Hoàng Lại Giang *
Posted by basamvietnam on 07/01/2013
Dấu ấn của những cuộc “Bạo lực cánh mạng”
Nếu phải chọn một trong hai hình thái trên,
tôi chọn ”DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH “. Bởi “Bạo lực cách mạng“ là bước đường cùng để
nhân dân bằng “sức mạnh cứng” của mình đập tan một thể chế chính trị tàn bạo,
tham nhũng, một thể chế đối lập với nhân dân về mọi phương diện, trong thể chế
ấy mọi quyền của dân đều bị tước đoạt và kẻ cầm quyền lộng hành … đẩy dân vào
con đường cùng. Tức nước vỡ bờ, trên thực tế đây là sự đối đầu một sống một
chết giữa nhân dân – kẻ bị trị và bên kia là kẻ cầm quyền – kẻ thống trị nắm
giữ mọi quyền lực. Với tôi dù bên nào thắng thì vẫn gây ra những tấn thảm kịch
cho nhân dân, dẫn đất nước vào chỗ suy vong.
Nhưng nói thế không có nghĩa là tôi vô cảm
với những cuộc “BẠO LỰC CÁCH MẠNG“ của nhân dân 13 xứ thuộc địa Anh cùng đứng
dậy giành lại nền độc lập từ tay thực dân Anh và từ đó xây nên bản Hiến pháp
Hoa Kỳ năm 1791 ,trong đó có 10 tu chính án như đóng đinh vào lịch sử tiến hoá
của nhân loại về quyền của con người và quyền của kẻ cai trị, trong đó dân có
quyền “Tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự do tôn giáo …” Và cuộc “Bạo lực
cách mạng” Pháp năm 1789-1799. Tuyên ngôn nhân quyền từ cuộc “Bạo lực cách
mạng” này cho tới hôm nay vẫn là điểm son mà loài người tiến bộ nhớ ơn:
“…Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn được tự do và
bình đẳng về quyền lợi”. “Nguyên tắc chủ yếu đặt ở chủ quyền Quốc gia.
Không một tổ chức, không một cá nhân nào có thể sử dụng quyền hành mà không
xuất phát từ nguyên tắc đó”.
Chính những cuộc “Bạo lực cách mạng” trên
đã tước đi những quyền mang tính tuyệt đối của các nhà cầm quyền độc tài, toàn
trị, sa đoạ, và buộc họ phải coi dân làm trọng.
Cách mạng tháng Mười năm 1917 là “Bạo lực cách mạng” lật đổ chế độ Sa Hoàng bằng sức mạnh cứng của nhân dân và quân đội. Nhưng cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 của ta lại là cuộc “Diễn biến hoà bình”. Con đường thành công của cách mạng tháng Tám là cuộc tuyên truyền, vận động nhân dân…và chờ thời cơ chín muồi, chuyển hoá một chính thể thực dân – phong kiến sang chính thể dân chủ cộng hoà. Xét trên phương diện rộng, thì đây chính là chọn lựa của cụ Phan Chu Trinh: Khai dân trí, Chấn dân khí, Hậu dân sinh.
Lịch sử những cuộc chuyển hoá quyền lực
“Diễn biến hoà bình” thực chất là sự chuyển
hoá tư duy. Từ tư duy cũ theo truyền thống, vận động sang tư duy mới tiến bộ
hơn, hợp xu thế thời đại và hợp lòng dân hơn. Rất tiếc loài người đang ở giữa
thập niên 20 của thế kỷ 21 mà một vài quốc gia như Việt Nam lại không muốn thay
đổi tư duy, thậm chí muốn quay lại tư duy truyền thống theo kiểu phong kiến,
nghĩa là ai giành được nước thì sẽ giữ độc quyền cai trị dân hết thế hệ này
sang thế hệ khác. Nếu trước đây theo kiểu cha truyền con nối thì ngày nay theo
nhóm lợi ích có tôn chỉ mục đích đậm nét hình thức. Trên thực tế chính sách mị
dân thuở ban sơ ấy đã mất lòng tin trong dân từ lâu lắm rồi. Quyền lực từ xưa tới
nay bao giờ cũng có sức mê hoặc rất lớn, có sức hút đáng sợ, ngay cả những
chính khách hay nhà văn hoá lớn cũng không dễ rứt ra được; và nếu quyền lực rơi
vào tay những kẻ chủ yếu lao động bằng cơ bắp, mang “thành phần cơ bản”, thì
quyền lực là mối nguy hiểm cho cả dân tộc! Và vì vậy họ rất sợ “Diễn biến hoà
bình”. Những lý giải sai lệch “Diễn biến hoà bình” của họ hoàn toàn dựa theo
cảm tính chủ quan, thiếu cơ sở khoa học và thực tiễn lịch sử. Hãy đọc lại lịch
sử nước nhà để thấy “Diễn biến hoà bình” là tất yếu của sự tiến hoá loài người,
không có gì phải lo sợ.
Lịch sử Đại Việt còn ghi rõ ở triều Đinh,
Đinh Tuệ lên ngôi lúc 6 tuổi. Vào lúc quân Tống chuẩn bị xâm chiếm nước ta, cả
triều thần tôn Lê Hoàn lên ngôi. Thái hậu họ Dương, vượt qua lệ ước dòng họ, đã
đứng về phía Lê Hoàn, chấp nhận phế đế, chung lòng chống kẻ thù tuyền kiếp của
Đại Việt. Cuộc phế lập trong ôn hoà của Dương Thái hậu và đình thần triều Đinh
đã xoay chuyển tình thế, làm chỗ dựa cho cuộc chống Tống kết quả và đưa nhà
tiền Lê vào lịch sử như một vương triều có công chống xâm lược của Đại Việt.
