Thạc sĩ Nguyễn Hùng Cường / Nguyễn
Hưng - VnExpress
Thứ
bảy, 26/1/2013, 10:16 GMT+7
"Đây
là bài rất khôn ngoan của Philippines trong hoàn cảnh mọi giải pháp ngoại giao
đã thất bại. Mục tiêu của họ là công khai hóa, thể hiện lẽ phải; còn Trung Quốc
không tuân thủ luật pháp, không có chính nghĩa", thạc sĩ Nguyễn Hùng
Cường, khoa Luật (ĐHQG Hà Nội) phân tích.
-
Ông đánh giá như thế nào về đơn kiện của Philippines khi mà Trung Quốc đã có
bảo lưu không chấp nhận bất kỳ thủ tục nào về tranh chấp trên biển khi trở
thành thành viên của Công ước Luật biển 1982?
Thạc
sĩ Nguyễn Hùng Cường
: Tòa án được Philippines gửi đơn kiện là
tòa án trọng tài quốc tế được thành lập theo phụ lục VII của UNCLOS (arbitral
tribunal). Ngày 25/8/2006, Trung Quốc đã có báo cáo gửi Liên Hợp Quốc đưa ra
các tuyên bố bảo lưu theo Điều 298 của UNCLOS. Theo các bảo lưu này Trung Quốc
có quyền không chấp nhận bất kỳ biện pháp giải quyết tranh chấp nào theo quy
định tại điều 287, bao gồm 4 phương pháp: một là Tòa án công lý của Liên hợp
quốc, hai là Tòa án Luật biển quốc tế (ITLOS), ba là Tòa án trọng tài và bốn là
Tòa án trọng tài đặc biệt (giải quyết các tranh chấp liên quan tới đánh bắt hải
sản, bảo vệ và gìn giữ môi trường biển hoặc nghiên cứu khoa học biển) đối với
tất cả các loại tranh chấp được quy định tại điểm a,b,c Khoản 1 Điều 298.
Một
số người, đặc biệt là một số học giả Trung Quốc, cho rằng Trung Quốc có thể từ
chối thẩm quyền của Tòa án trọng tài và tòa án này không đủ thẩm quyền thụ lý
đơn kiện vì Trung Quốc đã có văn bản bảo lưu này. Philippines khi đưa ra đơn
kiện cũng biết rất rõ điều này. Tuy nhiên, phải xem xét kỹ các quy định tại
điều khoản về quyền bảo lưu này có thể tạo thành chiếc khiên bảo vệ cho Trung
Quốc trong mọi trường hợp hay không.
Thạc sĩ Nguyễn Hùng
Cường cho rằng Philippines đã lách qua một khe cửa hẹp, không đề cập tới các
vấn đề mà Trung Quốc bảo lưu. Ảnh: Nguyễn
Hưng.
Theo
quy định tại điểm a khoản 1 Điều 298 các
bảo lưu này chỉ áp dụng đối với những vấn đề liên quan đến các vụ tranh chấp về
việc giải thích hay áp dụng các Điều 15, 74 và 83 tức là liên quan đến việc
hoạch định ranh giới các vùng biển (bao gồm hoạch định ranh giới lãnh hải, vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa các quốc gia có đường bờ biển kề nhau
hay đối diện nhau) hay các vụ tranh chấp về các vịnh hay danh nghĩa lịch sử.
Philippines
hiểu rõ điều này và họ rất khôn ngoan khi đưa ra đơn kiện của mình. Trong đơn
kiện, Philippines không đưa ra các vấn đề hoạch định ranh giới các vùng biển
nêu trên mà đưa các vấn đề sau: Một, đề nghị tòa trọng tài đưa ra phán quyết
xác nhận đường ranh giới 9 đoạn (đường chữ U, đường lưỡi bò) là vi phạm UNCLOS
1982. Hai, việc Trung Quốc xây dựng công trình trên các bãi, vỉa đá ngầm trong
phạm vi 200 hải lý của Philippines đã vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán
của Phi trên thềm lục địa hay không. Ba, các luật nội địa Trung Quốc đưa ra
(như cấm đánh bắt hải sản hàng năm) trên Biển Đông đã vi phạm UNCLOS. Bốn, việc
Trung Quốc đã cản trở Philippines thực thi quyền lợi trong các vùng biển của
mình cũng như ở các bãi, vỉa đá ngầm và vùng biển xung quanh đã vi phạm UNCLOS.
Hơn
nữa, các bảo lưu tại điểm a,b,c khoản 1 Điều 298 UNCLOS chỉ áp dụng với các
tranh chấp giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền hay đối diện. Rõ rằng
Phillippines và Trung Quốc không phải là những quốc gia như vậy.
