NGÔN NGỮ HỒ CHÍ MINH :
SỰ VẬN DỤNG CÁC
PHƯƠNG TIỆN CHÂM BIẾM TRONG NGÔN NGỮ HỒ CHÍ MINH
1. Chủ tịch Hồ Chí Minh
không phải chỉ là một vị lãnh tụ, một người thầy kiệt xuất của phong trào cách
mạng Việt mà còn là một nhà thơ, nhà văn xuất sắc trong nền văn học Việt hiện
đại. Bác Hồ chưa bao giờ có ý định trở thành nhà thơ, nhà văn, song các tác
phẩm thơ văn ngôn ngữ của Người đã trở thành một mẫu mực, một phong cách đặc
biệt cho các thế hệ người Việt tiếp tục nghiên cứu và học tập.
Sở dĩ như vậy là vì, trong suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng, lãnh đạo nhân dân ta chống giặc ngoại xâm, giành độc lập dân tộc và xây
dựng đất nước, Bác Hồ luôn luôn ý thức rằng ngôn ngữ chính là một thứ công cụ,
một loại vũ khí đấu tranh cách mạng, vận động quần chúng sắc bén và hiệu quả
nhất. Chính vì thế mà sinh thời, Bác luôn luôn quan tâm đến vấn đề cách viết
(tức là nói hay và viết hay, nói đúng và viết đúng). Người đã nhắc nhở các cán
bộ tuyên truyền, các nhà văn, nhà báo rằng trước khi viết phải đặt câu hỏi và
trả lời: viết cho ai? viết cái gì? viết để làm gì?, sau đó mới xem xét việc
viết như thế nào.
Một trong những nét đặc sắc trong phong cách ngôn ngữ Chủ
tịch Hồ Chí Minh là nghệ thuật châm biếm. Châm biếm là một nét độc đáo và là
bút pháp sở trường của Người. Ngọn bút ấy đã tung hoành khắp nhiều thể loại
thơ, văn trong ngót nửa thế kỷ. Từ những ngày đầu còn ở Paris, Bác đã viết hàng
loạt bài tiểu phẩm đăng trên các báo Nhân đạo, Người cùng khổ… cuốn Bản án chế
độ thực dân Pháp… đến khi làm Chủ tịch nước, bận trăm công nghìn việc, Bác cũng
vẫn tiếp tục sử dụng vũ khí đó.
2. Lâu nay, việc nghiên
cứu phong cách ngôn ngữ Hồ Chí Minh nói chung, nghiên cứu nghệ thuật châm biếm
trong ngôn ngữ của Người nói riêng đã được quan tâm. Và đến nay, vấn đề ấy vẫn
chưa phải đã khép kín. Có thể nói đến một số bài viết như Tiếng cười trong
phong cách ngôn ngữ của Chủ tịch Hồ Chí Minh của Bùi Khắc Việt, Ngôn ngữ trào
lộng của Chủ tịch Hồ Chí Minh của Nguyễn Thị Hai, Hồ Chủ tịch đã sử dụng tài
tình từ vựng để đả kích địch của Nguyễn Văn Tu, Văn châm biếm đả kích địch qua
một số bài viết của Hồ Chủ tịch của Xích Điểu… Tuy nhiên, mỗi tác giả đều khai
thác đối tượng – ngôn ngữ châm biếm của Hồ Chủ tịch – theo những khía cạnh và
quan điểm khác nhau. Vấn đề các phương tiện và biện pháp châm biếm trong ngôn
ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh chưa được các tác giả quan tâm.
Châm biếm trong ngôn ngữ văn thơ của Hồ Chủ tịch khác với
châm biếm trong ngôn ngữ văn thơ của nhà văn, nhà thơ lớn Việt Nam như Hồ Xuân
Hương, Tú Xương, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao…Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã có nhận
xét sâu sắc rằng “lối châm biếm của Người rất kín đáo và thú vị”. Ngôn ngữ châm
biếm của Người rất hàm súc, mộc mạc, ngắn gọn, dễ hiểu và dễ nhớ; rất ít khi
dùng từ trừu tượng, không dùng điển tích xa lạ, khó hiểu, phô trương. Ngôn ngữ
châm biếm của Người thiên về cách nói, cách nghĩ của người dân lao động Việt .
Nói đến nghệ thuật châm biếm là trước hết nói đến việc sử
dụng các phương tiện ngôn ngữ và những cách thức để châm biếm, tạo nên tiếng
cười trào lộng, đầy ý nghĩa. Bài viết này chỉ tập trung phân tích các phương
tiện châm biếm trong ngôn ngữ Hồ Chủ tịch.
