04:36:pm
21/01/13
Có
cuốn Quyền Bính trong tay, đọc khoảng 50 trang đầu, tôi đành phone vào hãng cáo
bệnh, ngồi nhà đọc một mạch cho đến trang cuối cùng. Việc mổ xẻ các nhân vật và
sự kiện trong đó cần nhiều thời gian và công sức. Bài viết này chỉ là những cảm
nhận ban đầu.
Câu
cuối cùng của Lời mở đầu trong Quyền Bính viết: “Hệ thống chính trị trải qua nhiều thế hệ, càng về sau lại
càng ít có khả năng khắc phục sai lầm.” Phải chăng đây là một
luận đề, mà tác giả đã dùng phần còn lại của cuốn sách để chứng minh.
Đại
Hội
Câu
chuyện thường bắt đầu từ Đại hội Đảng. Đại hội đẻ ra Bộ chính trị và Tổng bí
thư. Bộ chính trị và Tổng bí thư lại đẻ ra chính sách. Trong chuỗi mắt xích
này, quyền bính được sử dụng triệt để nhằm thao túng chính trường ở những cung
bậc khác nhau.
Trước
Đại hội VI, Lê Duẩn chết, Lê Đức Thọ muốn giành lấy vị trí này. Nhưng Lê Duẩn
chỉ đích danh Trường Chinh thay mình. Ông Thọ đã sử dụng quyền bính tuyệt đối
của trưởng ban nhân sự Đại hôi để giành ghế. Không được, ông rút lá bài cuối
cùng: không ăn được thì đạp đổ. Trường Chinh đã bị ông Thọ ép phải rút lui chỉ
vài giờ trước khi Đại hội VI khai mạc.
Ở
một hoàn cảnh khác, quyền bính được sử dụng thành bản án để tiêu diệt đối
phương. Vụ Sáu Sứ là một điển hình. Phần vì ghen tức với uy tín của Võ Nguyên
Giáp và Trần Văn Trà, phần vì sợ hai ông này trở lại chính trường, hai tướng Lê
Đức Anh và Đoàn Khuê dùng Vũ Chính cùng con rể Nguyễn Chí Vịnh ở tồng cục II
dựng lên vụ “âm mưu lật đổ” do tướng Giáp cầm đầu.
May
mắn cho tướng Giáp, vụ án được giao cho thứ trưởng công an Võ Viết Thanh là một
người tử tế. Ông Thanh lật án, không theo ý kiến chỉ đạo. Lập tức Võ Viết Thanh
bị trả đũa. Sự nghiệp chính trị của ông Thanh chấm dứt, thanh danh cá nhân và
gia đình bị bôi nhọ. Ông Thanh tâm sự “Trong cặp tôi lúc đó có một khẩu súng,
tôi đã định kéo khóa rút súng ra bắn chết cả ba ông rồi tự sát.” (Ba ông là
Đoàn Khuê, tổng tham mưu trưởng, Võ chí Công, chủ tịch nước, và Nguyễn Đức Tâm,
trưởng ban tổ chức trung ương) .
Từ
Đại hội Đảng VI năm 1986 đến Đại hội XI năm 2011 là 25 năm với 6 kỳ Đại hội.
Càng về sau, Đại hội càng lộn xộn. Cứ trước Đại hội, là có nhiều kỳ án, nhiều
tin đồn úp úp mở mở làm xôn xao chính trường. Đại hội sau nhiều án hơn Đại hội
trước và mức độ khốc liệt của nó cũng tăng. Những cảnh hạ bệ, thanh toán nhau
rất ngoạn mục được trình bày một cách bình tĩnh, rõ ràng và đầy sức thuyết
phục.
Nhân
Sự
Nếu
Đại hội Đảng là mẹ, thì Bộ chính trị là con. Trong Bộ chính trị thì Tổng bí thư
là con trưởng, các ủy viên là những đứa con thứ. Mẹ mang bệnh di truyền từ
trong nhiễm sắc thể, thì lũ con làm sao tránh khỏi căn bệnh trầm kha.