Philippines
đã rất khôn ngoan khi lách qua một khe cửa hẹp, không đề cập tới các vấn đề mà
Trung Quốc bảo lưu. Trên cơ sở các nghiên cứu của chúng tôi, tôi cho rằng tòa
trọng tài có cơ sở để xác định thẩm quyền giải quyết những vấn đề mà
Philippines đưa ra.
- Theo ông, diễn
biến tiếp theo của vụ kiện là gì?
Thạc
sĩ Nguyễn Hùng Cường
: Trước hết là về thủ tục trọng tài,
mỗi bên sẽ chọn một tài viên cho mình từ danh sách trọng tài viên do Tổng Thư
ký Liên hợp quốc lập ra. Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, Tòa Trọng tài sẽ có
5 thành viên. Philippines sẽ cử một người là trọng tài từ danh sách do mình
chọn. Sau đó, Trung Quốc sẽ có 30 ngày để đưa ra trọng tài của mình kể từ ngày
Philippines gửi Thông báo khởi kiện cho Trung Quốc. Ba trọng tài còn lại sẽ do
các bên thỏa thuận cử ra và công dân nước khác trừ khi các bên có thỏa thuận
khác. Các bên cử Chánh toà của Toà trọng tài trong số ba trọng tài đó.
Như
vậy, trong trường hợp Trung Quốc không đồng ý với thẩm quyền của Tòa trọng tài,
thì tòa trọng tài vẫn được thành lập và trong vòng 60 ngày kể từ ngày nhận được
thông báo khởi kiện của Philippines nếu Trung Quốc không chọn trọng tài cho
mình thì Trung Quốc mất quyền lợi, phần thiệt sẽ thuộc về Trung Quốc.
- Trong trường hợp
tòa đưa được phán quyết và giả sử những điều Philippines là đúng thì hiệu lực
của phán quyết này ra sao?
Thạc
sĩ Nguyễn Hùng Cường
: Nhìn xa hơn câu chuyện (thông thường
thủ tục trọng tài sẽ mất 3-4 năm), giả sử tòa trọng tài đưa ra phán quyết đường
chữ U, luật nội địa của Trung Quốc vi phạm luật quốc tế... thì hiệu lực phán
quyết như thế nào? Có bác bỏ được Trung Quốc từ đó trở đi không được đưa ra
đường chữ U nữa hay không?
Thực
tế phán quyết đó không cấm được Trung Quốc tiếp tục thực thi các hành động vi
phạm đó vì phán quyết của Tòa trọng tài không hề có biện pháp đảm bảo thực thi.
Trong trường hợp có tranh chấp về vấn đề thi hành án thì theo UNCLOS, các bên
có quyền đưa ra Tòa trọng tài đã đưa ra phán quyết để quyết định tuy nhiên điều
đó không đảm bảo vấn đề thực thi phán quyết của Tòa. Dưới góc độ luật quốc tế
hiện nay duy nhất chỉ có phán quyết của Tòa án Công lý quốc tế mới có HĐBA Liên
hợp quốc đứng ra bảo đảm thực thi.
Các
nhà chiến lược của Phillippines chắc chắn cũng nhìn ra câu chuyện này, vì thế,
cái họ hướng tới có lẽ không phải là hiệu lực của phán quyết. Mục tiêu của họ
là công khai hóa mọi thứ, thể hiện họ là người đúng, là người có lẽ phải; còn
Trung Quốc, ông là nước lớn nhưng không tuân thủ luật pháp, không có chính
nghĩa.
Trung
Quốc chắc chắn sẽ phải cân nhắc giữa hình ảnh của mình và những lợi ích đạt được
khi làm sai, cái gì lớn hơn? Giữ hay hi sinh hình ảnh đó để chiếm lấy lợi ích
từ các đảo, bãi đá ngầm? Với chủ trương “trỗi dậy hòa bình”, tư tưởng nước lớn
muốn lãnh đạo thế giới, tôi nghĩ Trung Quốc sẽ phải cân nhắc rất kỹ nếu muốn
tiếp tục thực hiện những hành vi sai trái này.
-
Dưới góc độ ngoại giao, hành động của Philippines nói lên điều gì?