3. Các phương tiện châm
biếm trong ngôn ngữ Hồ Chủ tịch rất đa dạng, nhưng nổi bật nhất là việc sử dụng
các đại từ, các từ đồng âm, từ trái nghĩa, từ nước ngoài xen với từ Việt, thành
ngữ và tục ngữ.
Trong Tiếng Việt, hệ thống từ xưng hô rất phong phú, đa dạng và mang những đặc trưng riêng, nhưng Bác Hồ chi tinh chọn những đại từ ngôi thứ ba: chúng, y, hắn, lão, chàng… để tỏ thái độ vừa chế riễu, vừa khinh bỉ, tăng chất biểu cảm và sức thuyết phục cho lời nói.
Trong Tiếng Việt, hệ thống từ xưng hô rất phong phú, đa dạng và mang những đặc trưng riêng, nhưng Bác Hồ chi tinh chọn những đại từ ngôi thứ ba: chúng, y, hắn, lão, chàng… để tỏ thái độ vừa chế riễu, vừa khinh bỉ, tăng chất biểu cảm và sức thuyết phục cho lời nói.
-“Trong cuộc bầu cử này, tổng Giôn là người đảng dân
chủ, Gônoatơ là người thuộc đảng cộng hoà. Những ngày vận động tranh cử, chúng
hết lời bêu xấu nhau… Mặt khác, cả hai chàng đều ra vẻ dân chủ bắt tay với
người này cụng chén với người kia. Cả hai chàng đều ra sức lừa bịp nhân dân…”
(Báo Nhân dân ngày 3.1.1964)
Thật đáng mỉa mai, chỉ cần hai từ “chúng, chàng” thì các vị nguyên thủ đáng kính bỗng chốc trở thành những kẻ “giàu năng khiếu” lừa lọc, tranh giành quyền lực và mị dân…
Khi nhắc đến hai vị nguyên thủ đứng đầu hai chính phủ bù
nhìn Nam Việt Nam và Nam Triều Tiên, Bác Hồ không ngần ngại “tặng” cho chúng
đại từ “gã” để bộc lộ bản chất phản động bán nước hại dân của chúng.
-“Nam Triều Tiên và Nam Việt cách xa nhau hàng nghìn cây số, thế mà Lý Thừa Vãn và Ngô Đình Diệm giống nhau dữ: hai gã đều do đế quốc Mỹ nuôi dưỡng. Hai gã đều do đế quốc Mỹ nặn thành bù nhìn đẫm máu. Hai gã đều gầm gừ chống cộng và hò hét Bắc tiến (Nhân dân 3.5.1960).
-“Nam Triều Tiên và Nam Việt cách xa nhau hàng nghìn cây số, thế mà Lý Thừa Vãn và Ngô Đình Diệm giống nhau dữ: hai gã đều do đế quốc Mỹ nuôi dưỡng. Hai gã đều do đế quốc Mỹ nặn thành bù nhìn đẫm máu. Hai gã đều gầm gừ chống cộng và hò hét Bắc tiến (Nhân dân 3.5.1960).
Trong nhiều trường hợp, Bác Hồ sử dụng kết hợp giữa các phương tiện ngôn ngữ khác nhau, như kết hợp giữa đại từ với hình thức đồng âm, tạo nên sắc thái châm biếm.
-“Nhưng có những việc bất ngờ làm cho y mất hồn mất
vía. Việc số một là: khi Vét mỡ lợn, và Cá bột lót mời Zoom đến thăm Nam Việt ,
y hoa tay lia lịa vì y sợ quân du kích hoan nghênh…” (Nhân dân 4.11.1968).
Ở đây, Bác đã phiên âm tên gọi của hai viên tướng Mỹ Wesmoreland và Cabot
Lodge, và cả tên gọi của tổng thống Joson, làm cho người đọc cảm giác khinh bỉ
đến không nhịn cười được.
Trong Tiếng Việt, từ “bợm” dùng để chỉ kẻ ăn cắp, lừa
gạt, đểu cáng. Hồ Chủ tịch đã dùng từ này gọi kẻ đứng đầu Nhà Trắng – tổng
thống Giônxơn, để châm biếm, vạch trần bộ mặt lừa gạt giả dối của chúng.