Trường
Chinh được mô tả như là kiến trúc sư của Đổi mới. Ông đoạn tuyệt với quan liêu
bao cấp. Ông tập hợp những trợ lý giỏi, tận tụy và nhiệt thành với công việc,
mang lại chút hy vọng vào những năm cuối thập kỷ 80. Nhưng âu cũng là số phận.
Ông phải “tự” rút. Dân tộc lại trở về với cảnh lầm than.
Nguyễn
Văn Linh, kế vị Trường Chinh, bộc lộ ra là một con người thủ đoạn, hẹp hòi, thù
vặt, thành kiến, và bảo thủ. Bạn đọc khá dễ dàng tìm được câu trả lời tại sao
ông Linh đã trở thành một sát thủ lạnh lùng với Trần Xuân Bách.
Ông
Đồng và ông Thọ đưa ông Linh vào ghế Tổng bí thư. Ông Bách phản đối vì ông Linh
chẳng có trình độ gì. Khi ông Linh đã thành Tổng bí thư rồi, ông Bách vẫn coi
thường ông Linh ra mặt. Cuộc chiến Linh – Bách bắt đầu như vậy.
Rồi
ông Linh đánh hơi được là ông Bách sẽ thay mình vào giữa nhiệm kỳ. Thế là ông
Linh liên minh với cánh bảo thủ giáo điều Bắc kỳ. Những ngón đòn hiểm nhất được
tung ra diệt Trần Xuân Bách không tiếc thương để trừ hậu họa.
Ông
Linh còn lập ra nhiều kỳ án để vặt lông bẻ cánh, thậm chí còn muốn cắt tiết Võ
Văn Kiệt. Bề ngoài ông Linh lại đóng vai cấp tiến làm mọi người cứ tưởng ông
Linh là cánh đổi mới cùng phe với ông Kiệt từ miền Nam ra. Cuộc đọ sức Linh –
Kiêt đầy kịch tính và kéo dài đến những năm khi ông Linh đã về hưu.
Đến
đời Tổng bí thư Lê Khả Phiêu, di sản đồ sộ của ông để lại cho đất nước là hoán
chuyển cán bộ. Những đồng hương Thanh Hóa của ông được cơ cấu, còn những ai
không cùng cánh bị đẩy ra.
Tới
Tổng bí thư Nông Đức Mạnh thì phó ban tổ chức Trung ương cũng phải thốt lên: “Tôi thật xấu hổ vì Đảng ta có một
tổng bí thư như vậy”. Thủ tướng Phan Văn Khải nhận định: “Ông Mạnh trình độ yếu lại thiếu bản
lĩnh nên gần như không tác dụng gì”. Chính ông Mạnh cũng tự nhận: “Em biết thân phận em rồi, người dân
tộc chỉ có thể làm đến thế.”
Ông
Mạnh tự biết khả năng của mình, nhưng người ta cứ giao cho ông chức Tổng bí
thư. Ông Mạnh đã trở thành ông bình vôi không hơn không kém. Quyền bính càng dễ
bị khuynh loát bởi những bóng ma sau hậu trường. Nhóm Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn
Văn Hưởng, Lê Hồng Anh ra đời trong hoàn cảnh này.
Trong
Quyền Bính tác giả có dẫn lời Nguyễn Văn An, ủy viên Bộ chính trị, trưởng ban
tổ chức Trung ương: “Ngay
từ Đại hội VI chọn ông Nguyễn Văn Linh đã không đúng, Ông ấy không phải là
người đổi mới. Ông Linh chọn ông Đỗ Mười cũng không đúng. Ông Mười chọn Lê Khả
Phiêu cũng không đúng. Đến khi chọn Nông Đức Mạnh thì sai”
“Không
đúng” đồng nghĩa với “Sai”. Nhưng ông An phải dùng từ sai để nhấn mạnh căn bệnh
đã vào giai đọan cuối. Nếu mang tài năng và đạo đức của các Tổng bí thư biểu
diễn trên đồ thị, thì đó là đồ thị của một hàm số nghịch. Thời gian càng tăng
thì đạo đức và tài năng của các vị càng giảm.