Thạc
sĩ Nguyễn Hùng Cường
: Trong trường hợp này, đơn kiện của
Phillippines mang lại một hệ quả rất thú vị: "quốc tế hóa vấn đề Biển
Đông". Từ trước tới nay, Trung Quốc vô cùng sợ điều này. Với lợi thế của
"gã khổng lồ", Trung Quốc luôn muốn dùng đàm phán song phương để
"bẻ gãy từng chiếc đũa". Đương nhiên khi Phillippines khởi kiện, dù
chưa nói tới thắng hay thua, thì mọi người sẽ nhìn vào, nơi chàng David nhỏ bé
chiến đấu với gã khổng lồ Goliat. Cả thế giới sẽ quan tâm, nhìn vào, báo chí
đưa tin um xùm và người ta sẽ đón chờ phản ứng của Trung Quốc. Trung Quốc, với
tư cách là một ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo an, với sức mạnh của nền
kinh tế thứ hai thế giới, họ sẽ chứng tỏ gì?
Là
một nước lớn, chỉ riêng việc Trung Quốc từ chối ra tòa đã thể hiện cái lý của
Trung Quốc có vấn đề. Một nước nhỏ kiện, lý do gì ông không tham gia, trong khi
đây là một biện pháp giải quyết hòa bình. Như thế hình ảnh của Trung Quốc trước
dư luận sẽ không đẹp chút nào. Đấy là bài rất khôn ngoan của Philippines trong
hoàn cảnh mọi giải pháp ngoại giao đã thất bại, và nói như ngoại trưởng của
nước này, Rosario, "sự kiên nhẫn đã cạn kiệt".
Tất
nhiên, câu chuyện sẽ dẫn tới vấn đề Trung Quốc trả đũa như họ từng làm thông
qua con đường kinh tế và gây thiệt hại không nhỏ cho Philippines. Nhưng như
Tổng thống Philippines Aquino đã nói, họ vô cùng quyết liệt, họ không đánh đổi
vấn đề kinh tế để nhân nhượng về chủ quyền. Và đương nhiên Trung Quốc hiểu rằng
đây là một hòn đá tảng, một đối thủ không dễ nuốt.
- Vụ kiện của
Philippines sẽ đem lại bài học gì cho ASEAN và Việt Nam trong việc giải quyết
tranh chấp ở biển Đông?
Thạc
sĩ Nguyễn Hùng Cường
: Gần như mọi quốc gia trên thế giới
đều có tâm lý e ngại Trung Quốc, không biết Trung Quốc nghĩ gì bởi Trung Quốc
luôn nói một đằng, làm một nẻo. Từ năm 2009 tới nay, đối với Việt Nam, ASEAN và
các nước khác, Trung Quốc luôn nói tới hòa bình hữu nghị, hợp tác lâu dài,
không muốn làm phức tạp thêm tình hình... nhưng bản thân Trung Quốc luôn làm
phức tạp thêm tình hình. Nào là cắt dây cáp, mời thầu dầu khí trong vùng đặc
quyền kinh tế của Việt Nam, đơn phương đưa các lệnh đánh bắt cá...
Giống
như chuỗi domino, mọi người sẽ nghĩ đến khả năng, nếu Philippines làm vậy, có
thể Việt Nam, Malaysia cũng sẽ làm. Rõ ràng tuyên bố đường chữ U vi phạm UNCLOS
thì bất cứ nước nào là thành viên công ước cũng có thể làm. Chẳng hạn như
Canada, ở rất xa Biển Đông, có thể kiện lên tòa trọng tài rằng Trung Quốc vi
phạm. Nhưng Canada có làm thế không khi họ phải tính tới lợi ích của họ?
Câu
chuyện này là một thách thức cho ASEAN, cho thấy sự đoàn kết, cơ chế hợp tác
của ASEAN thực tế là lỏng lẻo. Tôi nghĩ rằng, tới đây, cả khối sẽ phải nhìn lại
cơ chế đó đã đủ để bảo vệ các thành viên của mình hay chưa? Có thể, nó sẽ thúc
đẩy ASEAN cùng ngồi lại với nhau tìm ra một cơ chế hữu hiệu, hoàn hảo hơn.
Còn
đối với Việt Nam, Bộ Ngoại giao đã
lên tiếng về vụ việc. Cá nhân tôi cho rằng, chúng ta phải thể hiện quan điểm rõ
ràng, mạnh mẽ trong vụ việc này vì những vấn đề mà Philippines phản đối cũng là
việc chúng ta đang phản đối, lợi ích mà nước này đang bảo vệ cũng chính là lợi
ích của chúng ta.
Nguyễn Hưng thực hiện
---------------------------------------
Thạc sỹ Hoàng Việt / BBC
Cập nhật: 16:00 GMT - thứ sáu, 25 tháng 1, 2013
Vendredi
25 Janvier 2013
1/ Phi kiện Trung Quốc về các điều gì ?
