Mậu Thân 1968: Đồ tể & Nhân chứng sống
Được đăng ngày Chủ nhật, 13 Tháng 1 2013 15:46
Hoàng Phủ Ngọc Phan: Tôi không hề giết ai
[“Sau chiến dịch Mậu Thân báo chí ở Sài gòn
thường nhắc đến anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường và Hoàng Phủ Ngọc Phan như là hai
tên đồ tể khát máu, giết người không gớm tay ở Huế. Sự thực anh Tường không hề
về Huế mà ở lại trên căn cứ để làm nhiệm vụ tiếp đón các vị khách từ nội thành
ra. Tánh anh Tường rất hiền, không ưa đụng đến vũ khí, dầu chỉ để lau chùi. Cơ
quan cấp cho anh một khẩu súng ngắn K.59, anh không ngó ngàng gì tới đến nỗi
súng han rỉ, rồi đem cho một người bạn nào đó mượn đi công tác. Người này làm
mất súng khiến anh Tường bị phê bình – đúng ra đây là một khuyết điểm đáng phải
bị xử kỷ luật nặng. Nhưng anh Tường không ý thức được điều đó. Anh cứ cãi khơi
khơi là tại cơ quan giao súng cho anh chứ anh đâu có yêu cầu. Công tác của anh
chỉ cần ngòi bút. Người như thế mà có thể giết ai được?
Còn tôi thì có theo chiến dịch về hoạt động
ở Thành nội Huế nhưng tôi không hề giết ai cả, suốt gần 10 năm đi kháng chiến
cũng không hề làm thiệt mạng một con thú trên rừng chứ đừng nói là con người.
Vì lẽ:
- Giết người không phải là chuyện nhỏ,
không phải hễ có súng trong tay là có quyền giết người. Tôi không hề có quyền
đó.
- Giết người không phải là chuyện dễ, không
phải ai cũng có bản lĩnh đó. Mặc dầu trong chiến tranh, trên chiến trường và
ngay bây giờ vẫn không thiếu gì những kẻ đáng tội chết nhưng nếu đưa cho tôi
một kẻ đáng tội nào đó bảo tôi giết thì nói thật… không dám đâu.
Chúng tôi theo cách mạng trước tiên là vì
không thể sống chung với cái ác. Nếu chịu làm ác thì cứ nhảy vào các binh chủng
rằn ri của Thiệu – Kỳ hay đầu quân dưới trướng của Liên Thành thì thiếu gì cơ
hội?
Từ sau Tết Mậu Thân đến nay, đối phương
không ngừng vu khống cho anh em tôi đã tàn sát đồng bào vô tội ở Huế. Tôi
nguyên là sinh viên Y khoa nên họ còn trút luôn lên đầu tôi cái tội khi sư diệt
tổ là giết các giáo sư người Đức ở Đại học Y khoa Huế. Lúc đầu thì có nhiều
người tin nhưng hơn ba mươi năm nay, bà con bạn bè trong nước và cả những người
ở nước ngoài có dịp đi về đều đã hiểu được sự thật. Tất cả chỉ là tin đồn do
những người có ác ý gieo rắc, không cần chính xác và không ai phải chịu trách
nhiệm. Nhưng Liên Thành, là người cầm đầu nhiều cơ quan công lực, rất có điều
kiện để kiểm chứng các tin đồn. Vậy xin hỏi Liên Thành: ông nói tôi say sưa lấy
máu tươi, giết đồng bào vô tội nhưng chính xác tôi đã giết những người nào? Lúc
nào? Ở đâu?
Nếu ai đó nói chính mắt họ thấy tôi giết
người thì chắc chắn đó là kẻ ăn gian nói dối.
Còn nếu Liên Thành hay bất kỳ ai đưa ra
được bằng chứng không thể chối cãi rằng tôi đã giết người – như kiểu tên ác ôn
Nguyễn Ngọc Loan giết anh Bảy Lốp – thì tôi xin tự vẫn ngay trước mặt họ để tạ
tội với đồng bào và khỏi làm nhục lây đến bà con dòng họ.”]
(Trích nguyên văn Hoàng Phủ Ngọc Phan: Nhân
đọc bài “Trịnh Công Sơn và những hoạt động nằm vùng”), daohieu.com hoặc daohieu.wordpress.com.
-------------------------------------
Nguyễn Thị Thái Hoà: Hoàng Phủ Ngọc Phan là
kẻ giết người
[“Tôi xin tường thuật lại chi tiết những
cái chết đau thương của ông nội tôi, ba người anh, cùng một người bạn của họ,
như là một nhân chứng còn sống sót sau Tết Mậu Thân như là tiếng kêu oan cho
gia đình tôi, cho linh hồn của những người thân trong gia đình, gia tộc tôi
cách riêng, và cho những người dân Huế nói chung, thay cho tất cả những ai bị
sát hại trong Tết Mậu Thân 1968 bây giờ còn kẹt lại VN không có cơ hội để nói
lên những oan khiên mà họ đã gánh chịu bởi đảng Việt Gian Cộng Sản, và bè lũ
tay sai khát máu giết hại dân lành vô tội như anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường,
Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Thị Đoan Trinh v.v…
Năm 1968, tôi đang là sinh viên năm thứ
nhất trường Cán Sự Điều Dưỡng Huế. Ngoài những giờ học lý thuyết chung tại
trường, bọn sinh viên chúng tôi được chia thành nhiều toán. Mỗi toán từ 8 đến
10 người, luân phiên thực tập ở các trại bệnh trong BV Trung Ương Huế.