Đối Ngoại
Đối Ngoại
Tổng
bí thư và Bộ chính trị làm ra và điểu hành chính sách. Vậy, bạn đọc tự đoán ra
kết quả. Những nhân sự bệnh hoạn trên không thể sinh ra những chính sách đúng,
tất nhiên càng không thể điều hành quốc gia hội nhập vào quỹ đạo của nhân loại.
Nhận
thức của cán bộ cao cấp cũng rất thảm hại. Ông Nguyễn Đức Bình tuyên bố “Toàn cầu chỉ mang lại đói nghèo”
còn Nguyễn Phú Trọng thì bảo “đó là diễn biến hòa bình”.
Khi Bill Cliton đến thăm Việt Nam, vô tình hay cố ý, mà thời gian ông đặt chân đến Hà Nội và Sài Gòn đều vào lúc nửa đêm. Bộ chính trị chỉ đạo không ai được cười khi tiếp Bill Cliton. Quyền Bính mô tả: Một trợ lý nhắc Thủ tướng: “Người ta đã sang tận đây, tiếc gì anh không nở một nụ cười với họ”. Thủ tướng Phan Văn Khải trả lời: “Không được đâu mày ơi, Bộ chính trị đã thống nhất là không được cười”.
Khi Bill Cliton đến thăm Việt Nam, vô tình hay cố ý, mà thời gian ông đặt chân đến Hà Nội và Sài Gòn đều vào lúc nửa đêm. Bộ chính trị chỉ đạo không ai được cười khi tiếp Bill Cliton. Quyền Bính mô tả: Một trợ lý nhắc Thủ tướng: “Người ta đã sang tận đây, tiếc gì anh không nở một nụ cười với họ”. Thủ tướng Phan Văn Khải trả lời: “Không được đâu mày ơi, Bộ chính trị đã thống nhất là không được cười”.
Khi
Bill Clinton đến thăm Đại học Quốc gia Hà Nội, sinh viên được quy định khi nào
thì được đứng lên, khi nào thì được vỗ tay.
Đón
nguyên thủ vào lúc nửa đêm và nền ngoại giao cấm cười ra đời ở xứ ta. Cũng
không biết nên cười hay mếu khi đọc những dòng này trong Quyền Bính.
Đường
lối ngoại giao với Trung Quốc được thể hiện qua cuộc gặp của Lê Khả Phiêu với
Giang Trạch Dân. Cuộc gặp diễn ra không theo nghi thức của Đảng hay Nhà nước
một cách công khai, mà lén lút, khuất tất theo đường tình báo.
Chuyến
đi gồm bốn vị Lê Khả Phiểu, Trần Đình Hoan, Nguyễn Mạnh Cầm và Nguyễn Chí Vịnh.
Nhưng phút chót, Trung Quốc lại ngăn không cho ông Cầm và ông Hoan vào phòng
họp, chỉ riêng ông Phiêu và Vịnh được vào. Ông Phiêu thú nhận đã thoả
thuận đàm phán song phương vấn đề biển đảo với Trung Quốc.
Chuyện
mất đất, mất biển với Trung Quốc là có thiệt. Quyển Bính đã trình
bày ngọn nguồn của câu chuyện. Nếu không mất đất, tại sao Đảng lại phải giấu
dân? Tại sao lại không công khai nội dung và kết quả đã ký?
Khi
biết Việt Nam sắp ký Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ, các ủy viên Bộ chính trị
nhận được bức điện tối mật từ Tổng cục II: “Trung
Quốc sẽ phản ứng rất xấu nếu ký với Mỹ”.