Ngày 23 tháng giêng năm 2013, trên
trang web của của Bộ Ngoại giao Phi (DFA), có đăng văn bản giải thích, qua hình
thức câu hỏi và trả lời, các thủ tục và nguyên nhân vì sao Phi kiện Trung Quốc
trong vấn đề tranh chấp tại biển Tây Phi. Theo văn bản này, bộ Ngoại giao Phi
đã chuyển công hàm đến tòa Đại sứ Trung quốc tại Manille vào chiều ngày
22-1-2013, cho biết Phi đã nộp hồ sơ đưa Trung Quốc ra Tòa trọng tài theo Phụ
lục VII của Công ước Quốc Tế về Biển 1982. Ngoại trưởng Albert del Rosario sau
đó họp báo và giải thích, sở dĩ Phi đã phải dùng tới giải pháp này vì đã cạn
kiệt mọi giải pháp chính trị và ngoại giao nhằm giải quyết tranh chấp hòa bình
với Trung quốc tại Biển Tây Phi (WPS).
Theo công hàm gởi Tòa và Đại sứ TQ
tại Manille, nội dung hồ sơ của Phi gồm có 10 điểm yêu cầu Tòa, tóm lược như
sau:
1- Các quyền của TQ và Phi ở biển
Đông phải tuân thủ theo UNCLOS. (Các quyền được xác định theo phần II đối với
lãnh hải và vùng tiếp giáp, theo phần V đối với vùng ZEE và theo phần VI đối
với thềm lục địa).
2- Yêu sách đường 9 đoạn của TQ là vô
giá trị.
3- Các cấu tạo lúc chìm lúc nổi,
không nằm trong lãnh hải các quốc gia ven biển, thuộc đáy biển, thì không thể
chiếm hữu, ngoại trừ cấu tạo đó nằm trên thềm lục địa của quốc gia theo phần VI
UNCLOS.
4- Các bãi Vành Khăn, Mc Kennan, Xi
Bi và Gaven là các cấu tạo chìm khi thủy triều lên, không phải là đảo theo qui
định của điều 121 UCLOS, cũng không nằm trên thềm lục địa TQ, việc TQ chiếm
đóng có trái phép hay không và việc xây dựng trên các bãi cạn này có trái phép
hay không ?
5- Bãi Vành Khăn và McKennan thuộc
thềm lục địa của Phi theo phần VI của UNCLOS.
6- Bãi Hoàng Ngam và các đá Châu
Viên, Gạc Ma, Chữ Thập là các bãi chìm, ngoài trừ vài mỏm đá nhô trên nước khi
thủy triều lên. Chúng chỉ là « đá » theo điều 121 khoản 3 của UNCLOS, vì thế
chỉ có thể có lãnh hải không quá 12 hải lý. TQ đã đòi hỏi một cách phi lý quyền
mở rộng các vùng biển quá 12 hải lý tại các cấu tạo này.
7- TQ đã vi phạm luật pháp khi ngăn
cấm các tàu của Phi khai thác các vùng biển cận Hoàng Nham và đá Gạc Ma.
8- Phi có quyền về lãnh hải 12 hải
lý, ZEE 200 hải lý và thềm lục địa, theo các phần II, V và VI của UNCLOS, tính
theo đường cơ bản quần đảo của Phi.
9- vật và phi sinh vật và đã khai
thác phi pháp các tài nguyên này và cũng đã vi phạm pháp luật khi không cho Phi
khai thác các tài nguyên sinh vật và phi sinh vật trong vùng EEZ và thềm lục
địa của mình.
10- TQ đã can thiệp một cách bất hợp
pháp quyền tự do hàng hải của Phi được xác định theo UNCLOS.
2/ Ý nghĩa pháp lý các yêu cầu:
Từ 10 điểm trong nội dung kiện, Phi yêu
cầu Tòa phán quyết ở 13 điều. Các điểm quan trọng ghi lại như sau:
Điểm 1, Phi yêu cầu Tòa phán rằng các quyền của các bên ở biển Đông phải tuân thủ theo UNCLOS. Ở đây nên phân biệt quyền chủ quyền về kinh tế tại vùng độc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa 200 hải lý và các quyền chủ quyền khác (như trên đất liền) tại vùng lãnh hải (12 hải lý) và tiếp cận lãnh hải (12 hải lý), phù hợp với nội dung các phần V, VI và II của UNCLOS. Điểm này Tòa có thể tuyên bố chấp thuận dễ dàng, vì nó thuộc thẩm quyền của tòa và vì nó phản ảnh nội dung của UNCLOS. Lợi ích ở điều này là đặt các yêu sách về quyền của Trung Quốc vào trong khuôn khổ của Luật quốc tế. Trường hợp các tàu vũ trang của TQ đột lốt “hải giám” (mà hành sử như “hải tặc”) ở vùng biển của VN trong vài năm nay, từ nay phải hành sử trong khuôn khổ của Luật quốc tế cho phép.