Cuối nhà tiền Lê, bắt đầu bằng cuộc tranh
giành ngôi vương và sự bạo ngược của Lê Long Đỉnh …Triều thần tiền Lê đã sáng
suốt tôn Lý Công Uẩn lên ngôi. Tất nhiên công đầu thuộc về nhà sư Vạn Hạnh.
Không ngờ đây lại là một triều đại có tầm nhìn của trăm năm, nghìn năm, cấp
tiến, để lại cho hậu thế những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể sáng giá
cho đến tận hôm nay. Văn hoá đời Lý là văn hoá từ bi hỷ xả của Phật giáo. Nhớ
lại cuối thời tiền Lê, xã hội Đại Việt lấy quyền lực làm quốc sách, anh em
tranh giành nhau quyền lực, giết hại nhau vì quyền lực, tàn bạo, sa đọạ, dâm
đãng … mới thấy Lý Thái tổ tôn vinh Phật giáo, lấy tư tưởng nhà Phật làm tư
tưởng chính thống của Đại Việt là có lý do của Ngài. Con người ấy, tư tưởng ấy,
tầm nhìn ấy đã không do dự dời đô về La Thành – Đại La và sau đổi thành Thăng
Long. Về chính trị, ngoại giao,… Lý Thái Tổ đã tự mình làm gương, bắt các thái
tử phải cầm quân ra trận. Dư âm của các sứ quân, rồi Chiêm Thành, Chân Lạp đều
lo sợ không còn đất sống, phải triều cống Đại Việt để “bảo toàn đất nước và
sinh mạng nhân dân”. Đại Việt bước vào thời kỳ nước yên, biển lặng, giặc Tống
cũng nể sợ, muốn mà không dám gây hấn.
Vua tôi đồng lòng, đấy là thời kỳ giữa vua
và dân ít có khoảng cách nhất. Suy đi ngẫm lại, phế và lập theo con đường “Diễn
biến hoà bình” là cần thiết cho một xã hội tàn bạo, hủ bại, tham nhũng, hách
dịch, chuyên quyền chuyển hoá bằng con đường hoà bình sang một xã hội tiến bộ
hơn, tốt đẹp hơn, nhân ái và hợp lòng dân hơn mà ít tốn xương máu, thì ai lại
nỡ lên án, thậm chí căm thù, dùng quyền lực mà triệt tiêu.
“Quân sư” cho “diễn biến hoà bình” ở Việt
Nam là Trần Thủ Độ. Nếu không có sự tận diệt con cháu nhà Lý cho chắc vương
triều Trần vô cùng dã man thì đây là cuộc chuyển giao quyền lực đẹp nhất từ
vương triều Lý đang suy vong sang vương triều Trần đầy sinh lực. Lịch sử không
có “giá như”, nếu cho phép “giá như” thì tôi “giá như” không có cuộc phế lập
bằng con đường “Diễn biến hoà bình” này, thì Đại Việt ta chắc khó bề đương nổi
với đế quốc Nguyên Mông hùng mạnh đang tung vó ngựa từ Đông sang Tây. Chính
trong cái hoạ binh đao Nguyên Mông thế kỷ 13, dân tộc ta xuất hiện nhiều danh
tướng và hiền tài cho tới hôm nay vẫn còn là những vì sao chói sáng trên bầu trời
nhân loại.
Thật là một thiếu sót, nếu lịch sử quên
cuộc phế – lập, “Diễn biến hoà bình” triều đại Lê Thánh Tông. Triều Lê Nhân
tông tưởng suy bởi sự tranh giành quyền lực, các nhóm triều thần gian xảo làm
những cuộc đảo chính, lập thái tử Nghi Dân lên ngôi. Nhưng chỉ 6 tháng sau,
cuộc “Diễn biến hoà bình”của các đại thần còn chút lòng yêu nước thương nòi đã
lập Tư Thành lên ngôi, hiệu là Lê Thánh tông. Khác với các vua trước cùng thời,
Lê Thánh Tông tỏ rõ bản lĩnh và đức độ của một đấng anh quân, đã khai sáng
triều đại mình.
Cho đến hôm nay, là người Việt, dù có đi
bốn phương trời, nhưng không ai không tự hào về đất nước nghìn năm văn hiến của
mình. Nhưng cái gốc của nghìn năm văn hiến khởi nguồn từ đâu? Tôi nghĩ có thể
nó bắt đầu từ đời Lý với việc định đô ra Thăng Long của Lý Thái tổ, với việc
lập Văn Miếu của Lý Thánh Tông… Nét Văn hoá từ bi hỷ xả sâu đậm nhất ở thời kỳ
này.
Văn hiến thời Trần là Hội nghị Diên Hồng,
tìm sự đồng lòng trong công cuộc chống kẻ thù mạnh hơn ta trăm lần, nghìn lần,
là “Sát thát!” với kẻ thù, là văn hoá độ lượng dung tha, gác lại quá khứ hướng
về tương lai của các vua Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông sau khi thắng trận.
Một nét văn hoá đậm tính nhân văn của cha ông một thời cực đẹp vậy mà ở thời
hiện đại nhiều nhà lãnh đạo của chính thể mới lại e dè, lo ngại và hướng về tư
tưởng bảo vệ vương triều hơn là tư tưởng nhân văn thời Trần. Điều đó tạo nên sự
hận thù của người trong một nước, chứ không hề nghĩ về Hội nghị Diên Hồng, nghĩ
về hai chữ “Sát thát!”, về khoan dung. Nói cách khác, ý thức hệ đã đẩy chủ
nghĩa nhân văn ra khỏi tầm với của nền văn hiến có tự ngàn xưa! Mối nguy hiểm
mà cha ông thời nào cũng cảnh giác là đưa đất nước xích lại gần hơn với kẻ thù
và đẩy nhân dân ra khỏi tầm của Hội nghị Diên Hồng.