Có những trại bệnh sinh viên thực tập theo
giờ hành chánh. Có một vài nơi, như phòng cấp cứu, phòng bệnh nội thương… thì
giờ thực tập được chia làm ba ca: sáng, chiều và đêm …
Ca sáng từ 7giờ đến 2 giờ chiều, ca chiều
từ 2 giờ đến 9 giờ tối, và ca đêm từ 9 giờ tối cho đến 7giờ sáng hôm sau.
Mỗi một nơi chúng tôi được thực tập từ 2
đến 3 tuần lễ.
Hai tuần trước Tết, toán của tôi được chia
phiên thực tập ở phòng cấp cứu. Ngày mồng hai, tôi và hai anh bạn vào ca đêm.
Tết năm nay ba tôi bận đi hành quân xa
không về kịp ăn Tết.
Thường thì mấy anh em tôi năm nào cũng vậy,
đều phải về nhà ông bà nội từ trước ngày 30 Tết, ở luôn cho hết ngày mồng một,
rồi sau đó mới được tự do đi chơi, thăm viếng bạn bè…
Sau bữa cơm tối mồng một Tết, khoảng 8 giờ
30 anh Hải lấy xe Honda của anh đưa tôi tới BV, và nói sáng mai anh sẽ đến đón.
Tối mồng một Tết phòng cấp cứu hơi vắng,
chúng tôi, mấy anh sinh viên y khoa và hai người nhân viên phòng cấp cứu nói
đùa với nhau rằng hôm nay tụi mình… hên! Chúng tôi mang một ít mứt bánh ra vừa
ăn vừa nói chuyện, vừa thay nhau thăm chừng những bệnh nhân mới nhập viện từ
đêm qua chưa được chuyển trại.
Nhưng qua nửa đêm thì bắt đầu nghe có tiếng
súng. Tiếng súng lớn, nhỏ, từ xa rồi mỗi lúc một gần. Chúng tôi thốt giựt mình,
băn khoăn nhìn nhau, hoang mang lo sợ. Bầu không khí bắt đầu căng thẳng, mấy
anh sinh viên y khoa thì nghe ngóng bàn tán, thắc mắc không biết tiếng súng từ
đâu vọng lại…
Lúc đầu chúng tôi tưởng là thành phố Huế và
BV bị pháo kích, nhưng không ngờ, chừng 3, 4 giờ sáng, bất thần không biết tứ
ngõ ngách nào có chừng mười mấy người tràn vào phòng cấp cứu, họ xưng chúng tôi
là quân giải phóng. Đa số mặc áo quần đen, súng mang vai, bị rết ngang hông. Họ
bắt tất cả chúng tôi băng bó cho một số người bị thương, đồng thời hò hét chia
nhau lục soát, vơ vét, và lấy đi một số thuốc men, bông băng, dụng cụ y khoa
v.v… Họ lấy sạch không chừa lại một món nào, kể cả những bánh mứt chúng tôi để
trong phòng trực.
Trong lúc bọn họ đang tranh nhau lục lọi,
thì ầm một cái, một tiếng nổ rớt rất gần, đâu đó trong BV, rồi tiếng thứ hai,
thứ ba…rớt ngay con đường phía trước cổng chính BV, kề phòng cấp cứu… Điện
trong phòng cấp cứu vụt tắt. Thừa lúc bọn chúng nhốn nháo kéo nhau đi, chúng
tôi mạnh ai nấy tìm đường chạy thoát thân.
Ra khỏi phòng cấp cứu tôi cắm đầu chạy, tôi
không định hướng được là mình đang chạy đi đâu. Súng nổ tư bề, cứ nằm xuống
trốn đạn, rồi đứng lên chạy, cứ thế mà chạy. Chạy bất kể tả hữu. Cho tới khi
tôi đâm sầm vào một người, định thần ngó lại mới biết đó là cha Trung, tuyên úy
của BV. Cha từ phía một trại bệnh nào đó tình cờ chạy về phía tôi. Nét mặt cha
cũng thất thần, đầy vẻ lo âu, nhận ra tôi, cha hỏi “con ở mô chạy lại đây?”
Tôi nói “từ phòng cấp cứu”.
Vừa nói vừa theo cha, chạy về phía nhà
nguyện của BV và cũng là chỗ ở thường ngày của cha. Đến đó thì đã có hai bà sơ
dòng Áo Trắng và vài người nữa không biết từ trại bệnh nào cũng chạy lại đây.
Tôi nhận ra trong số đó có sơ giám thị suốt trong sáu năm tôi nội trú tại
trường trung học Jeanne d’Arc.
Cha Trung quen biết ông nội và ba mạ tôi,
thỉnh thoảng ngài có ghé đến thăm ông nội nhà ở đường Hàm Nghi, nên ngài biết tôi.
Không biết chạy đi đâu nữa tôi ở lại đó với cha hai bà sơ, và mấy người nữa.
Bốn năm ngày liền chúng tôi chui rúc trong
nhà nguyện, không dám chạy ra ngoài và cũng không liên lạc được với một ai từ
những trại bệnh khác. Súng nổ tư bề nên ai ở thì cứ đâu ở đó.
Sau khi đám người xưng là “quân giải phóng”
ở Cấp Cứu kéo nhau đi chúng tôi không gặp, không thấy bọn VC nào nữa, hay chúng
đang lẫn trốn trong những trại bệnh khác thì tôi không biết.