Điểm 1, Phi yêu cầu Tòa phán rằng các quyền của các bên ở biển Đông phải tuân thủ theo UNCLOS. Ở đây nên phân biệt quyền chủ quyền về kinh tế tại vùng độc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa 200 hải lý và các quyền chủ quyền khác (như trên đất liền) tại vùng lãnh hải (12 hải lý) và tiếp cận lãnh hải (12 hải lý), phù hợp với nội dung các phần V, VI và II của UNCLOS. Điểm này Tòa có thể tuyên bố chấp thuận dễ dàng, vì nó thuộc thẩm quyền của tòa và vì nó phản ảnh nội dung của UNCLOS. Lợi ích ở điều này là đặt các yêu sách về quyền của Trung Quốc vào trong khuôn khổ của Luật quốc tế. Trường hợp các tàu vũ trang của TQ đột lốt “hải giám” (mà hành sử như “hải tặc”) ở vùng biển của VN trong vài năm nay, từ nay phải hành sử trong khuôn khổ của Luật quốc tế cho phép.
Điểm hai,
Phi yêu cầu tòa tuyên bố yêu sách của TQ qua bản đồ đường 9 đoạn là vô giá trị.
Điểm này Tòa có thể tuyên bố thuận, vì vẫn nằm trong thẩm quyền của tòa, do hai
lý do : 1/ bản đồ 9 đoạn không có giá trị ràng buộc vì không phải là bản đồ
phân định ranh giới, chưa hề được nhìn nhận bởi các bên liên quan như kết quả
của một (hay nhiều) kết ước phân định ranh giới biển. 2/ TQ không chứng minh
được “quyền lịch sử” hay “vùng nước lịch sử” của họ tại vùng biển giới hạn
trong đường 9 đoạn. (TQ chưa bao giờ thể hiện thẩm quyền chủ tể của họ tại vùng
biển này. Giả sử có, thì thẩm quyền này đã không thể hiện một cách liên tục.
Trong khi các nước trong khu vực chưa bao giờ, ám thị hay minh thị, chấp nhận
thẩm quyền của TQ trong vùng biển).
Nếu Tòa tuyên bố thuận, việc này sẽ
buộc phía TQ làm sáng tỏ các luận cứ của mình, nếu muốn duy trì đòi hỏi các
quyền chủ quyền ở biển Đông. Phía TQ, có lẽ đã ý thức sự phi lý của bản đồ chữ
U, do đó trong thời gian gần đây có khuynh hướng tuyên bố « TQ có chủ quyền
không thể chối cãi các đảo HS và HS và vùng biển chung quanh » chứ không nhắc
tới “quyền lịch sử” hay vùng “nước lịch sử” tại vùng biển này nữa. Phía TQ phải
đưa các chứng cớ cụ thể để chứng minh « chủ quyền không thể chối cãi tại các
đảo » và giải thích « vùng biển chung quanh » là vùng biển được xác định theo
tiêu chuẩn nào ?
Điểm 3, yêu cầu của
Phi, về các cấu tạo lúc chìm lúc nổi, không nằm trong lãnh hải các quốc gia ven
biển, thì không thể chiếm hữu, ngoại trừ cấu tạo đó nằm trên thềm lục địa của
quốc gia theo phần VI của UNCLOS.
Ở điểm này chưa biết chắc Tòa sẽ
tuyên bố ra sao. Phi vịn vào phần VI của UNCLOS để yêu cầu nhưng không có điều
nào trong bộ Luật Quốc tế về Biển xác định về tình trạng pháp lý của các cấu
tạo lúc chìm lúc nổi.
Trong vụ kiện giữa Qatar và Bahreïn (Qatar đơn phương kiện
Bahreïn lên CIJ), Tòa có nói về việc này như sau:
“luật pháp quốc tế im lặng về tình
trạng pháp lý của các bãi lúc chìm lúc nổi, các bãi này có thể xem như là một
“lãnh thổ” hay không ? luật pháp hiện hành cũng không thể xác định là các bãi
đó có thể xem như là một lãnh thổ tương đương với “đảo” hay không”.
Tức UNCLOS không nói gì về tình trạng
pháp lý của các bãi lúc chìm lúc nổi.
Vấn đề đặt ra, do kẻ hở pháp lý này,
phía TQ có thể chiếm hữu các cấu tạo địa lý này đồng thời tuyên bố các quyền
thuộc chủ quyền của họ (về lãnh hải, EEZ, thềm lục địa...), như trường hợp đá
Hoàng Nham.