Nhưng nét văn hiến nghìn năm đậm nét nhất
là ở văn hoá đời Lê với tư tưởng nhân văn của Nguyễn Trãi, tư tưởng “Tâm công
sách” của nhà văn hoá kiệt xuất này. Sau Nguyễn Trãi là Lê Thánh tông. Đây là
một vị vua để lại sau mình nhiều giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể lớn nhất
trong các triều đại. Ngoài việc “định phép thi hương, sửa phép thi hội”
nhằm chọn hiền tài cho đất nước, danh xưng tiến sĩ bắt đầu từ triều đại này.
Trong văn bia đời Lê Thánh Tông, tiến sĩ Thân Nhân Trung để lại cho hậu thế
những câu bất hủ: “… Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì
thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì
thế các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài,
kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết.” Với
24 điều dạy của vua Lê Thánh Tông, chúng ta cảm nhận được giá trị của một nền
văn hoá cốt lõi của Việt Nam hôm nay: nền văn hoá lấy dân làm trọng, quan lại
là nô bộc của dân, ý dân là ý Trời. Và cũng bắt đầu từ vua Lê Thánh Tông, cương
vực lãnh thổ, trên bộ, trên biển đảo được các quan sở tại trình báo chi tiết từ
nơi mình ở có núi, sông, hồ, biển đảo, … lên triều đình để lập địa đồ cho nước
được chính xác. Ngài còn căn dặn các tướng sĩ:
“Ta phải gìn giữ cho cẩn thận đừng để cho ai lấy một phân núi, một tấc sông của vua Thái Rổ để lại .”
Trần Trọng Kim viết trong “Việt Nam sử
lược”: “… Xem những công việc của vua Thánh Tông thì ngài thật là một đấng
anh quân. Những sự văn trị và võ công ở nước Nam ta không có đời nào thịnh hơn
thời Hồng Đức. Nhờ có vua Thái Tổ thì giang sơn nước Nam mới còn, và nhờ có vua
Thánh Tông thì văn hoá nước ta mới thịnh.”
“Diễn biến hoà bình” không phải như những
gì người ta gán ghép
Lật lại lịch sử phát triển Việt Nam ta thì
“Bạo lực cách mạng” thường xảy ra khi cần lật đổ ách đô hộ của kẻ thù dân tộc,
còn hầu hết những chuyển hoá các triều đại đều là từ việc phế – lập mà ngày nay
gọi là “Diễn biến hoà bình”. Đấy cũng là sự vận động khách quan của quy luật.
Không hiểu từ cơ sở nào mà có người lại định nghĩa: “’Diễn biến hoà bình’ là
một trong những chiến lược có ý nghĩa và phạm vi toàn cầu của chủ nghĩa đế quốc
và các thế lực phản động, được hình thành từ những năm cuối thập kỷ 40 đầu thập
kỷ 50, hoàn chỉnh ở thập kỷ 80 của thế kỷ 20, nhằm chống các nước XHCN, phong
trào độc lập dân tộc và phong trào tiến bộ trên thế giới…” (Báo điện tử của
Đảng CSVN).
Quả thật tôi chưa bao giờ dám nghĩ có một
Thánh nhân nào đó lại có thể lật đổ được CNXH ở Đông Âu và Liên Xô. Bởi lẽ các
chế độ này qua một bộ máy tuyên truyền lớn nhất trong mọi thời đại đã bám rễ
sâu từ trung ương đến tận hang cùng ngõ hẻm các làng xã trên 50 năm ở các nước
Đông Âu và 70 năm ở Nga. Hơn một lần tôi nói trên mạng Internet rằng sự sụp đổ
ấy bắt nguồn từ ý chí chủ quan của nhiều nhà lãnh đạo các nước XHCN. Chính họ
đã bất chấp quy luật tiến hoá của lịch sử phát triển loài người. Sau trên 2
thập kỷ, tôi chưa thấy Đảng cộng sản ở Liên Xô và Đông Âu trở lại nắm quyền
lãnh đạo ở nước họ – mặc dù chế độ mới ở các nước ấy không cấm Đảng cộng sản
hoạt động. Vì vậy, một Khrutsov, một Gorbachev không thể có sức mạnh siêu phàm
nào để giữ cái chính quyền ra đời từ ý chí luận của các bậc tiền nhiệm! Nói
cách khác, Khrutsov nhận ra tính không tưởng của thể chế mà họ đang dắt nhân
dân Nga đi, nhưng đến Gorbachev nhận ra sự bất đồng quyết kiệt của nhân dân Nga
với chính quyền mà ông là đại diện, và sự chuyển biến của ông nằm trong cái thế
tất yếu của lịch sử.
Những cuộc “Diễn biến hoà bình” gần đây
nhất là những cuộc cách mạng mang tên hoa nhài ở các nước Bắc Phi. Những cuộc
xuống đường của nhân dân đã buộc những nhà lãnh đạo cao nhất, từng có thâm niên
trị vì nước họ, phải từ chức, hoặc phế bỏ. Ai cưỡng lại sức mạnh của nhân dân,
người đó hãy noi gương Gaddafi ở chiếc cống ngầm!
