và lạm dụng, vì thế, phải có
thiết chế cho người dân được quyền giám sát, quyết định trực tiếp đến các phán
quyết tối thượng của tòa án. Nguyên tắc này đề ra cơ chế thành lập bồi
thẩm đoàn (The Jury), do người dân bầu ra. Các viên chức của ba cơ quan lập
pháp, hành pháp, tư pháp không được tham gia vào bồi thẩm đoàn. Phán quyết của
bồi thẩm đoàn về có tội hay không, mức án, là tối thượng.
Việc thay đổi hay ban hành các điều luật mới luôn ảnh hưởng trực
tiếp đến lợi ích của người dân. Do đó, phải thiết lập cơ
chế để hạn chế đến mức thấp nhất sự ban hành hay thay đổi một đạo luật, ngăn
chặn mọi xu hướng tắc trách khi ban hành các văn bản luật pháp. Nguyên tắc
này bảo đảm sai sót ít nhất (hầu như chưa xảy ra, cho đến thời điểm này) về
việc ban hành đạo luật mới. Khi một đạo luật được khởi xướng ở Thượng viện
chẳng hạn, nó sẽ được trình cho Tiểu ban Tư pháp xem xét, sau đó trình lên
Thượng viện. Nếu được thông qua, sẽ tiếp tục được chuyển sang Tiểu ban Tư pháp
Hạ viện, rồi toàn thể Hạ viện; cuối cùng mới được trình lên tổng thống. Đạo
luật được thông qua, sẽ mang tên người đề xuất – vừa để vinh danh vừa để tăng
tính trách nhiệm của dự luật. Nếu tổng thống phủ quyết, trình tự sẽ được làm
lại từ đầu.
Quân đội, cảnh sát là công cụ của chính quyền nên phải tuân thủ
các mệnh lệnh của chính quyền. Và, để ngăn ngừa sự lộng quyền, độc tài hóa, các
quân nhân và cảnh sát đang tại ngũ không được phép tham gia vào cơ quan lập
pháp. Nguyên tắc này mặc nhiên khẳng định rằng quân đội hay cảnh sát nếu
họ vào thượng viện hay hạ viện, không có quyền phản kháng chính quyền, không có
quyền được luận “tội” chính quyền, tức là không bảo đảm được năng lực tác
chiến, vì khi luận “tội”, họ đang chống lại chính quyền. Quân nhân hay viên
chức cảnh sát, muốn vào nghị viện, phải ra khỏi quân ngũ...
Trên đây là vài khái lược về sự hình thành và các nguyên tắc lập
pháp của nhà nước Mỹ – nhà nước hiện đại đầu tiên trong lịch sử loài người –
một mô hình nhà nước chưa thể tìm thấy sự đối sánh nào khả dĩ hiệu quả hơn. Đó
cũng là mô hình nhà nước chưa hề có tiền lệ với bản HP cho đến nay là độc nhất
vô nhị, trường tồn, bất chấp sự thay đổi về thời gian và không gian. Nước Cộng
hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang chuẩn bị bước qua một thời khắc trọng đại
bằng việc lấy ý kiến toàn dân để sửa đổi Hiến pháp 1992. Rất mong mỏi rằng việc
lấy ý kiến đó không phải là chuyện hình thức, bởi một sự thật giản dị: Nếu ngay
cả HP cũng chỉ là bàn để cho vui thì không có cái gì trên đời này có thể được
coi trọng! Một bản Hiến pháp khoa học, nhân văn, phù hợp ý nguyện của
toàn dân, xu thế của mọi thời đại, chắc chắn là nguyên tắc, điều kiện đầu
tiên cho sự phát triển vững bền...
Không phải ngẫu nhiên mà Lời Tuyên thệ của Tổng thống Mỹ chỉ có
một ý ngắn gọn là BẢO VỆ HIẾN PHÁP. Một khi HP được soạn thảo hoàn chỉnh thì
mọi cố gắng của công dân – kể cả TT, chỉ duy nhất một vấn đề là bảo vệ để thực
thi đúng như HP đặt ra, không cần bất kỳ một sự thêm, bớt nào bởi những thêm
hay bớt đó đều làm vẩn đục HP!
Huế, 24.1.2013
H. V. T.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
No comments:
Post a Comment