Tới ngày thứ năm, ruột gan như lửa đốt,
không biết ông bà nội, mạ và mấy anh em tôi trên đường Hàm Nghi ra sao. Tôi nói
với cha Trung, cha ơi con muốn muốn về nhà. Cha bảo, không được, súng đạn tư
bề, nguy hiểm lắm, cứ ở đây với cha và mấy sơ đi đã, khi mô có lính mình xuất
hiện thì mới đi được. Tôi hỏi, khi mô thì lính mình mới tới, cha nói không sớm
thì muộn họ cũng sẽ phản công thôi, cha nói như để trấn an tôi và mọi người
thôi chứ trên mặt cha thì vẫn đầy vẻ lo âu…
Không biết nghe tin từ đâu mà một người
trong nhóm nói người ta chạy vô ở trong nhà thờ Phủ Cam đông lắm. Tôi nghe càng
nóng lòng muốn chạy về nhà. Muốn đi phần vì sốt ruột muốn gặp mạ với mấy anh em
tôi, phần vì đói. Đã mấy ngày không có gì ăn ngoài mấy ổ bánh mì cứng còng của
Caritas còn sót lại ở nhà nguyện chúng tôi chia nhau gặm…cầm hơi!
Tôi quyết định chạy về tìm gia đình. Tôi
liều. Trên người tôi chỉ có bộ đồ đồng phục dính đầy máu, tôi chạy ra phía sau
cổng BV, tìm đường về nhà. Vừa chạy vừa lo, ngó tới, ngó lui không một bóng
người, nhưng tiếng súng thì nghe rất gần. Không biết mấy lần vấp, tôi té xuống.
Té rồi lồm cồm bò dậy, vài bước lại vấp té. Tôi lạnh run , hai hàm răng đánh bò
cạp, nhìn cảnh tượng xác người nằm đây đó, máu me đóng vũng. Không biết họ bị
thương đâu đó ở bên ngoài chạy vào gục chết ở đây. Quá sợ hải, tôi định chạy
trở lại nhà nguyện thì bất thần thấy anh Văn hớt ha hớt hãi từ cổng sau BV chạy
vô.
Văn là bạn của anh Hải, anh kế tôi, hai
người cùng học ở Văn Khoa. Nhà Văn ở miệt trên, gần dòng Thiên An. Mặt mày Văn
xanh xao, hai mắt thất thần, trủm lơ, gặp tôi Văn lắp bắp, nói không ra hơi. Ti
ơi, thằng Hải bị bắn chết rồi. Hắn bị bắn ở bên Văn Khoa. Toàn thân run rẫy,
tôi khuỵu xuống. Văn đỡ tôi đứng lên. Lại có tiếng nổ rất gần. Văn hoảng hốt
kéo tôi chạy lại ngồi xuống bên trong bức tường sát cánh cổng sau BV. Hai đứa
tôi run rẫy ngồi sát vào nhau. Lát sau, tiếng được tiếng mất, anh lắp bắp kể.
Văn nói mấy đêm rồi Văn với mấy người anh của tôi trốn đạn trong nhà thờ Chánh
Tòa (nhà thờ Phủ Cam), nhưng rồi đêm qua có mấy sinh viên của mình dắt một toán
VC vô nhà thờ đọc một lô danh sách, họ lùa người đi đông lắm, không biết họ đưa
đi đâu. Văn kể một hơi mấy tên “sinh viên của mình” nhưng bây giờ tôi không còn
nhớ nổi.
Khi đám người bị lùa đi, thân nhân của họ
khóc la thảm thiết.
Sau đó Văn, anh Hải cùng mấy người bạn rủ
nhau trốn ra khỏi nhà thờ và mạnh ai nấy tìm đường trốn.
Ra khỏi nhà thờ, không biết trốn chui, trốn
nhủi, chạy quanh, chạy co, làm sao mà Văn với anh Hải lại tới được trường y
khoa. Anh Lộc, anh Kính đi lạc hướng nào không biết. Hai anh hè nhau chui vô
phòng thí nghiêm trốn thì thấy có vài người đã bị bắn chết từ bao giờ mà những
vũng máu đọng dưới họ còn tươi lắm. Văn, anh Hải hoảng hồn chạy trở ra.
Chưa ra khỏi cửa thì gặp Hoàng Phủ Ngọc
Phan và Nguyễn thị Đoan Trinh cùng mấy sinh viên khác nữa Văn không biết tên, chỉ
biết họ đồng bọn với Hoàng Phủ Ngọc Phan. Văn biết mặt Phan là vì Văn có người
anh học y khoa cùng lớp với Phan.
Gặp Văn, Phan nạt nộ: tụi mi chạy trốn đi
mô? Khôn hồn thì chạy qua bên Văn Khoa tập trung ở đó để đi tải thương!
Hải và Văn biết không thể nào thoát khỏi sự
kiểm soát của bọn Hoàng Phủ Ngọc Phan nên vội vàng chạy bộ xuống Văn Khoa, hy
vọng bị bắt đi tải thương chứ không bị giết.
Bọn Trinh, Phan chạy xe Honda nên họ tới
trước, và cũng đã bắn trước một số người khác rồi. Hải, Văn không biết nên lúc
thúc chạy đến. Anh Hải chạy vô trước, nghĩ là sẽ gặp được một số bạn bè khác,
cùng đi tải thương với nhau như lời Hoàng Phủ Ngọc Phan nói.
Vừa vô tới giảng đường thì anh Hải bị Hoàng
Phủ Ngọc Phan bắn gục ngay. Văn mắc đi cầu, tìm chổ phóng uế nên chạy vô sau
anh Hải. Mới tới cửa thì nghe tiến súng, tiếng hét của anh Hải, Văn quay đầu bỏ
chạy. Chưa kịp rượt theo Văn thì bỗng ầm, một tiếng nổ đâu đó, trong sân trường
đại học, khiến Hoàng Phủ Ngọc Phan và đồng bọn hoảng hốt leo lên xe Honda tháo
chạy.
Văn thoát chết, chạy như điên, như khùng,
chạy vô BV, và tình cờ gặp tôi trong đó.