Tuy nhiên, trong vụ tranh chấp giữa
Tân Gia Ba và Mã Lai về chủ quyền của các đảo Pedra Branca/Pulau Batu Puteh,
Middle Rocks và South Ledge qua phán quyết của Tòa án Quốc tế (CIJ) ngày
23-5-2008, ta thấy trường hợp tương tự. South
Ledge là một đảo đá lúc chìm lúc nổi, chỉ thấy khi thủy triều thấp. Trường hợp
này, tòa có nhắc lại tình trạng mơ hồ về pháp lý của các cấu trúc địa lý này
trong vụ án dẫn trên, nhưng Tòa
phán rằng South Ledge nằm ở vùng lãnh hải nước
nào thì sẽ thuộc chủ quyền của nước đó.
Nếu phán quyết này trở thành một “án
lệ”, (và các bãi lúc nổi lúc chìm không được chiếm hữu), yêu cầu của Phi có thể
được Tòa chấp thuận.
Dầu vậy, yêu cầu của Phi ở điểm này
rất chính đáng và hữu ích, vì nó có thể làm sáng tỏ một điểm mờ từ nhiều năm
nay trong Luật quốc tế về Biển. Nó sẽ loại bỏ được các đòi hỏi phi lý của TQ về
các quyền chủ quyền tại các cấu trúc địa lý lúc nổi lúc chìm đã cưỡng chiếm
bằng vũ lực trong vùng Biển của VN năm 1988.
Điểm 4, về tình trạng
pháp lý của các cấu tạo địa lý mang tên Vành Khăn, Mc Kennan, Xi Bi và Gaven,
là các cấu tạo chìm thường trực dưới mặt nước, không thuộc qui chế đảo theo qui
định của điều 121 UCLOS, cũng không nằm trên thềm lục địa TQ. Phi yêu cầu Tòa
xác định việc TQ chiếm đóng có trái phép hay không và việc xây dựng trên các
bãi cạn này có trái phép hay không ?
Yêu cầu của Phi cũng rất chính đáng,
có thể được Tòa chấp thuận, vì thuộc thẩm quyền của tòa.
Các cấu tạo địa lý chìm dưới mặt nước
dĩ nhiên không phải là « một lãnh thổ ». Nếu không phải là lãnh thổ thì làm sao
có thể chiếm hữu, sau đó đòi hỏi các quyền chủ quyền ?
Điểm 5, Phi yêu cầu
Tòa tuyên bố bãi Vành Khăn và McKennan thuộc thềm lục địa của Phi theo phần VI
của UNCLOS.
Điểm này phụ thuộc vào điểm 4 ở trên.
Nếu Tòa phán thuận ở điểm 4, hệ quả tất nhiên cũng sẽ phán thuận ở điểm 5.
Điểm 6, bãi Hoàng Nham
và các đá Châu Viên, Gạc Ma, Chữ Thập là các bãi chìm, ngoài trừ vài mỏm đá nhô
trên nước khi thủy triều lên. Chúng chỉ là « đá » theo điều 121 khoản 3 của
UNCLOS, vì thế chỉ có thể có lãnh hải không quá 12 hải lý. Phi yêu cầu Tòa phán
rằng TQ đã đòi hỏi một cách phi lý quyền mở rộng các vùng biển quá 12 hải lý
tại các cấu tạo này.
Ở điểm này dường như Phi, một cách ám
thị, đã nhìn nhận chủ quyền của TQ tại các cấu tạo địa lý này. Mà điều này
không đúng. Bởi vì các đá Châu Viên, Gạc Ma, Chữ Thập… là các cấu trúc địa lý
của VN, vì chúng là một thành phần không thể tách rời của các đảo cận bên mà
các đảo này thuộc về VN. Yêu cầu điều này, có lẽ mục tiêu của Phi nhằm “khoanh
vùng tranh chấp” với Trung Quốc. Vì Tòa không có thẩm quyền phân xử tranh chấp
chủ quyền, do đó ý kiến của Phi có thể “vô hại”. Vùng tranh chấp giữa Phi và TQ
như vậy được xác định không quá 12 hải lý chung quanh các bãi đá Hoàng Nham,
Châu Viên, Gạc Ma và Chữ Thập.
Tuy nhiên, ngoài việc bảo lưu các đá
trên thuộc VN, yêu cầu của Phi là chính đáng. Vì, các đá này nếu thuộc về VN
hay của nước nào khác, thì cũng chỉ là “đá” đúng như định nghĩa ở điều 121,
khoản 3 của UNCLOS, không thể đòi vùng biển quá 12 hải lý. Ở yêu cầu này Tòa có
thể thỏa mãn cho Phi vì nó thuộc thẩm quyền của Tòa và phù hợp với Luật quốc
tế.