-“Bợm Giôn dám ba hoa rằng y là kẻ bảo vệ hiệp định
Giơnevơ và tán thành Việt có tổng tuyển cử?” (Nói chuyện Mỹ)
Có trường hợp Bác Hồ sử dụng tổng hợp nhiều phương tiện trong một đoạn văn như: từ khẩu ngữ, từ xưng hô, từ nước ngoài, thành ngữ, tục ngữ làm cho đoạn văn vừa giàu chất biểu cảm, đậm chất chính luận, vừa hài hước, sâu cay.
-“Nói dối, nói khoác, nói phét trở thành “cuốn sách” của bọn trùm nhà trắng và lầu năm góc. Bị nhân dân ta nện cho một trận sứt đầu mẻ trán, không ba chân bốn cẳng mà “go home” cho nhanh để kịp thời bảo vệ cái “thể diện” địa ngục của “nước mẹ Hoa Kỳ” lại còn leo lẻo múa mồm rằng: chắc là Mỹ sẽ ở lại Việt Nam và làm tất cả mọi điều để thắng lợi” (Nói chuyện Mỹ).
Trong đoạn văn trên, Bác Hồ đã sử dụng một loạt phương
tiện từ ngữ: nói láo, nói phét, nói khoác, bọn, sứt đầu mẻ trán, ba chân bốn
cẳng, go home, leo lẻo, múa mồm, nện, láo toét… có tính chất biểu cảm cao, tạo
hình đậm nét, gây ấn tượng mạnh, qua đó bộc lộ được đầy đủ các phương diện khác
nhau của bản chất bọn trùm nhà trắng và lầu năm góc, đồng thời đả kích cái công
lý ngược đời của bọn đế quốc.
Có thể nói, Bác Hồ đã sử dụng rất thành công các phương
tiện từ ngữ để đạt mục đích châm biếm. Đối tượng để châm biếm, đả kích, đối với
Bác, trước hết là những kẻ cầm đầu thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và bọn bán nước
hại dân.
Đối với bọn quan lại phong kiến, địa chủ, cường hào…, Bác đã dùng những từ để chỉ các loài động vật như: đực, cái, đàn, bầy… để đả kích châm biếm: “trong các cuộc phát động quần chúng, người ta thấy địa chủ cái cũng hung ác, gian xảo, ngoan cố không kém địa chủ đực…” (Báo Nhân dân 25.2.1954).
Khi đã dùng những từ đực, cái để nói về bọn địa chủ, thì trước mắt ta chúng chẳng khác gì những con vật chuyên lo bóc lột, đục khoét, hại dân.
Đối với một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân
dân mắc phải sai lầm, khuyết điểm, Bác Hồ cũng sử dụng các thành ngữ, tục ngữ
để châm biếm nhưng nhằm để giáo dục, phê phán và kêu gọi khắc phục, sửa chữa.
Trong bài nói chuyện tại Hội nghị bàn về vận động chỉnh huấn xuân 1961, Bác
nói: “Trong xã hội ta không có nghề nào là thấp kém, chỉ những kẻ lười biếng, ỷ
lại mới đáng xấu hổ! Người đầu bếp, người quét rác cũng như người thầy giáo, kỹ
sư, nếu làm tròn trách nhiệm thì đểu vẻ vang như nhau. Ai sợ khó, sợ khổ, muốn
ngồi mát ăn bát vàng, người đó mới là kém vì không phải con người xã hội chủ
nghĩa.”
Ở đoạn văn này, sự xuất hiện những từ kẻ, ngồi mát ăn bát vàng, cho thấy trong xã hội ta còn tồn tại một nhóm người mang tư tưởng lười lao động, thích hưởng thụ. Lời nói mang sắc thái dí dỏm nhưng tác dụng giáo dục rất cao.
Hoặc để phê phán những tư tưởng sợ phê bình, che giấu
khuyết điểm, chủ nghĩa thành tích..trong hàng ngũ đảng viên, Bác sử dụng từ ngữ
“mèo khen mèo dài đuôi”. “Đảng cần phải biết những ưu điểm và khuyết điểm của
mình để dạy dỗ đảng viên, dạy dỗ quần chúng”. Sợ phê bình tức là “quan liêu
hoá”, tức là tự mãn tự túc, tức là mèo khen mèo dài đuôi.