Nghe anh Hải bị bắn trong sân đại học Văn
khoa, tôi bỏ ý định về nhà, tôi muốn chạy qua Văn khoa tìm anh tôi, hy vọng anh
chưa chết, tôi nghĩ sẽ tìm cách đưa anh vô BV cấp cứu. Tôi khóc nói với Văn, em
tới chổ anh Hải. Văn can, Ti đừng đi, tụi nó có thể trở lại. Tôi mặc kệ Văn
ngồi đó, vùa khóc vừa chạy. Một lát nghe tiếng chân Văn sau lưng, miệng thì
nói, Ti ơi, vô BV trốn đi, Hải nó chết thiệt rồi, mà chân vẫn bước theo tôi. Tôi
như người mất hồn, vừa đi, vừa chạy, vừa khóc. Trời ơi, thật là khủng khiếp,
chỉ một đoạn đường từ cổng sau BV tới sân trường VK mà không biết bao nhiêu là
xác người, áo quần vung vãi khắp nơi.
Chúng tôi chạy mới tới trường trung học
Jeane d’Arc, thì gặp bọn Hoàng Phủ Ngọc Phan lấp ló trước cổng trường với một
nhóm bộ đội Bắc Việt. Người nào mặt mày đằng đằng sát khí. Gặp lại Phan, Văn
run rẩy, Phan chưa kịp nói thì Văn đã lắp bắp phân trần, em qua BV kiếm con Ti
chớ em không có trốn mô, và xin xỏ, anh cho em với con Ti đem xác thằng Hải về
nhà rồi em trở lại đi… tải thương!
Phan không trả lời Văn, hắn nhìn tôi ác
độc: mi về nhà kêu thằng Lộc, thằng Kính xuống đây mà đem thằng Hải về.
Tôi líu lưỡi, em không biết hai anh em ở mô
mà kêu. Trước đây tôi không hề biết mặt Hoàng Phủ Ngọc Phan, mà cũng chưa hề
nghe nói tới tên người này vì trước năm 68 tôi còn là học sinh trung học. Có
thể các người anh của tôi thì biết, vì họ là những lớp sinh viên đàn anh, đã
từng qua những khó khăn đối đầu với đám sinh viên theo phe “tranh đấu, lên
đường xuống đường” của những năm trước.
Hoàng Phủ Ngọc Phan to nhỏ gì với những
người đồng bọn rồi quay lại ra lệnh cho tôi với anh Văn đem xác anh Hải về nhà.
Chưa biết nghĩ cách nào để đem xác anh Hải về thì Văn thấy một chiếc xích lô
của ai bị bể bánh xe sau, nằm chơ vơ cạnh vách tường trường Jeanne d’Arc.
Văn gọi tôi theo anh. Chúng tôi đẩy chiếc
xích lô sứt cọng gẫy càng về phía Văn khoa. Có chừng 10 xác người trong đó. Tôi
không dám nhìn lâu. Chúng tôi hè hụi khiêng Hải bỏ lên xích lô. Xác anh đã
cứng. Đùm ruột lòi ra ngoài trông rất khủng khiếp. Hai mắt vẫn còn mở trừng.
Miệng vẫn còn há ra.
Hoàng Phủ Ngọc Phan vừa đánh anh Văn bằng
báng súng vừa chửi: Chuyến ni mi trốn nữa, mi gặp lại tau là mi chết!
Văn run rẫy lắp bắp: dạ lạy anh, em không
dám nữa mô. Rồi chúng tôi hè hụi đẩy chiếc xích lô mang xác người anh xấu số
của tôi nhắm hướng cầu Kho Rèn đi lên. Nhà tôi ở trên đường Hàm Nghi. Qua khỏi
cầu một chút. Suốt quảng đường từ đó về đến nhà, có rất nhiều đám lính bộ đội
Bắc Việt đứng tụm năm, tụm ba. Chúng tôi không bị bắt giữ lại vì có Hoàng Phủ
Ngọc Phan chạy đi trước ra dấu cho họ để cho chúng tôi đi.
Khúc đường ngang trường Thiên Hựu cũng có
rất nhiều xác người nằm rải rác. Nhiều vũng máu cũng như xác người bị ruồi bu
đen. Đã mấy ngày không có gì trong bụng, tôi vừa đi vừa ói khan. Văn cũng vậy.
Chúng tôi rán sức đẩy chíếc xích lô, trong lúc Hoàng Phủ Ngọc Phan cùng hai
người đàn bà nữa cứ chạy xe đảo tới, đảo lui hối chúng tôi mau lên. Tôi nghe
chúng nó hỏi nhau, bên Lý Thường Kiệt, Nguyễn Huệ còn ai nữa không? Có mấy
chiếc xe Honda chở gạo, bánh tét, đã tịch thu của nhà ai đó chạy thẳng vô
trường Thiên Hựu.
Lúc đó bỗng dưng có mấy chiếc trực thăng
xuất hiện trên trời nhả đạn xuống,Văn nói như reo bên tai tôi, Ti ơi, máy bay
của mình. Mừng chưa kịp no, thì trời ơi, từ những cửa sổ trên lầu của trường
Thiên Hựu những họng súng lớn nhỏ nhả đạn, nhắm hai chiếc trực thăng mà bắn,
lúc đó chúng tôi mới biết là VC đang ở trong trường Thiên Hựu quá nhiều.
Hoảng hồn tôi, Văn chạy lại ngồi sụp xuống
bên tường rào của trường tránh đạn.
Phan và đồng bọn biến đâu mất. Tụi nó như
ma, khi ẩn, khi hiện. Nhưng chỉ được một lát, hai chiếc trực thang bay đâu mất.
Chúng tôi thất vọng, khi thấy Phan với đồng bọn xuất hiện hối chúng tôi đi.