Điểm 7, Phi yêu cầu
Tòa phán rằng TQ đã vi phạm luật pháp khi ngăn cấm các tàu của Phi khai thác
các vùng biển cận Hoàng Nham và đá Gạc Ma. Yêu cầu này của Phi liên quan đến
điều 6 ở trên. Nhưng ở điểm này Tòa sẽ khó tuyên bố chấp thuận cho Phi, vì nếu
các đá đó thuộc chủ quyền của TQ, các tàu bè của các nước khác, kể cả Phi,
không được đi vào trong vòng 12 hải lý tính từ các đá đó để khai thác về kinh
tế.
Điểm 8, Phi có quyền
về lãnh hải 12 hải lý, ZEE 200 hải lý và thềm lục địa, theo các phần II, V và
VI của UNCLOS, tính theo đường cơ bản quần đảo của Phi. Tòa có thể tuyên bố
chấp thuận cho Phi sau khi xem xét ít nhứt hai điều: a) đường cơ bản quần đảo
của Phi phù hợp với UNCLOS đồng thời không bị các nước khác phản đối. b) không
bị chồng lấn bởi hiệu lực của các đảo thuộc về một nước khác.
Trên thực tế, các đảo thuộc Trường Sa
của VN, là các đảo có thể có người sinh sống và có thể có nền kinh tế tự túc,
do đó có thể có một hiệu lực nhứt định về lãnh hải, vùng kinh tế độc quyền và
thềm lục địa, chiếu theo điều 121 của UNCLOS. Việc này có thể tạo vùng chồng
lấn với vùng EEZ của Phi.
Yêu cầu của Phi ở điều này có thể
nhằm mục đích “cắt cỏ dưới chân” các nước có yêu sách đòi quyền chủ quyền ở các
đảo Trường Sa, nếu yêu cầu của Phi được Tòa chấp thuận. Việc chấp thuận hàm ý
các đảo thuộc Trường Sa quá nhỏ để có thể có xếp vào khoản 3 của điều 121
UNCLOS.
Điểm 9, Phi yêu cầu Tòa phán rằng TQ
đã yêu sách một cách bất hợp pháp các quyền đối với tài nguyên sinh vật và phi
sinh vật và đã khai thác phi pháp các tài nguyên này, cũng như đã vi phạm pháp
luật khi không cho Phi khai thác các tài nguyên sinh vật và phi sinh vật trong
vùng EEZ và thềm lục địa của mình.
Điểm này có liên quan đến điểm 6 và
điểm 8.
Nếu Tòa đáp ứng yêu cầu của Phi ở
điểm 8, tức các cấu trúc địa lý thuộc Trường Sa chỉ là đá, theo khoản 3 điều
121 UNCLOS, thì đương nhiên Tòa sẽ chấp thuận yêu cầu của Phi ở điểm 9, ngoại
trừ các vùng biển bán kính không quá 12 hải lý (điểm 6), tính từ các cấu trúc
địa lý nằm trong vùng EEZ của Phi, nếu các cấu trúc này thuộc chủ quyền của
nước khác.
Điểm 10, Phi yêu cầu Tòa lên án TQ đã
can thiệp một cách bất hợp pháp quyền tự do hàng hải của Phi được xác định theo
UNCLOS. Điểm này Phi cần đưa chứng cớ là TQ đã cản trở quyền tự do hàng hải của
nước này khi nào ? ở đâu ? trường hợp nào ? Tùy thuộc địa điểm, tùy thuộc vùng
biển (lãnh hải hay vùng EEZ) mà Tòa có thể tuyên bố thuận hay không.
Điểm này Phi cũng có mục tiêu nhắm
tới các tàu hải giám của TQ, đã hoạt động một cách ngang ngược trong vùng biển
giới hạn bởi tấm bản đồ 9 đoạn.
3/ VN Có lợi ích gì từ vụ kiện này?
Vụ kiện TQ của Phi, dầu VN không can
dự, nhưng cũng là một bên liên quan, như Phi, đối với Trung Quốc. Có điều quan
hệ giữa VN và TQ phức tạp vì tròng tréo nhiều điều như văn hóa, lịch sử, chính
trị, ơn nghĩa, ý thức hệ… trong khi quan hệ Trung-Phi đơn giản hơn nhiều. Tuy
vậy, VN có thể hưởng lợi ở một số điều như sau:
Điểm 1, lợi ích là đặt tất cả các bên
Trung Quốc, Phi và VN vào trong khuôn khổ của Luật quốc tế. Vùng kinh tế độc
quyền của TQ (Phi và VN) do đó phải được xác định rõ rệt theo UNCLOS. Việc này
sẽ giúp VN tránh được các tàu vũ trang TQ, đột lốt “hải giám” (mà hành sử như
“hải tặc”), cắt cáp các tàu nghiên cứu của VN, cho đấu thầu khai thác trên thềm
lục địa của VN…. trong vùng biển EEZ của VN, vào các năm qua, ở vùng biển của
VN.