Nhưng tôi lại thiện cảm với đất nước Miến
Điện. 40 năm trong chế độ quân phiệt, nhưng dân tộc này lại “Diễn biến hoà
bình” theo đúng nghĩa của cụm từ trên để lột xác thành một nước tự do, dân chủ
và nhân quyền đích thực, những nhà chính trị khác chính kiến đã được tự do ra
khỏi trại giam và tiếp tục hoạt động trở lại. Người tù nhân tiêu biểu là bà Suu
Kyi. Báo chí và xuất bản đã được tháo “vòng kim cô” định hướng, khống chế và
kiểm duyệt. Dân được quyền ra báo và xuất bản, lập hội, biểu tình, … như những
gì mà Nguyễn Ái Quốc đòi thực dân Pháp phải trao cho nhân dân VN từ đầu những
năm 20 của thế kỷ trước. Vậy mà hôm nay Quốc hội VN vẫn chưa thông qua được
luật xuất bản trong đó tư nhân được lập nhà xuất bản. Còn Miến Điện thì …coi đó
là chuyện tất yếu để trở thành một nước dân chủ.
Công lao vĩ đại này trước tiên thuộc về
tổng thống Thein Sein.
Lịch sử các triều đại chứng minh, những kẻ
nắm quyền lực, thường có xu hướng giữ chặt quyền lực, tăng thêm uy quyền để dễ
trị vì dân chúng, và vì vậy trường hợp vị tổng thống đương nhiệm Thein Sein là
một ngoại lệ. Hành động của tổng thống Thein Sein chắc chắn được nhân dân thế
giới tôn vinh như là bậc vĩ nhân của thời hiện đại, dám chia xẻ quyền lực, đúng
hơn là trao lại quyền lực về tay nhân dân, làm một tấm gương cho không ít nhà
lãnh đạo một số nước đang còn mê muội bởi quyền lực, coi nhân dân như những tù
nhân của chính mình dưới lớp vỏ hào nhoáng: Chính quyền của dân, do dân, vì
dân!
Việt Nam thời hiện đại vẫn còn đó những tấm
gương trung dũng kiên cường, học rộng tài cao chí lớn …mưu lược một thời. Ở đây
tôi xin nhắc đến Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Ái Quốc. Cả ba nhà chí
sĩ này theo 3 con đường cứu nước khác nhau. Phan Bội Châu thì nhờ đồng lân,
đồng chủng là Nhật Bản giúp ta chống Tây. Phan Chu Trinh theo con đường “thức
tỉnh nhân tâm, hợp quần, hợp xã, khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, ai
nấy thấy rõ ngọn nguồn, đồng tâm hiệp lực đạp đổ cường quyền …” (Thư của
Phan Chu Trinh gởi Nguyễn Ái Quốc ở Marseille 18-12-1922). Còn Nguyễn Ái Quốc
thì theo Quốc tế 3. Ở đây tôi không đề cập đến nội dung của hai con đường cứu
nước(giữa PCT và NAQ) mà tôi chỉ nói tới phương pháp cách mạng không đồng nhất
giữa hai người, cũng trong thư PCT gởi NAQ: “…từ thời xưa tới nay, từ Á sang
Âu chưa có một người nào làm cái việc như anh (NAQ), anh lấy cái lẽ ở nước mình
lưới giăng tứ bề, mà về nước ắt là sa cơ, gia dĩ dân tình sĩ khí cơ hồ tan tác,
bởi cái chính sách cường quyền nên sự hấp thụ lí thuyết kém cỏi, bởi thế mà anh
cứ khư khư cái phương pháp “ngoạ ngoại chiêu hiền đãi thời đột nội”.
Nhưng cuối cùng Nguyễn Ái Quốc đã thành
công. Cuộc Cách mạng tháng Tám dựng lên nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà,
cùng với Tuyên ngôn độc lập, Bản hiến pháp năm 1946 … là sự tích luỹ bao kinh
nghiệm, bài học, thành quả của nhân loại tiến bộ cho tới thời ấy mà Nguyễn Ái Quốc
có được.
Con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc là
tấn công chính quốc ngay trên chính quốc. Và khi có điều kiện thì về nước. Cuộc
“Diễn biến hoà bình” cách mạng tháng Tám năm 1945 đã được Nguyễn Ái Quốc chuẩn
bị và mai phục từ những năm 20 của thế kỷ 20. Rất tiếc sau đó cuộc “Diễn biến
hoà bình” lại trở thành “Bạo lực cách mạng” do nhiều nguyên nhân chủ quan và
khách quan, mà hôm nay chưa dễ có sự đồng thuận của nhiều nhà lịch sử, nhà khoa
học, học giả trong và ngoài nước. Nhưng nhìn vào thực tế thì ai cũng thấy Quốc tế 3
thất bại và Quốc tế 2
thành công ít nhất là ở các nước Tây Âu. Lãnh tụ của Quốc tế 2 là Enghen. Những
năm cuối đời, Enghen nhìn thấy sai lầm của chủ nghĩa L.A. Blanqui (lãnh đạo
thuộc phái bạo lực trong Quốc tế 1):
Dựa vào bạo lực cách mạng là có thể tạo ra một xã hội không có áp bức và bóc
lột! “…Tuy nhiên, đừng tưởng đó là toàn bộ nền chuyên chính của toàn bộ giai
cấp cách mạng tức là giai cấp vô sản, mà là chuyên chính của số ít người …số
người này lại phục tùng chuyên chính của một hoặc vài người” (Toàn tập
Marx-Enghen, cuốn 18, tr 580-581 bản Hoa văn). Thời hiện đại TBT Ziuganov cho
rằng: “Nguyên nhân cơ bản khiến Liên Xô và Đảng cộng sản sụp đổ là sự lũng
đoạn đối với tài sản, quyền lực và chân lý”. Ở đây không có kẻ thù địch và
“Diễn biến hoà bình” nào cả!