Lên tới cầu Kho Rèn, thấy một đám người,
đàn ông, đàn bà, con nít bị bắt trói chung với nhau ngồi trên đầu cầu. Họ ngồi
gục đầu xuống hai đầu gối. Tiếng con nít khóc, tiếng mấy bà mẹ dỗ con: nín đi
con ơi.
Đi ngang qua họ mà chúng tôi không dám
nhìn. Có tiếng người trong đám gọi tôi Ti ơi, quay lại tôi nhận ra chị giúp
việc của mẹ tôi và vợ của một chú cùng đơn vị với ba tôi ở tiểu đoàn 12 Pháo
Binh Phú Bài. Tôi đoán họ là những người từ trên Phủ Cam, chung quanh cầu Kho
Rèn, Hàm Nghi và những con đường chung quanh đó chạy xuống tìm đường trốn lên
Phú Lương thì bị bắt giữ.
Tôi định dừng lại hỏi thăm thì Hoàng Phủ
Ngọc Phan trờ xe tới nạt nộ: “đi mau, ngó chi!”
Trên đoạn đường từ Văn Khoa ngang qua
trường Thiên Hựu, cầu Kho Rèn, lên tới nhà nội chúng tôi thấy nhiều người bị
trói dính chùm vào với nhau đi trước mấy người mặc đồ đen đi dép râu, mang
súng.
Súng nổ tư bề mà sao không thấy bóng dáng
lính mình ở đâu cả. Chỉ thấy lính bộ dội Bắc Việt khắp nơi.
Trên đường Hàm Nghi, Nguyễn Thị Đoan Trinh
chạy ngang nhà nào mà y thị gật đầu là y như rằng trong nhà đó có người bị bắt
đem ra, người thì bị bắn tại trước nhà, người thì bị dắt đi, mấy ông bà cụ
trong nhà chạy theo nằm lăn ra đường khóc la thảm thiết… Bọn lính Bắc thì cứ
chửi thề luôn miệng, đéo mẹ câm mồm, ông bắn bỏ mẹ bây giờ…
Hai chúng tôi cứ nghiến răng, cúi mặt, lầm
lủi đẩy chiếc xích lô mang xác Hải đi tới.
Khi gần tới nhà tôi ở số 24 đường Hàm Nghi
thì Hoàng Phủ Ngọc Phan và con hồ ly Trinh rà xe lại gần bảo tôi: không được
đẩy vô nhà mi. Đẩy lên trên tê!
Đẩy lên trên tê, tôi hiểu đây là đẩy lên
nhà ông bà nội tôi. Cũng trên đường Hàm Nghi nhưng nhà nội tôi ở trên dốc,
hướng đi lên Phủ Cam. Nhà ba mạ tôi thì ở gần cầu Kho Rèn.
Tôi cũng không hề biết mặt Nguyễn Thị Đoan
Trinh trước đó. Trong hoàn cảnh này tôi mới biết mặt y thị là nhờ anh Văn nói.
Tội nghiệp anh Văn, cứ tưởng khi Hoàng Phủ Ngọc Phan biểu cùng tôi đẩy xác anh
Hải về là được tha chết. Anh Văn và tôi cũng không ngờ rằng đoạn đường từ Văn
Khoa lên tới nhà nội trên đường Hàm Nghi là đoạn đường sau cùng chúng tôi đi
chung với nhau trong cuộc đời này.
Lên tới nhà nội, chúng tôi đẩy Hải vô bên
trong hàng rào chè tàu, bỏ Hải ngoài sân tôi với Văn chạy vào nhà, nhà vắng
ngắt, đi từ trước ra sau bếp gọi ông ơi, mệ ơi.
Nghe tiếng ông nội yếu ớt từ trong buồng
vọng ra, ai đó, đứa mô đó? Con đây, ông nội. Nghe tiếng tôi, ông tôi hấp tấp
chạy ra, bước chân xiêu xiêu, ông tôi chạy lại ôm tôi, ông khóc, ông nói, lạy
Chúa lạy Mẹ cháu tui con sống. Tôi không khóc được, tôi run rẫy trong tay ông
nội. Ông tưởng tôi sợ nên an ủi, con còn sống mà về được đây là phúc lắm rồi, ở
đây với ông nội, không can chi mô! Nghe nói mạ mi đưa ba thằng em mi chạy lên
Phú Lương rồi, không biết đi tới mô rồi, có thoát được không? Lạy Chúa, lạy Mẹ
phù hộ.
Tôi không nói vì quá mệt, kéo tay ông nội
ra ngoài, thấy Văn ngồi bệt dưới nền nhà, ông hỏi, đứa mô giống thằng Văn rứa
bây?
Văn oà khóc, tôi khóc theo, kéo ông nội ra
sân. Nhìn thấy xác Hải ông nội tôi khuỵu xuống, miệng thì kêu trời ơi, trời ơi,
răng mà ra nông nỗi ni…
Chúng tôi đem Hải vào nhà, đặt anh trên
divan. Ông nội lấy mền đắp lên xác Hải.
Hai người anh tôi đang trốn trên trần nhà
đòi xuống nhìn mặt Hải. Ông nội không cho. Anh Lộc giở nắp trần nhà sát góc
tường, thò đầu xuống vừa khóc vừa nói, Ti, đẩy cái ghế đẩu qua cho anh. Tôi
nghe lời ra đằng sau bếp lấy cái ghế đẩu mang lên để ngay góc phòng cho anh Lộc
nhảy xuống. Ông nội ngó lên, quơ quơ hai tay, giọng ông lạc đi, đừng xuống, ông
nội lạy con, đừng xuống, ở trên đó đi mà… Anh Kính đang ở trên đó, cũng đang
khóc. Lộc chưa kịp nhẩy xuống thì nghe tiếng nói, tiếng chân người ngoài sân.
