Hồ Anh Hải
26-1-2013
Điều 4 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 viết (tóm tắt):
1. Đảng Cộng sản Việt Nam …. là
lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. 2. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân,
phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân
dân về những quyết định của mình. 3. Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Hiện nay có mấy quan niệm khác nhau về Điều 4 Hiến pháp.
1) Quan niệm hạ thấp ý nghĩa,
tác dụng của Điều 4. Thí dụ ông Trần Trọng Tân nguyên Trưởng ban tư tưởng văn
hóa Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) nói : « Hiến pháp chỉ thừa
nhận Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, không phải Hiến pháp cho
phép Đảng được lãnh đạo Nhà nước và xã hội ; hiểu Điều 4 của Hiến pháp như là
“giấy phép” cho Đảng là không đúng. » [1]. Chẳng rõ cách giải thích này có
phải là nhằm mục đích hạ nhiệt phản ứng của những người phản đối sự áp đặt Điều
4 hay không.
Thực ra Hiến pháp là văn bản
pháp luật cơ bản, lâu dài, có hiệu lực pháp lý cao nhất của một nước. Vì pháp
luật là « những quy phạm hành vi do nhà nước ban hành mà mọi người dân buộc
phải tuân theo » [2], do đó tất cả các điều văn được đánh số thứ tự
trong Hiến pháp đều có tính ép buộc, cưỡng chế ; ai vi phạm Hiến pháp sẽ
bị xử lý (Điều 123), nghĩa là có thể bị bỏ tù. Thí dụ Điều 14 nói Hà Nội
là thủ đô nước ta đâu phải chỉ là sự thừa nhận, mà là một quy định pháp lý,
ai không tuân theo là vi hiến, tức phạm pháp.
Như vậy Điều 4 không chỉ thừa
nhận Đảng là lực lượng lãnh đạo và cho phép ĐCSVN thực thi quyền
lãnh đạo ấy mà còn buộc Nhà nước và xã hội, trong đó có nhân dân, phải phục
tùng sự lãnh đạo của Đảng, không phục tùng là vi hiến. Ý nghĩa, tác dụng
của Điều 4 là thế. Dĩ nhiên ai cũng biết rằng phục tùng một cách tự nguyện thì
tốt hơn khi bị ép buộc.
2) Quan niệm phổ biến trong dư
luận là đánh giá quá cao ý nghĩa tác dụng của Điều 4, cho rằng nhất thiết phải
có Điều 4 thì mới giữ được sự lãnh đạo của ĐCSVN, bỏ Điều 4 là xóa bỏ sự lãnh
đạo ấy ; từ đó bất kỳ ý kiến nào đòi bỏ Điều 4 đều bị coi là chống Đảng. Mặt
khác, cũng vì đánh giá như vậy mà những người phản đối sự lãnh đạo của ĐCSVN
cũng nghĩ rằng chỉ cần bỏ Điều 4 thì sẽ xóa bỏ được sự lãnh đạo của Đảng.
Thực ra vai trò lãnh đạo của
Đảng cầm quyền và Hiến pháp là hai vấn đề khác nhau. Hiến pháp không quy
định về vai trò lãnh đạo của đảng cầm quyền không có nghĩa là đảng đó mất quyền
lãnh đạo. Vai trò ấy quyết định bởi lòng dân chứ không bởi Hiến pháp. Lịch sử
đã chứng minh đây là một chân lý không ai có thể bác bỏ.
Như ở Liên Xô, trước năm 1977,
Hiến pháp không nói về vai trò lãnh đạo nhà nước của ĐCS Liên Xô, nhưng Đảng
vẫn lãnh đạo xây dựng nước này trở thành siêu cường. Từ 1977 Hiến pháp có Điều
6 quy định ĐCS Liên Xô giữ quyền lãnh đạo đất nước, nhưng từ đó Đảng lại suy
thoái nhanh và chỉ sau 14 năm thì Đảng tan rã, bị mất quyền lãnh đạo. Hậu quả
làm nhà nước sụp đổ, xã hội rối loạn, tài sản công do nhân dân làm ra trong hơn
70 năm bị tầng lớp tư bản mới chiếm đoạt. Nguyên Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình
Lộc nói « Liên Xô sụp đổ cũng là lúc cái điều trong Hiến pháp về sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản được khẳng định rất mạnh » ; sự sụp đổ ấy « có phải là
diễn biến hòa bình đâu » mà « là nhân dân vùng dậy lật đổ »
[3]. Rõ ràng, khi đã mất lòng dân thì đặc quyền lãnh đạo của ĐCS Liên Xô, dù có
Điều 6 bảo đảm, cũng vẫn bị mất.
Trung Quốc từ năm 1982 đến nay
các điều văn Hiến pháp hoàn toàn không có từ Đảng cộng sản, tức không có
quy định về vai trò lãnh đạo của ĐCSTQ, nhưng Đảng vẫn lãnh đạo như cũ.
Tóm lại, trừ các nước độc tài chuyên chế ra, vai trò
lãnh đạo của đảng cầm quyền trong các nước dân chủ không liên quan gì đến Hiến
pháp mà hoàn toàn quyết định bởi lòng dân, tức sự tín nhiệm của Đảng.