Để phê phán những cán bộ, đảng viên mắc bệnh kiêu căng,
tự mãn, quan liêu, đòi hưởng thụ, Bác đã sử dụng các từ ngữ khoe khoang, vênh
váo, miệng nói tay làm, chỉ tay năm ngón. Hễ làm được việc gì hơi thành công
thì khoe khoang, vênh váo, cho ai cũng không bằng mình, không thèm học hỏi quần
chúng, việc gì cũng làm thầy người ta… Trong cán bộ có những đồng chí tốt,
miệng nói tay làm nhưng có một số đồng chí chỉ quen chỉ tay năm ngón” (Tuyển
tập II, tr.371, 452).
Có thể nhận thấy, đối với Bác Hồ, việc sử dụng các phương
tiện châm biếm luôn luôn tuỳ thuộc vào tính chất của đối tượng. Đối tượng châm
biếm khác nhau thì việc lựa chọn các phương tiện châm biếm cũng khác nhau, do
đó dẫn đến mục đích châm biếm cũng khác nhau.
Đối tượng châm biếm là những kẻ đứng đầu các chính phủ
thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, là chính quyền bù nhìn, là những kẻ tay sai phản dân
hại nước, thì phương tiện châm biếm là những từ ngữ như: hắn, y, gã, bợm, đực,
cái, láo toét, leo lẻo múa mồm, khẩu phật tâm xà, các thành ngữ, tục ngữ, các
từ đồng âm… Do đó, mục đích châm biếm là để vạch trần tội ác, phơi bày bộ mặt
giả đối, bất nhân và mị dân của chúng. Tiếng cười ở đây trở thành một thứ “vũ
khí đánh trúng, đánh thẳng”, một “ngọn roi” quất thẳng vào mặt kẻ thù.
Đối tượng châm biếm là một bộ phận cán bộ đảng viên, quần
chúng thì phương tiện châm biếm chủ yếu là những thành ngữ, tục ngữ có nội dung
hài hước, trào lộng như: chỉ tay năm ngón, kéo bè kéo cánh, thói ba hoa, ngồi
mát ăn bát vàng, công văn túi áo, thông báo túi quần… Do đó, mục đích châm biếm
là để phê bình, giáo dục, nâng cao đạo đức cách mạng, rèn luyệ tư tưởng, tác
phong của cán bộ đảng viên, từ đó để cổ vũ động viên, cán bộ và quần chúng sửa
chữa, khắc phục những khuyết điểm, phát huy những ưu điểm trong công tác cách
mạng.
4. Tóm lại, trong suốt
cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng tiếng
cười như một vũ khí văn nghệ vô cùng sắc bén phục vụ cho sự nghiệp lãnh đạo của
mình. Ngòi bút đả kích, châm biếm của Hồ Chủ tịch đã tấn công mạnh mẽ vào chủ
nghĩa đến quốc, chủ nghĩa thực dân khơi dậy trong nhân dân lòng căm thù, nhất
tề đứng lên đấu tranh giành độc lập dân tộc. Tiếng cười hóm hỉnh của Bác đã phê
bình những cán bộ nhân dân có nhiều thiếu sót, nhưng với thái độ thân mật gần
gũi, nhằm giúp họ khắc phục và tiến bộ. Tiếng cười còn là biểu hiện tinh thần
lạc quan cách mạng của Bác Hồ, đồng thời đã giúp Bác vượt qua mọi khó khăn gian
khổ của cuộc trường kỳ kháng chiến và vững tin vào sự thắng lợi của cách mạng
Việt Nam. Chúng ta cần học tập cách viết sắc bén, sâu cay nhưng rất dí dỏm, dể
hiểu, đậm đà bản sắc dân tộc của Người và từ đó rút ra những bài học quý giá
trong việc trau dồi cách nói, cách viết, trong việc kế thừa và phát huy tinh
hoa của ngôn ngữ dân tộc.
H.T.T
H.T.T
(nguồn: TCSH số 195 – 05 – 2005)
——————–
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Học tập phong cách ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh. NXB KHXH, Hà Nội, 1983.
2. Hồ Chí Minh – Tác giả, tác phẩm, nghệ thuật ngôn từ. NXB Giáp dục, Hà Nội, 1997.
3. Báo Nhân dân các năm 1960, 1963, 1964, 1966.
1. Học tập phong cách ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh. NXB KHXH, Hà Nội, 1983.
2. Hồ Chí Minh – Tác giả, tác phẩm, nghệ thuật ngôn từ. NXB Giáp dục, Hà Nội, 1997.
3. Báo Nhân dân các năm 1960, 1963, 1964, 1966.
HOÀNG TẤT THẮNG
No comments:
Post a Comment