Anh vội vàng đóng miếng ván lại thì bọn Hoàng Phủ
Ngọc Phan cũng vừa vào đến.
Thấy Phan bước vô, mặt Văn biến sắc, anh
lắp bắp nói với ông nội, anh Phan cho tụi con đem xác về đó ông ơi. Ông nội đứng
im không nói. Hai mắt cú vọ của nó ngó ông nội hỏi: thằng Lộc, thằng Kính ở mô?
Ông nội nói tui không biết. Phan gằn giọng:
ông thiệt không biết tụi hắn ở mô? Tụi hắn năm mô cũng về ăn Tết ở đây mà ông
không biết răng được?
Ông nội nói, ba ngày tư ngày Tết, ăn xong
thì tụi hắn đi chơi, đi thăm bà con họ hàng chứ chẳng lẻ ở nhà hoài răng? Chừ
thì tui biết tụi hắn ở nhà mô mà chỉ!
Mắt Phan ngó láo liên khắp nơi, chợt thấy
cái ghế đẩu ngay góc phòng, nó cười khan một tiếng.
Tôi đứng núp sau lưng ông nội, Hoàng Phủ
Ngọc Phan hung hăng bước tới, xô ông nội qua một bên, nó nắm lấy tóc tôi kéo
tôi ra về phía hắn. Ngó lên trần nhà la lớn: Lộc, Kính, Hiệp, tụi mày không
xuống tau bắn con Ti!
Nó vừa nói, vừa xoáy mái tóc dài của tôi
trong tay, nó đẩy tới, đẩy lui. Tôi đau điếng, tôi sợ, tôi run lẩy bẩy, nước
mắt ứa ra nhưng không dám la thành tiếng. Ông nội tôi chấp tay lạy nó như tế
sao: tui lạy anh tha cháu tui, con gái con lứa, hắn biết chi mô.
Thằng Phan càng la lớn: tau biết tụi mi
trên đó, có xuống không thì nói, tau bắn con Ti.
Phan xô tôi té xuống, lấy chân đạp lên
lưng. Chĩa mũi súng lên đầu tôi hô một, hai, ba…
Lập tức anh Lộc mở nắp trần nhà thò đầu
xuống la to: đừng, đừng bắn em tau, tau xuống, để tau xuống…
Ông nội tôi chạy lại giữ cái ghế cho anh
bước xuống, hai chân ông run, ông té sấp, đang lúc anh Lộc tìm cách tuột xuống,
thò hai chân xuống trước, hai tay còn vịn trần nhà, khi đôi chân vừa chạm chiếc
ghế đẩu thì Hoàng PHủ Ngọc Phan đã nổ súng, đạn trúng ngay chính giữa cổ, máu
phọt ra, Lộc lăn xuống sàn nhà toàn thân anh dẫy dụa mấy cái rồi nằm im.
Mặc ông nội tôi la hét thất thanh, Phan
chĩa súng bắn lên trần nhà, nghe tiếng anh Kính lăn tới đâu, nó bắn tới đó, bắn
nát trần nhà, hết đạn nó giành lấy cây súng của một thằng khác bắn tiếp, cho
tới khi anh Kính tôi rớt xuống theo mấy miếng ván.
Anh Văn ngồi bệt xuống đất, nhắm mắt, bịt
tai, run lẩy bẩy, ngồi kề bên cạnh anh người tôi tê cóng, đái ỉa ra cả quần,
ông nội tôi nhào tới ôm anh Kính, hai mắt trợn trừng, anh đang thều thào những
lời sau cùng, ông khóc, ông chửi rủa thằng Phan, nó say máu, bắn luôn ông nội
tôi. Ông tôi đổ xuống bên cạnh anh Kính.
Bắn ông tôi xong chúng kéo nhau đi bắt anh
Văn theo. Còn lại một mình, tôi bò lại ôm lấy ông nội, tôi khóc không ra tiếng,
tôi thở không ra hơi, hai bàn tay tôi ướt đẫm máu, máu của ông nội tôi, tôi bò
sang anh Lộc, bò sang anh Kính, tôi lay, tôi gọi, tôi gào, không ai nghe tôi
hết, anh tôi không trả lời tôi, hai con mắt, bốn con mắt, sáu con mắt đều mở
trừng, ông nội tôi nằm im, máu trong ngực ông vẫn tuôn ra từng vòi. Tôi gục đầu
xuống xác ông lịm đi. Không biết bao lâu thì tôi tỉnh lại, nhưng không ngồi dậy
nổi. Cứ nằm ôm lấy xác ông nội. Tóc tôi bết đầy máu, toàn thân tôi, máu, phân
và nước tiểu đẫm ướt. Tôi không còn sức để ngồi lên. Không biết tôi nằm bên
cạnh xác ông tôi với ba người anh như vậy là bao lâu.
Khi tỉnh dậy thì thấy hai vợ chồng bác Hậu,
vài người lối xóm nữa của với ông nội đang ở trong nhà.
Họ dọn dẹp, khiêng bộ ngựa trong nhà bếp ra
trước phòng khách, đặt xác ông nội cùng với ba người anh tôi nằm chung với
nhau. Hai bác gái đem tôi vào phòng tắm, phụ nhau tắm rửa cho tôi như một đứa
con nít, bác Hậu lấy áo quần của bác mặc cho tôi. Tâm trí tôi hoàn toàn tê
liệt. Tôi không còn khóc được, không còn mở miệng nói được câu nào. Ngày cũng như
đêm ngồi rũ rượi bên cạnh xác của ông tôi, các anh tôi. Tôi không còn sợ chết.
Nhưng sao tụi nó không giết luôn tôi? Trời hỡi, trời ơi!
Nhìn thấy tôi tiều tụy, mỗi ngày bác Hậu
gái khuấy cho tôi vài muỗng bột bích chi ép tôi uống.