Cái giá của “Bạo lực cách mạng” và nền văn
hiến Đai Việt thời hiện đại
Tôi nghĩ giá như – lại giá như – chúng ta
đứng trên nền tảng của chủ nghĩa dân tộc như hầu hết các nước ở Đông Nam Á thì
biết đâu chúng ta tránh được cuộc “Bạo lực cách mạng” kéo dài suốt 30 năm cùng
với những cuộc cách mạng gọi là “dân chủ” gây ra cho dân tộc chúng ta bao nhiêu
cảnh nồi da xáo thịt, hàng bao nhiêu triệu gia đình tan nát, mẹ mất con, vợ mất
chồng, anh mất em, những cuộc ly tán mất nhà mất cửa mất cả quê hương. Một thứ
văn hoá phi văn hoá làm đảo lộn văn hoá trong sáng của người Việt được giữ gìn
trong trường kỳ lịch sử, qua các cuộc giảm tô, cải cách ruộng đất, cải tao tư
sản. Con người Việt thời cách mạng nhìn đâu cũng thấy kẻ thù … Con tố cha, vợ
tố chồng, anh tố em. Cho đến tận hôm nay kẻ thù lại mai danh ẩn tích trong
“Diễn biến hoà bình”, còn chính kẻ thù đã và đang cướp biển đảo của ta thì gọi
là đồng chí vàng, bạc! Thế hệ chúng tôi lớn lên trong cách mạng, số còn sống
hôm nay vẫn không hiểu đây là thứ văn hoá gì? Cho đến hôm nay tôi vẫn nhớ như
in lời dạy của vua Trần Nhân tông lúc tôi còn là sinh viên: “Các người chớ
quên ,chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo. Vì rằng họ cho mình
cái quyền nói một đường làm một nẻo. Cho nên cái họạ lâu đời của ta là họạ
Trung Hoa…”(Di chúc của Trần Nhân tông).
Cốt lõi của một dân tộc là văn hoá chứ
không phải là đất rộng hay hẹp, nhiều tài nguyên hay ít tài nguyên, không phải
người đông hay thưa. Tất cả chỉ là chất xúc tác để tạo ra bản sắc văn hoá của
một dân tộc. Bản sắc văn hoá ấy nông hay sâu, dày hay mỏng, rộng hay hẹp, đa
tầng hay ít tầng… sẽ quyết định tâm thức của dân tộc ấy. Tâm thức văn hoá quyết
định sức mạnh của một dân tộc, quyết định cả sự tồn vong của dân tộc.
Chúng ta tự hào nghìn năm văn hiến là dựa
trên cái cốt lõi của một nền văn hoá được vun xới, bồi đắp qua hàng nghìn năm
dựng nước và mở cõi của tiền nhân, tạo thành nhân cách của một dân tộc. Nhân
cách ấy là bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy là khác giống nhưng chung
một dàn, là lá lành đùm lá rách, là anh em như thể tay chân,
là người trong một nước phải thương nhau cùng – trong ca dao, tục ngữ.
Là lấy nhân nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo, là việc
nhân nghĩa cốt ở yên dân – Nguyễn Trãi. Là quyền biến, lúc bình thì
khoan sức cho dân để làm kế sâu rễ bền gốc – Trần Hưng Đạo.
Giá trị của văn hoá là giá trị tiềm ẩn,
mang đậm dấu ấn riêng của một dân tộc. Theo UNESCO thì “Văn hoá là hệ thống
tổng thể những giá trị biểu trưng quy định cách ứng xử, thái độ giao tiếp của
một cộng đồng và làm cho cộng đồng đó có đặc thù riêng”.
Tóm lại “Diễn biến hoà bình” xuất hiện tự
thời cổ đại thường được gọi là phế – lập, khi xã hội loài người có vương quyền
(có kẻ cai trị và người bị trị). Nó là sự vận động khách quan của các mối quan
hệ giữa người và người, giữa kẻ thống trị và người bị trị, hoàn toàn không phải
là khái niệm của “kẻ thù gần đây”. Sự vận động ấy hướng tới một định chế hợp xu
thế thời đại, hợp lòng dân hơn và vì vậy nó là sản phẩm của sự tiến bộ. Nó đồng
thời cũng cảnh cáo mọi sự bảo thủ, hám quyền và chuyên quyền! Bước tiếp theo
của chuyên quyền là độc quyền. Từ độc quyền đến độc đoán, độc tài, quân phiệt,
… là một bước ngắn. Một học giả phương Tây đã khái quát những xã hội chuyên chế
rằng: “Một đất nước kỳ lạ khi nó nhìn mọi sự thay đổi như một sự tấn công,
mỗi biến chuyển như là một sự giật lùi và mọi sự thích nghi như những cuộc đầu
hàng” (theo báo Gilles Delafon trích trong cuốn Hello Earth).
Không một nhân dân nào chấp nhận sự chuyên chế và độc tài. Chuyên chế và độc tài là kẻ thù của nền dân chủ. Phan Bội Châu đã từng nói: “Không có dân thì đất đai không thể còn ,chủ quyền không thể lập ;nhân dân còn thì nước còn. Nhân dân mất thì nước mất. Muốn xem nhân dân còn mất thế nào thì nhìn xem cái quyền của người dân còn mất thế nào?”
Không một nhân dân nào chấp nhận sự chuyên chế và độc tài. Chuyên chế và độc tài là kẻ thù của nền dân chủ. Phan Bội Châu đã từng nói: “Không có dân thì đất đai không thể còn ,chủ quyền không thể lập ;nhân dân còn thì nước còn. Nhân dân mất thì nước mất. Muốn xem nhân dân còn mất thế nào thì nhìn xem cái quyền của người dân còn mất thế nào?”