Sau Cách mạng tháng Tám, ĐCSVN
tuy chỉ có vài nghìn đảng viên nhưng đã được nhân dân suy tôn làm đảng lãnh
đạo. Dù chẳng viết điều đó vào Hiến pháp 1946 và 1959, thậm chí có lúc còn
tuyên bố giải thể, song Đảng vẫn giữ vững vai trò ấy và đã lãnh đạo cực kỳ xuất
sắc. Tất cả là do ĐCSVN có đường lối đúng, đảng viên dẫn đầu hy sinh vì dân vì
nước, biết bao đảng viên đã ngã xuống. Đảng không coi lãnh đạo đất nước là đặc
quyền đặc lợi mà coi là sứ mạng lịch sử trao cho, là nhiệm vụ nặng nề phải gánh
lấy, dù biết phải hy sinh lợi ích riêng, kể cả tính mạng. Vì thế tất nhiên
ĐCSVN giành được tín nhiệm tuyệt đối của nhân dân. Thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám và mấy cuộc kháng chiến chống xâm lược là những sự thực lịch sử không
thể phủ nhận, đem lại uy tín cao cho Đảng.
Về sau, do học theo Điều 6 Hiến
pháp Liên Xô mà Hiến pháp 1980 và 1992 của ta có thêm Điều 4 ; nhưng ĐCSVN
không vì thế mà mạnh lên, ngược lại càng suy thoái biến chất tới mức như Nghị
quyết 4 nhận định, khiến lòng tin của dân ngày một giảm sút và tiềm ẩn nguy cơ
tự tan vỡ từ bên trong [4]. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lo nghĩ : « Bây giờ
trong Đảng [ĐCSVN] cũng có sự phân hoá giàu-nghèo… Mai kia Đảng
này sẽ là đảng của ai? Có giữ được bản chất là đảng cách mạng của giai cấp công
nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc không? »[5]. Nỗi lo ấy
rất có lý, vì khi ĐCSVN do quan liêu, tham nhũng, đặc quyền đặc lợi mà đánh mất
bản chất cách mạng thì nước ta tất sẽ đi theo vết xe đổ của Liên Xô.
Trên thế giới ngày nay hầu hết
các nước đều do một hoặc vài chính đảng lãnh đạo. Lịch sử Việt Nam trao cho
ĐCSVN sứ mạng lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và xây
dựng nước ta trở thành một nước dân chủ tự do, giàu mạnh văn minh. ĐCSVN đã
hoàn thành sứ mạng giành độc lập, thống nhất tổ quốc và hiện đang lãnh đạo nhân
dân xây dựng đất nước. Tuy rằng thời gian qua trong Đảng xuất hiện tình trạng
suy thoái biến chất nguy hiểm ở một bộ phận không nhỏ đảng viên cán bộ khiến
cho uy tìn của Đảng bị giảm sút, nhưng đa số nhân dân ta vẫn ủng hộ Đảng.
Hơn nữa, sau gần 70 năm cầm
quyền, ĐCSVN đã xây dựng được một hệ thống chính trị, tư tưởng, văn hóa, tổ
chức vững mạnh ở tất cả mọi cơ sở dân cư, tổ chức xã hội, kinh tế, chính trị,
quân đội …, nắm chặt cương vị lãnh đạo từ cấp thấp nhất tới cao nhất trong cả
nước. Các thế lực ngoài Đảng dù mạnh đến đâu cũng không xóa bỏ nổi vai trò lãnh
đạo của ĐCSVN. Nguy cơ làm Đảng mất quyền lãnh đạo chỉ có thể đến từ trong
Đảng, Hiến pháp chẳng thể cứu được, như bài học Liên Xô đã cho thấy.
Trưởng ban Nội chính Trung ương
Đảng Nguyễn Bá Thanh mới đây nói : « Tình hình của Đảng đang lâm nguy. Nếu
như không mở được ‘cuộc chiến’ giành lại lòng tin của chính đảng viên và của
dân thì gay đến nơi rồi. » [6]
Đúng vậy, chỉ có giành lại lòng
tin tuyệt đối của nhân dân thì ĐCSVN mới giữ được vai trò lãnh đạo. Lòng tin
mạnh hơn luật pháp và không thể áp đặt, Điều 4 không làm dân thêm tin Đảng mà
còn bị một bộ phận không nhỏ đảng viên coi là vũ khí đem lại đặc quyền đặc lợi
cho họ; chớ nên tin nó là bảo bối có thể giữ được vai trò lãnh đạo của Đảng.
Khi Đảng đã suy thoái mà còn trông chờ vào Điều 4 thì khác gì người sắp chết
đuối trông chờ vào cọng rơm.
Cách duy nhất đúng là thực hiện
nghiêm chỉnh Nghị quyết 4, sao cho toàn thể đảng viên giữ được phẩm chất tiên
phong, liêm khiết, Đảng thực sự trong sạch vững mạnh. Đây là một cuộc chiến cực
kỳ gian nan, đau khổ, vì phải chiến đấu với chính mình, với đồng chí, người
thân của mình. Nhưng cách làm này có lợi cho dân tộc và cả cho ĐCSVN, vì thế là
thượng sách.
Tác giả gửi cho Quêchoa
…………………………
Tài liệu tham khảo :
[2] Từ điển Tiếng Việt, Hoàng
Phê chủ biên, Hà Nội 1994
[6] http://www.petrotimes.vn/news/vn/dam-luan-doi-thoai/khi-ong-nguyen-ba-thanh-khong-con-la-huan-
luyen-vien.html
No comments:
Post a Comment