Thiệt ra nhà nội cũng chẳng còn chi. Gạo
cơm, bánh mứt thì bị tụi nó khiêng đi hết rồi. Bác Hậu còn giấu được ít gạo, ít
than nấu cháo uống cầm hơi với nhau.
Ngày hôm sau thằng Phan trở lại. Bác Hậu
xin phép được chôn ông tôi và mấy người anh sau vườn nhà nhưng nó không cho, nói
cứ để đó.
Đã hơn bảy ngày, xác đã bắt đầu sình lên và
nặng mùi. Mà Phan không trở lại.
Một buổi tối tụi bộ đội Bắc Việt đến lục
lọi kiếm gạo. Bác Hậu xin chúng nó đào huyệt sau nhà để chôn ông nội và ba
người anh tôi. Chúng nó bảo ừ thối quá rồi thì chôn đi, nhưng chỉ được đào một
lỗ huyệt.
Vợ chồng bác Hậu khóc lóc năn nỉ: mấy anh
ơi, người chết rồi biết chi, anh cho tụi tui đào 4 huyệt. Chúng không cho.
Chúng nó phụ bác Hậu đào huyệt. Bảo đem cả bốn người bỏ xuống chung một lỗ. Lấp
lẹ đi, thối quá. Bác Hậu với mấy người trong nhà không ai muốn làm, ngó nhau mà
khóc…
Chiều tối hôm đó Văn trở lại với Phan và
mấy thằng bộ đội. Chúng nó bắt Văn phụ với mấy thằng bộ đội khiêng từng người
ra bỏ xuống huyệt. Hai vợ chồng bác Hậu theo ra vườn.
Tôi kiệt sức nằm vùi một chỗ nhưng tai tôi
vẫn nghe rõ những lời đối thoại trong nhà. Tôi không đủ can đảm theo ra vườn
chứng kiến cảnh vùi lấp những người thân yêu của tôi. Nằm trong buồng ông bà
nội nhưng tôi nghe rõ từng tiếng cuổng xẻng đang đào đất. Tâm trí tôi quay cuồng,
ruột gan tôi đòi đoạn. Trời ở đâu, đất ở đâu? Tôi gọi ông tôi, gọi anh Lộc, anh
Kính, anh Hải, không ai nghe tôi hết…
Khi bốn cái xác người được bỏ xuống, miệng
lỗ chưa được lấp, thì tôi nghe tiếng súng nổ, tiếng kêu gào của vợ chồng bác
Hậu, nhưng không nghe tiếng của Văn. Tiếng bác Hậu kêu Văn ơi, Văn ơi giọng bác
đòi đoạn, thì tôi biết chuyện gì đã xảy ra cho Văn. Toàn thân tôi lẩy bẩy, tôi
cảm thấy khó thở, một lần nữa cứt và nước đái trong người tôi túa ra.
Tôi nghe tiếng mấy thằng bộ đội hò hét bảo
lấp đất lại. Bác Hậu và những người hàng xóm của nội tôi đành phải làm theo.
Khi tụi bộ đội VC bỏ đi, bác Hậu chạy vào
buồng vò đầu, bức tai, giọng tức tưởi: thằng Văn nằm chung với ba thằng anh mi
rồi con ơi! Trời ơi, là trời ơi. Bác Hậu đấm ngực: không biết thằng Văn đã chết
chưa mà hắn bắt tui lấp. Văn ơi là Văn ơi, con tha tội cho bác, trời ơi người
mô mà ác như rứa…
Tôi lặng người, nghe bác Hậu khóc anh Văn.
Sau lần đó không đứa nào trong bọn chúng
trở lại, kể cả tụi bộ đội.
Chắc nhà ông tôi chẳng còn người để mà
giết, chẳng còn của cải chi để mà cướp nữa.
Hơn hai mươi ngày, tôi nằm liệt lào trong
nhà nội. Bên ngoài súng đạn vẫn tư bề.
Hai vợ chồng bác Hậu không nỡ bỏ tôi lại
một mình, trong lúc bác nghe ngóng và biết đa số dân Phủ Cam đã tìm đường chạy
thoát được xuống Phú Lương. Bác năn nỉ tôi: rán ăn uống thêm một chút để có sức
mà chạy, không lẽ con nằm đây chờ chết? Con không muốn tìm mạ con răng?
Hôm sau nữa tôi theo gia đình bác Hậu tìm
đường chạy lên Phú Lương vì nghe nói lính Mỹ, lính mình đã thấy xuất hiện chung
quanh đây rồi.
Đi xuống ngã cầu Kho Rèn thì cầu đã bị sập,
bác theo đoàn người đi hướng khác, tôi đi theo như người mất hồn, họ đi đâu tôi
theo đó, tôi không còn nhớ là mình đã đi qua được những nơi đâu. Có điều tôi
lấy làm lạ, trên đường chạy giặc, mỗi khi đạn pháo bắn khắp nơi mà người ta cứ
gồng gánh nhau mà đi, không ai chịu dừng lại kiếm chỗ tránh đạn, người ta nói
với nhau: khi mô mà có mọc chê hay đạn pháo chi đó thì bọn VC chui vô nhà dân
để trốn đạn, chúng nó không ra đường để chặn bắt dân lại, vì vậy người ta cứ
chạy bất kể, dưới lằn mưa đạn người ta càng chạy đi đông hơn. Ôi những người
dân tội nghiệp của xứ Huế thà chết dưới bom đạn còn hơn để bị lọt vô tay quân
sát nhân ác độc.
Cuối cùng thì tôi cũng về đến được Phú
Lương gặp mạ và ba đứa em trai của tôi. Quá đau khổ, Mạ tôi bị phát điên khi
hay tin cái chết của ba người anh và ông nội.