Điểm hai, Phi yêu cầu tòa tuyên bố
yêu sách của TQ qua bản đồ đường 9 đoạn là vô giá trị. Điểm này có nhiều sác
xuất Tòa sẽ tuyên bố theo yêu cầu của Phi. Và đây cũng là điều mà VN mong muốn
TQ dẹp bỏ từ bấy lâu nay mà không được.
Các điểm 3, 4, và 6 về tình trạng
pháp lý các cấu tạo lúc chìm lúc nổi, hay các cấu tạo thường xuyên bị chìm,
cũng rất có thể Tòa sẽ chấp thuận các yêu cầu của Phi, vì nó phù hợp với UNCLOS
và tập quán quốc tế. Nếu vậy, điều này sẽ giúp ích cho VN lý lẽ để đối phó với
những ngang ngược của TQ, khi họ dành quyền chủ quyền (về kinh tế) của VN tại
các bãi Tư Chính, Vũng Mây... (mà TQ gọi là Vạn An Bắc) vốn là các bãi chìm
dưới nước. Việc này cũng sẽ khiến TQ từ bỏ chủ quyền tại cái gọi là « quần đảo
» Trung Sa, vốn là một bãi ngầm dưới 50m mặt nước.
Điểm 7, Phi yêu cầu Tòa phán rằng TQ
đã vi phạm luật pháp khi ngăn cấm các tàu của Phi khai thác các vùng biển cận
Hoàng Nham và đá Gạc Ma. Điều này cũng có lợi cho VN, vì yêu sách của TQ đối
với Phi không khác đối với VN ở một số bãi cạn.
Điểm 8, VN nên cân nhắc, có nên lên
tiếng hay không về việc hồng lấn vùng biển thuộc các đảo TS của VN với vùng EEZ
của Phi ? Cũng như ở điểm 4, có nên bảo lưu chủ quyền của VN ở các đá Châu
Viên, Gạc Ma, Chữ Thập…?
Điểm 9, yêu cầu của Phi có mục tiêu
nhắm đến các “luật cấm biển” của TQ và các tàu hải giám của TQ. Các tàu này đã
lộng hành trong vùng biển TS, bất chấp luật lệ quốc tế đồng thời trắng trợn xâm
phạm chủ quyền và quyền chủ quyền của Phi (cũng như VN) tại vùng biển này. Yêu
cầu này của Phi rất có thể sẽ được Tòa chấp thuận. Việc này cũng đem lại lợi
ích cho VN.
4/ Thái độ của Trung Quốc:
Phản ứng việc này, phát ngôn nhân
Hồng Lỗi thuộc bộ Ngoại giao Trung Quốc đáp rằng : “Phi hiện đang chiếm giữ một
số đảo của Trung quốc” và “Trung quốc kiên quyết phản đối việc chiếm giữ trái
phép của Phi”. Trung Quốc cũng cảnh cáo rằng Phi “chớ làm phức tạp” thêm vấn
đề.
Thái độ của Trung Quốc, xét qua tuyên
bố trên, có thể nước này sẽ không màng đến việc kiện cáo này. Theo ý kiến của
các chuyên gia quốc tế, vụ kiện dầu vậy cũng có thể tiếp diễn, cho dầu TQ không
có mặt. Quyết định của Phi đưa TQ ra Tòa quốc tế, theo nội dung các điểm khiếu
kiện, cũng được các chuyên gia này đánh giá là đúng đắn.
Thái độ của Trung Quốc đối với vụ
kiện sẽ là thuốc thử để thế giới đánh giá về tư cách cường quốc của Trung Quốc
: một nước lớn có trách nhiệm với cộng đồng thế giới hay là một nước hành sử ỷ
mạnh hiếp yếu, tự cho phép đứng trên mọi luật lệ, mọi giá trị cơ bản của cộng
đồng các nước văn minh trên thế giới.
Việc TQ tuyên bố “Phi hiện đang chiếm
giữ một số đảo của Trung quốc” và “Trung quốc kiên quyết phản đối việc chiếm
giữ trái phép của Phi”, có thể hiểu rằng có thể TQ sẽ sử dụng các phương pháp
khác (không hòa bình) để lấy lại các đảo này.
Publié par Nhan Tuan Truong
à 13:41
No comments:
Post a Comment