Đọc
đến đây, thú thật tôi phải chửi thề vì quá đau lòng trước những cơ hội đã mất.
Tao buôn bán với Mỹ thì mặc mẹ tao, hề hấn gì đến mày mà mày phải phản ứng xấu.
Mày lấy tư cách gì mà chúi mũi vào ống khóa nhà tao. Mày phản ứng xấu thì làm
đéo gì được tao. Tôi cũng đắng cay tự hỏi: Ai là người để Trung Quốc làm việc
đó? Sao các ngài phải sợ cái thằng hàng xóm to xác mà thối bụng đến vậy? Hèn
quá. Nhục quá.
Đối
Nội
Về
đường lối kinh tế và đối nội, Quyền Bính trích dẫn lời ông Đào Duy Tùng: “Kinh tế phải phục tùng chính trị”.
Một mệnh lệnh tuyệt cú mèo, xứng tầm ủy viên Bộ chính trị.
Ở
Việt Nam chưa hề có đổi mới chính trị, thì làm sao có đổi mới kinh tế. Công
cuộc “Đổi mới”của Đảng từ năm 1986 thực ra chỉ nửa vời, nếu không nói là giả
tạo, hay nói cho chính xác là một thằng xây nhưng chín thằng phá.
Một
nhóm nhỏ người giàu lên là do chộp giựt. Xã hội chưa hình thành một tầng lớp
trung lưu thực sự và bền vững. Sức lao động và sự sáng tạo chưa được giải
phóng. Vòng kim cô về chủ nghĩa xã hội vẫn đang siết chặt trên đầu. Chệch đường
lối thì không vào tù cũng thân bại danh liệt. Khác phe cánh thì không bị cưỡng
chế cũng bị thanh tra.
Thiết
tưởng, không cần phải bàn thêm gì nữa. Hậu quả đã nhãn tiền. Nền kinh tế và xã
hội Việt Nam hôm nay đang là đêm hôm trước của ngày phá sản.
Nụ
Cười và Nước Mắt
Bên
cạnh những câu chuyện khô khan về đường lối đối kinh tế, Quyển Bính, thảng
hoặc, mang lại cho bạn đọc những nụ cười.
Ông
Lê Duẩn bảo các chị phụ nữ rằng sao các chị nghe vậy mà không “vả vào miệng”
những người nói. Tôi khoái lối nói dân dã của ông, y chang như mấy bà ngoài chợ
Đồng Xuân. Ông Đỗ Mười tiếp các nhà báo trong khi quên cài khóa cửa quần. Ông
Đoàn Khuê thì vén áo cho Đỗ Mười sờ bụng rồi khoe rằng khối ung thư trong bụng
đã tan, ông đủ sức khoẻ đảm nhiệm Chủ tịch nước. Lối xưng hô suồng sã “Mày,
Tao” của các vị Tổng, Thủ, Chủ, cũng mang lại nụ cười tủm tỉm.
Rồi
người đọc cũng bắt gặp câu chuyện cảm động về số phận của đứa con rơi lưu lạc
Phan Thanh Nam.
Bà
Hồ Thị Minh, 20 tuổi, con gái miền Nam, nhan sắc mặn mòi, từng làm chủ bút một
tờ báo, từng dự hội nghị bên Pháp, biết nhiều ngoại ngữ, được gởi ra Bắc để
giúp việc cho Bác Hồ. Chưa kịp giúp Bác, vì Bác đã trên 60 tuổi, thì gặp Võ Văn
Kiệt đi dự Đại hội Đảng II, năm 1951.
Hai
tâm hồn Nam bộ phóng khoáng mà cô đơn giữa núi rừng Việt Bắc hoang vu gặp nhau,
kết quả là thằng con Phan Thanh Nam ra đời. Hơn năm sau, ông Kiệt phải về Nam.
Trung ương Đảng giao thằng con trai ông Kiệt cho ông Cái ở Tổng cục Lương thực.