Ít lâu sau ba tôi trở về sau một đợt hành
quân nào đó của tiểu đoàn 12 Pháo Binh Phú Bài. Thấy mạ tôi như vậy, biết không
thể trở lại đường Hàm Nghi ông mướn nhà ở tạm tại Phú Lương.
*
Sau khi Huế được giải thoát. Ba tôi nhờ bà
con lối xóm cải táng Văn, ba người anh, và ông nội tôi, tang lễ được cữ hành
tại nhà thờ Phủ Cam do cha Nguyễn Phùng Tuệ chủ tế.
Gia đình anh Văn đồng ý cho anh Văn được
nằm lại trong miếng vườn nhà ông nội tôi cùng với ba người anh của tôi.
Ba tôi được giải ngũ khoảng giữa năm 69. Mạ
tôi vẫn trong cơn điên loạn không thuyên giảm. Ba tôi quyết định bỏ Huế đem hết
gia đình vào Long Khánh sinh sống. Nhà nội giao lại nhờ hai bác Hậu coi chừng.
Nhà ở 24 Hàm Nghi (gần dường rầy xe lửa) thì bán cho ai đó tôi không rõ.
Thưa ông Liên Thành,
Đó là những cái chết oan khiên của những
người ruột thịt thân yêu mà tôi phải chứng kiến tận mắt với muôn ngàn đau đớn.
Trong bà con thân tộc nội ngoại hai bên của tôi có rất nhiều người bị bắt đi ở
nhà thờ Phủ Cam, một số bị bắt ở nhà thờ dòng Chúa Cứu Thế. Số người bị chôn
sống, mất tích lên tới 70 người. Tất cả đều là học sinh, sinh viên, thường dân,
nông dân, buôn bán ở chợ An Cựu.
Sau Tết Mậu Thân, những người bà con còn
lại của tôi quá đau khổ, sợ hãi, họ đã âm thầm bỏ Huế, tản mác khắp nơi, thay
tên đổi họ mà sống…
Sau biến cố tháng 4 đen 75, gia đình tôi
lại là những nạn nhân của lũ Việt Gian Cộng Sản ác độc, vô luân. Ba tôi và
những đứa em trai còn lại cũng đã chết sau mười mấy năm bị đày đọa trong lao tù
CS.
Đã 40 năm qua, những vết thương đó vẫn còn
tươi rói trong tôi. Nỗi đau mỗi ngày một đầy. Đó là những cái chết oan khiên
trong muôn ngàn cái oan khiên của người dân Huế.
Tôi là người con duy nhất trong gia đình
còn sống sót sau Tết Mậu Thân cũng như sau những ngày mất nước. Nay viết lại
những cái chết thương tâm của những người Thân Yêu trong gia đình tôi với tư
cách là một nhân chứng và nạn nhân, để tố cáo Tội Ác của Việt Gian Cộng Sản, có
như thế, oan hồn của ông nội và anh em tôi mới có thể siêu thoát.
Tôi sẵn sàng ra làm nhân chứng trước tòa án
quốc tế, cũng như xuất hiện trước các phương tiện truyền thông khi cần thiết.
Xin trình tên tuổi ông nội tôi, và của ba người anh bị
sát hại:
Tên ông nội:
- Nguyễn Tín, 70 tuổi.
Ba người anh:
- Nguyễn Xuân Kính, sinh viên Y khoa, sinh
năm 1942.
- Nguyễn Xuân Lộc, sinh viên Luật, sinh năm
1946.
- Nguyễn Thanh Hải, sinh viên Văn Khoa,
sinh năm 1949.
Và Lê Tuấn Văn, sinh viên Văn Khoa, bạn của
anh Hải tôi.”]
*
[“Ở một làng quê, có ông Bí thư rất độc ác,
khi nghe tin ông đổi đi nơi khác, dân làng hồ hởi, phấn khởi ăn mừng… Nhưng rồi
ông Bí thư khác đến, vẫn vậy, nếu không muốn nói còn ác độc hơn ông trước. Thế
rồi, một hôm ông Bí thư lâm bệnh mà chết. Đám ma được chính quyền tổ chức rầm
rộ. Một bà cụ già, nửa đêm ra đào mồ ông Bí thư, bị bắt, đem ra Tòa xử. Tòa
hỏi: cớ sao người ta chết rồi, bà lại đào mồ lên làm gì? Bà cụ dõng dạc trả
lời: Tội ác không thể chôn đi, mà phải đào lên, phải được xử án, để mọi người
"học tập" hầu tránh xa Tội ác!”] (NguyenHa)
Vũ Thế Phan (Sưu tầm và có sửa vài lỗi chính tả)
Bình Luận :
#17-31-1 16:42
Hoàng Phủ Ngọc Phan khẳng định: “Sự thực
anh Tường không hề về Huế mà ở lại trên căn cứ để làm nhiệm vụ tiếp đón các vị
khách từ nội thành ra”?
Hoàng Phủ Ngọc Tường trả lời phỏng vấn:
[“Tôi đã đi trên những đường hẻm mà ban đêm tưởng là bùn, tôi bấm đèn lên thì toàn là máu... Nhất là những ngày cuối cùng khi chúng tôi rút ra...”.
Toàn văn:
http://www.oirmusicas.com/music/ziN7IROOSc8.html
Hoàng Phủ Ngọc Tường trả lời phỏng vấn:
[“Tôi đã đi trên những đường hẻm mà ban đêm tưởng là bùn, tôi bấm đèn lên thì toàn là máu... Nhất là những ngày cuối cùng khi chúng tôi rút ra...”.
Toàn văn:
http://www.oirmusicas.com/music/ziN7IROOSc8.html
No comments:
Post a Comment