Bình tâm nhìn lại, hôm nay người dân còn
được quyền gì? Nhân dân có trăm tai nghìn mắt, không nhà cầm quyền nào đánh
tráo được giữa sự bạo ngược và lòng nhân ái. Hồ Chí Minh đã từng lo sợ về một
nhà nước mà ông là người sáng lập, đất nước ấy, dân chủ là kẻ thù của nền
chuyên chính vô sản: “Các chú diễn giải hai tiếng dân chủ sao mà rắc rối,
dài dòng thế?Dân chủ thực ra có nghĩa là: Để cho dân được mở miệng. Dân chủ là
đừng bịt miệng dân.” Đúng, trong trường hợp này Hồ Chí Minh là một thiên
tài. Ông tiên đoán chính xác sự bất bình thường của “đứa con” mà mình “mang
nặng đẻ đau”.
Và vì vậy hôm nay nếu có “Diễn biến hoà bình”
thì đấy chính là sự chuyển hoá một cách ôn hoà trạng thái vô tổ chức, trên nói
dưới không nghe, tình trạng cát cứ có dấu hiệu phục hồi, tham nhũng, mua quan
bán chức,… từ hiện tượng đang trở thành bản chất của chế độ, lòng tin của dân
với đảng cầm quyền suy giảm đến mức báo động, thì sự chuyển biến ấy chính là
đại phúc cho nhân dân, chứ có gì mà phải … sợ? Và dẫu anh có sợ cũng không
được. Hãy gia cố con đê trước khi nước tràn! Khi nước đã tràn thì có Thánh cũng
chịu!
Ổn định và trì trệ
Cái dễ của nhà cầm quyền là vui vẻ, là hài
lòng trước quyền lực của mình ngày hôm nay, và mong xã hội ổn định mãi như ngày
hôm nay để tiếp tục giữ quyền lực.
Cái khó của nhà cầm quyền là dám nghe những
phản biện và tự vượt lên chính mình ngày hôm nay để theo kịp sự chuyển hoá
khách quan của xã hội – sự chuyển hoá cần thiết cho sự tồn tại và phát triển
đất nước trong đó có mình và dòng họ mình. Điều ấy lý giải vì sao ngay cả thời
phong kiến nhà vua vẫn phải chấp nhận “Giám sát ngự sử” bên cạnh mình. Thực tế
chứng minh vương triều nào can đảm lắng nghe lời can gián, những lời “nghịch
nhĩ” điều chỉnh phương pháp trị dân của mình thì xã hội lành mạnh hơn. Đấy mới
là sự ổn định thực thông qua “Diễn biến hoà bình” chính tư duy của mình. Không
ít nhà lãnh đạo chủ chốt của cách mạng Việt Nam chưa nhận thức đúng học thuyết
Marx về ổn định đồng nghĩa với trì trệ. “Thực chất cách mạng của phép biện
chứng duy vật không dung hoà với bất cứ sự trì trệ và bất động nào, làm cho
phép duy vật trở thành công cụ cải tạo thực tiễn xã hội, giúp tính toán một
cách khách quan tới những yêu cầu lịch sử của sự phát trển xã hội, tình trạng
những hình thức cũ không phù hợp với nội dung mới, sự cần thiết phải chuyển đến
những hình thức cao thúc đẩy sự tiến bộ của loài người…” (Từ điển triết học
– nxb VH TT 2002, tr 84).
Hãy nhìn sự ổn định của xã hội VN và các
nước theo chúng ta là không ổn định như Thái Lan, Nhật Bản,… thì ai cũng dễ
đồng tình xã hội của họ vẫn phát triển vượt xa chúng ta nhiều, nhiều lắm.
Chúng ta đánh đổ phong kiến, chúng ta đánh
đổ thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đâu phải để xây dựng một xã hội ổn định theo
kiểu không có phản biện hay phản biện giả. ( Phản biện giả là phản biện có sự
lãnh đạo của đảng cầm quyền.) Có ai đó chê Hoàng đế Quang Trung là độc tài quân
phiệt, nhưng tôi chưa thấy tài liệu nào nói Ông bắt giam, bỏ tù một ai mắc tội
vu khoát. (Trong Chiếu cầu lời nói thẳng Quang Trung mong nhận được những lời
nói thẳng, nói thực, không bắt tội vu khoát một ai).
Vậy mà hôm nay chính tôi lại nhìn thấy bao
nhiêu người yêu nước bị bắt, bị giam cầm chỉ vì yêu nước mà không chịu yêu
CNXH, chỉ vì có chính kiến khác với chính thống. Trong thực tế Marx chưa bao
giờ đồng nhất yêu nước và yêu CNXH! Và với CNCS, Marx cũng chỉ dám dự đoán
thôi.
Những nhà lãnh đạo hôm nay nên dũng cảm
nhìn thẳng vào thực tế để thấy phong kiến và đế quốc thối nát thực, nhưng chúng
nó vẫn cho những người yêu nước, những người cộng sản ra báo tư nhân, lập nhà
xuất bản tư nhân, dân được lập hội và biểu tình phản đối chúng nó. Năm 1925
Phan Chu Trinh từ Pháp về Sài Gòn, và sau đó không lâu ông tổ chức diễn thuyết
lên án chính quyền. Năm 1925 cụ Phan có ít nhất 2 lần diễn thuyết ở Sài Gòn. Và
ngày 26 tháng 3 năm 1926, khi ông qua đời, gần một nửa dân Sài Gòn đi dự đám
tang nhà yêu nước Phan Chu Trinh mà không ai bị bắt bớ, tù đày. 96 năm sau ngày
cụ Phan ra đi vĩnh viễn, bác sĩ Huỳnh Tấn Mẫm giữa thềm nhà hát Lớn Sài Gòn lên
án Trung Quốc xâm chiếm biển đảo thuộc chủ quyền VN thì bị công an xua đuổi
cùng nhiều trí thức tên tuổi như nguyên Viện trưởng Viện xã hội học Tương Lai,
kiến trúc sư Trọng Huấn. Hai thể chế đối lập ấy, người dân thường cũng biết đối
chiếu so sánh dễ dàng huống chi là những trí thức tầm cỡ như GS Hoàng Tuỵ, nhà
nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, GS Phan Đình Diệu, GS Ngô Bảo Châu, nhà văn Nguyên
Ngọc, GS Nguyễn Huệ Chi, GS Tương Lai, BS Huỳnh Tấn Mẫm, … để từ đấy lãnh đạo
nhà nước hôm nay nên coi “Diễn biến hoà bình” hoàn toàn không phải là kẻ thù
địch nào cả mà sự trì trệ trong chính những nhà lãnh đạo của Đảng CS, là phương
sách chuyển hoá tư duy chính mình và chuyển đổi xã hội phù hợp quy luật khách
quan thì tự khắc lòng dân lại thuận.