Tổng cục Lương thực nhưng có lẽ vì thiếu lương thực không nuôi nổi cháu bé sơ
sinh, thằng bé phải nằm lại bơ vơ bên bờ suối. Người làng Tăng Xá, xã Tuy Lập,
huyện Cẩm Khê, Phú Thọ lượm được mang về.
Bà
Trần Kim Anh, vợ chính thức của ông Kiệt, và hai đứa con thơ, trúng bom, cùng
chết mất tích trên sông Sài Gòn (lưu ý rằng bà Kim Anh là con gái một địa chủ ở
miền Tây, không là Đảng viên, không nằm vùng, không tham gia vào bất kỳ hoạt
động nào của chồng, không có chính kiến chính trị). Võ Dũng con trai duy nhất
còn lại cùa ông Kiệt và bà Anh, đi tập kết nghe tin mẹ và em chết, quyết về Nam
để trả thù cho mẹ, chưa kịp trả thù, thì hy sinh khi đang bò qua hàng rào kẽm
gai trinh sát.
Cũng
khoảng thời gian đó, Phan Thanh Nam, vượt Trường sơn vào Nam tìm người cha
ruột.
Gia
đình ông Kiệt gần như xoá sổ. Bạn đọc nhận ra sự khốc liêt và tàn bạo của chiến
tranh. Cái giá phải trả của mỗi gia đình Việt Nam nói chung, và gia đình ông
Kiệt nói riêng là quá đắt. Chúng ta có quyền chất vấn ai đã đưa đẩy chúng ta
đến cảnh nồi da sáo thịt này. Có cần thiết một cuộc chiến huynh đệ tương tàn
như vậy hay không. Có con đường nào để thống nhất Việt Nam mà không cần đến
súng đạn hay không.
Người
đọc cũng bắt gặp cảnh các đồng chí đối xử với nhau rất nhẫn tâm qua hình ảnh bà
Trần Thị Đức Thịnh, vợ ông Bách. Khi ông Bách thất sủng, bà Thịnh bị đẩy ra vỉa
hè giữ xe gắn máy. Bà phải trùm khăn để không ai thấy mặt, đi rửa chén, áp tải
xe chở sắt qua đêm để lấy tiền nuôi chồng con. Trung ương đã quỵt tiền lương
của ông Bách. Cay đắng thay là ông Bách lại không biết, cứ tưởng vợ vẫn được
Đảng trọng dụng, và Trung ương vẫn trả lương cho mình.
Hy
Vọng
Quyền
Bính giống nhữ một cỗ máy CT scan. Nó chỉ cung cấp những lát cắt hình ảnh của khối
u trong cơ thể. Để nhận biết những hình ảnh này là tế bào dữ hay lành, tùy
thuộc vào kiến thức và kinh nghiệm người đọc. Tác giả Huy Đức đã không làm thay
cho chúng ta việc đó. Hình như đó là dụng ý. Anh không “định hướng” bạn đọc như
báo chí của Đảng đang làm.
Chữ
“Hết” ở trang cuối của Quyền Bính đã hiện ra, nhưng tôi vẫn không tin vào mắt
mình. Cảm ơn Huy Đức đã cho chúng ta một cơ hội ôn lại và suy ngẫm về những
biến cố đã xảy ra trong đời mình. Cảm ơn anh về sự lao động nghiêm túc, kiên
cường và công phu. Anh là người mở đường cho sự thực trở về, bất chấp sự che
đậy, ngụy tạo của những người nắm quyền bính.
Nhà
báo lão thành Bùi Tín nói Bên Thắng Cuộc đã đưa ra 1/3 sự thực. Nếu vậy, Việt
Nam cần thêm hai người như Huy Đức nữa, thì sự thực sẽ được trả về đúng vị trí
của nó. Chúng ta có quyền hy vọng.
19
tháng Giêng 2013
©
Trần Hồng Tâm
©
Đàn Chim Việt
No comments:
Post a Comment