Một thời chúng ta đã từng quy kết và dùng
nhục hình dã man với bao nhiêu người có công với cách mạng, những dân oan vô
tội, tôi mong những người nắm quyền lực hôm nay đừng đẩy những người yêu nước
vào cái gọi là bọn thù địch “Diễn biến hoà bình” mà rơi vào những sai lầm đã
khắc vào lịch sử trong quá khứ chưa xa những tội lỗi trời không dung đất không
tha!( cụm từ của Nguyễn Trãi).
Thay lời kết
Tôi muốn gởi những dòng cuối này đến anh
Nguyễn Phú Trọng, với tư cách là đồng môn – tôi học trước anh hai khoá. Tuy là
học một trường, nhưng tôi và anh có hai cách tiếp cận khác về CNXH. Tôi nghiêng
về CNXH dân chủ của Lassall, còn anh theo CNXH bạo lực của Lénin. Nhưng tôi
không nói chuyện đúng sai ở đây. Ở đây tôi chỉ mong với tư cách một người lãnh
đạo Đảng, anh cố gắng giữ cho xã hội dưới thời anh trên dưới đồng lòng, coi dân
làm trọng, xoá cách biệt giữa dân với Đảng, hết sức tránh dùng cường quyền và
bạo lực đối với những người yêu nước khác chính kiến. Muốn vậy chính anh và
những đồng chí của anh phải tự mình chuyển hoá tư duy hoặc là chấp nhận “Diễn
biến hoà bình” (Không phải Diễn biến hoà bình theo định nghĩa của báo Điện tử
ĐCS, mà theo truyền thống, hợp xu thế). Đấy là hai con đường ôn hoà nhất để xây
dựng một xã hội lành mạnh và hợp quy luật khách quan .
Tôi tin anh làm được bởi trước anh đã có
Trường Chinh một thời thiên tả, cứng nhắc, rồi đã tự phủ định mình hôm qua.
Thời ấy kinh tế thị trường là cụm từ cấm kỵ, đồng nghĩa với xét lại. Ai dính
vào cái “mũ” này thì coi như cuộc đời chấm dứt. Nói như thế để thấy vai trò vô
cùng quan trọng của cụ Trường Chinh. Tôi mong anh học tập cố TBT Trường Chinh
và mới đây là Thein Sein – người vừa được báo Straits Times Singapore tôn vinh
nhân vật của châu Á năm 2012.
Bạn bè chúng ta thời đại học nói với tôi
rằng kể từ khi anh lên chức TBT đã có hơn 50 người yêu nước bị làm khó dễ, bị
bắt, bị giam cầm vì nhiều lý do vu vơ. Xã hội hôm nay dưới quyền anh làm tôi
nhớ lại thời Nhân văn Giai phẩm ở trong nước thời hiện đại, và thời cổ đại
Trung Hoa tôi lại nhớ thời Tống Thần tông, Vương An Thạch làm tể tướng. Vương
là một người học rộng tài cao, một nhà thơ uyên thâm. Vậy mà dưới thời Vương An
Thạch kẻ sĩ bị bắt, bị đi đày nhiều nhất. Một thi nhân như Tô Đông Pha chỉ vì
không đồng chính kiến với Vương An Thạch mà gần suốt cuộc đời phải chịu đi đày,
có lúc đói quá phải “hớp nắng” để đỡ đói trên đảo Hải Nam. Trên cái nền này tôi
có viết cuốn “Thăng trầm Tô Đông Pha” (Nhà XB Văn nghệ TP HCM năm 2000) với hy
vọng những nhà lãnh đạo VN hôm nay lấy đó làm bài học. Nhưng dường như người ta
nghĩ nhiều về quyền lực và quyền lợi mà nhẹ về văn hoá – văn hoá đời Lê lấy chí
nhân thay cường bạo, văn hoá đời Trần lấy khoan dung làm trọng.
Tôi nay đã ngoài 70, không hề biết sợ chết,
chỉ sợ trước khi chết mà vẫn phải nhìn đất nước như thời Vương An Thạch!
Chắc anh thừa biết lịch sử không quên công
lao một ai và lịch sử cũng không bỏ sót tội lỗi một ai.
H.L.G.
–
* Các bài khác của Nhà văn Hoàng Lại Giang, trên trang Ba
Sàm:
Đôi lời gởi hai ông đại sứ TQ tại VN (25/1/2010)
BẢN CHẤT CỦA LỊCH SỬ (22/4/2010)
Kỷ niệm nghìn năm Thăng Long …Nhìn lại
(27/8/2010)
1003. Không có gì quý hơn lòng yêu nước (18/5/2012)
355. Trao đổi qua bài viết của Hoàng Lại Giang
(13/9/2011).
---------------------------------
Dân Việt Chán CS đã nói
Bác Hoàng Lại Giang có ảo tưởng không, khi có định đánh
thức lương tâm của một kẻ như Nguyễn Phú Trọng?
Một kẻ chẳng hé răng lên tiếng nửa lời trước sự kiện Đoàn Văn Vươn, bỏ ngoài tai dư luận cả nước (đã đăng tải trên hầu hết các báo nhà nước). Thật vô cảm, nếu so sánh với vụ án Đầm Nọc Nạn dưới thời thực dân phong kiến.
Một kẻ đã giữ đến ngôi Tổng Bí thư, mà dửng dưng trước hiểm họa Tàu cộng xâm lấn: “tình hình Biển Đông không có gì mới”!
Một người Pháp như Andre Menras còn biết lo lắng đau đáu cho ngư dân Việt bị bắt nạt, khủng bố ở Biển Đông. Một người dân nước Việt như Nguyễn Phú Trọng lại cứ “hảo hảo, tương đồng ý thức hệ”?
Khỏi phải giảng cho ngài tiến sĩ Mác – Lê Nguyễn Phú Trọng về dân chủ. Ngàu biết nó còn rõ hơn bác Hoàng Lại Giang chứ. Có điều, cái bả vinh hoa, quyền lực nó ám, nên Nguyễn Phú Trọng rất kiên định độc tài, độc đảng.
Trong số bạn học, có người nói Nguyễn Phú Trọng học giỏi văn. Tôi không tin. Văn học là nhân học. Người nhân văn bao giờ cũng căn ghét độc tài.
Cũng trong số bạn học, có người nói Nguyễn Phú Trọng là kẻ cực kỳ cơ hội. Tôi cho rằng người này nhận xét rất tinh tường. Bằng chứng thì bác Hoàng Lại Giang đã trưng ra trong bài viết: từ khi Nguyễn Phú Trọng nắm ngôi cao nhất, hơn 50 người dân chủ, yêu nước, chống TQ xâm lăng đã bị bắt bớ, giam cầm, tù đày, khủng bố.
Có lẽ bác Hoàng Lại Giang 2 lần ảo tưởng. Vì có lẽ Nguyễn Phú Trọng không biết lên mạng để đọc, và nếu biết cũng không có thời gian để đọc (suốt ngày họp hành, thăm viếng, phát biểu huấn thị lăng nhăng vô bổ). Bọn tay chân thư ký giúp việc thì cho kẹo cũng không dám thưa bẩn về bài của bác Giang (sợ bị cắt lưỡi). Bằng cách nào đó, nếu có đọc thì cũng chẳng hiểu bắc Giang nói gì, có khi lại nổi khùng cho an ninh tống ngục hoặc thủ tiêu luôn bác Giang.
Đời chó thế đấy, bác Giang ạ.
Dù sao cũng cảm ơn bác Giang. Bài viết cho Tổng Trọng nhưng khai sáng nhân dân. Để một ngày nào đó, chẳng “hòa bình” được thì đành “bạo lực” vậy thôi.
Kính bác Giang
Một kẻ chẳng hé răng lên tiếng nửa lời trước sự kiện Đoàn Văn Vươn, bỏ ngoài tai dư luận cả nước (đã đăng tải trên hầu hết các báo nhà nước). Thật vô cảm, nếu so sánh với vụ án Đầm Nọc Nạn dưới thời thực dân phong kiến.
Một kẻ đã giữ đến ngôi Tổng Bí thư, mà dửng dưng trước hiểm họa Tàu cộng xâm lấn: “tình hình Biển Đông không có gì mới”!
Một người Pháp như Andre Menras còn biết lo lắng đau đáu cho ngư dân Việt bị bắt nạt, khủng bố ở Biển Đông. Một người dân nước Việt như Nguyễn Phú Trọng lại cứ “hảo hảo, tương đồng ý thức hệ”?
Khỏi phải giảng cho ngài tiến sĩ Mác – Lê Nguyễn Phú Trọng về dân chủ. Ngàu biết nó còn rõ hơn bác Hoàng Lại Giang chứ. Có điều, cái bả vinh hoa, quyền lực nó ám, nên Nguyễn Phú Trọng rất kiên định độc tài, độc đảng.
Trong số bạn học, có người nói Nguyễn Phú Trọng học giỏi văn. Tôi không tin. Văn học là nhân học. Người nhân văn bao giờ cũng căn ghét độc tài.
Cũng trong số bạn học, có người nói Nguyễn Phú Trọng là kẻ cực kỳ cơ hội. Tôi cho rằng người này nhận xét rất tinh tường. Bằng chứng thì bác Hoàng Lại Giang đã trưng ra trong bài viết: từ khi Nguyễn Phú Trọng nắm ngôi cao nhất, hơn 50 người dân chủ, yêu nước, chống TQ xâm lăng đã bị bắt bớ, giam cầm, tù đày, khủng bố.
Có lẽ bác Hoàng Lại Giang 2 lần ảo tưởng. Vì có lẽ Nguyễn Phú Trọng không biết lên mạng để đọc, và nếu biết cũng không có thời gian để đọc (suốt ngày họp hành, thăm viếng, phát biểu huấn thị lăng nhăng vô bổ). Bọn tay chân thư ký giúp việc thì cho kẹo cũng không dám thưa bẩn về bài của bác Giang (sợ bị cắt lưỡi). Bằng cách nào đó, nếu có đọc thì cũng chẳng hiểu bắc Giang nói gì, có khi lại nổi khùng cho an ninh tống ngục hoặc thủ tiêu luôn bác Giang.
Đời chó thế đấy, bác Giang ạ.
Dù sao cũng cảm ơn bác Giang. Bài viết cho Tổng Trọng nhưng khai sáng nhân dân. Để một ngày nào đó, chẳng “hòa bình” được thì đành “bạo lực” vậy thôi.
Kính bác Giang
No comments:
Post a Comment