James
Webb
Bài
viết gốc: Sleeping With theEnemy
Nguồn
của bài dịch: Chăn gối với kẻ thù
Thứ
năm, ngày 22 tháng mười hai năm 2011
Xin
cảm ơn người dịch bài này và cảm ơn tác giả bài viết sự thật về cuộc chiến Việt
Nam.
BS
Hồ Hải
Lời
người dịch:
Xin mời quý vị đọc một bài viết của một cựu sĩ quan Hoa Kỳ đã từng chiến đấu
trên chiến trường Việt Nam, cựu bộ trưởng Bộ Hải Quân Hoa Kỳ và hiện là thượng
nghị sĩ liên bang của Hoa Kỳ, nói lên quan điểm về cuộc chiến Việt Nam. Thú
thật, cho đến bây giờ mới thấy một người Mỹ trí thức có đầy đủ hiểu biết về
cuộc chiến Việt Nam đã viết một bài chân thật, rất đáng kính trọng và rất đáng
đưa vào lịch sử của Hoa Kỳ để cho con cháu người dân Hoa Kỳ được hiểu rõ hơn
cuộc chiến Việt Nam mà trước đây những kẻ viết lịch sử Hoa Kỳ đã thiếu dữ kiện
sống để viết.
THG
————————-
James
Webb là cựu chiến binh Mỹ tham gia chiến tranh Việt Nam. Ông đóng một vai trò
quan trọng trong nhóm quyền lực hoạch định chính sách đối ngoại của Thượng Viện
Hoa Kỳ, cùng với Mc Cain là hai nhân vật có ảnh hưởng lớn đến chính quyền Hà
Nội hiện nay. Bài viết cho chúng ta một góc nhìn về cuộc chiến đã qua, động
viên cựu chiến binh và khẳng định khéo léo về tính chính danh của Hoa Kỳ trong
cuộc chiến Việt Nam.
Hình
: TNS Mỹ James Webb
Biết
giải thích như thế nào với những đứa con của tôi rằng khi tôi mười mấy, đôi
mươi, những tiếng nói ồn ào nhất của những người cùng tuổi, cùng thời với tôi
lại nhắm mục đích phá nát những nền tảng của xã hội Hoa Kỳ, để xây dựng lại một
xã hội dựa theo quan điểm đầy tự mãn của họ. Giờ đây nhìn lại, ngay cả chúng
ta, những người đã trải qua giai đoạn này, cũng không hiểu được tại sao lại có
những kẻ với trình độ học vấn cao, đa số sinh ra từ gia đình thượng lưu, lại có
thể gieo rắc những tư tưởng phá hoại làm nhiễm độc bầu không khí của thập niên
1960 và những năm đầu của thập niên 1970. Ngay cả Quốc Hội cũng bị nhiễm những
con vi khuẩn nầy.
Sau
khi Tổng Thống Nixon từ chức vào tháng Tám 1974, cuộc bầu cử mùa Thu năm ấy
mang lại 76 tân dân biểu thuộc đảng Dân Chủ và 8 thượng nghị sĩ. Đại đa số
những dân cử chân ướt, chân ráo này đã tranh cử dựa trên cương lãnh của Mc
Govern. Nhiều người trong số họ được xem như những ứng viên yếu kém trước khi
Nixon từ chức, vài người không xứng đáng thấy rõ, chẳng hạn như Tom Downey, 26
tuổi, thuộc New York, người chưa từng có một nghề ngỗng gì và vẫn còn ở nhà với
mẹ.
Cái
gọi là Quốc Hội hậu Watergate này diễu hành vào thành phố với một sứ mệnh vô
cùng quan trọng mà sau này trở thành điểm tập hợp cho cánh Tả của Hoa Kỳ: Chấm
dứt sự giúp đỡ của nước Mỹ dưới bất kỳ hình thức nào cho chính quyền đang bị
vây khốn Nam Việt Nam. Không nên lầm lẫn ở chỗ này – đây không phải là sự kêu
gào thanh niên Mỹ đừng đi vào cõi chết của những năm trước đây. Những người
lính Mỹ cuối cùng đã rời khỏi Việt Nam hai năm trước rồi, và đã tròn bốn năm
không có một người Mỹ nào bị tử trận.
Bởi
những lý do mà không một viện dẫn lịch sử nào có thể bào chữa được, ngay cả sau
khi quân đội Mỹ triệt thoái, cánh Tả vẫn tiếp tục những cố gắng để đánh gục nền
Dân Chủ còn phôi thai của Nam Việt Nam. Phụ tá sau này của Tòa Bạch Ốc Harold
Ickes và nhiều người khác trong “Chiến Dịch Kiểm Soát Tài Chánh” – có một lúc
được giúp đỡ bởi một người tuổi trẻ nhiều tham vọng: Bill Clinton – làm việc để
cắt toàn bộ những khoản tài trợ của Quốc Hội nhằm giúp miền Nam Việt Nam tự bảo
vệ. Liên Hiệp Hoà Bình Đông Dương, điều hành bởi David Dellinger và được quảng
bá bởi Jane Fonda và Tom Hayden, phối hợp chặt chẽ với Hà Nội suốt năm 1973 và
1974, đi khắp các khuôn viên đại học Mỹ, tập hợp sinh viên để chống lại điều
được cho là những con ác quỷ trong chánh quyền Nam Việt Nam. Những đồng minh
của họ trong Quốc Hội liên tục thêm vào những tu chính án để chấm dứt sự viện
trợ của Hoa Kỳ cho những người Việt Nam chống Cộng Sản, ngăn cấm cả đến việc sử
dụng không lực để giúp những chiến binh Nam Việt Nam đang bị tấn công bởi các
đơn vị bộ đội chánh quy Bắc Việt được khối Sô Viết và Trung Cộng yểm trợ.
Rồi
đến đầu năm 1975 Quốc Hội Watergate giáng một đơn chí tử xuống các nước Đông
Dương không Cộng Sản. Tân Quốc Hội lạnh như băng từ chối lời yêu cầu gia tăng
quân viện cho miền Nam Việt Nam và Cam Bốt của Tổng Thống Gerald Ford. Ngân
khoản dành riêng này sẽ cung cấp cho quân đội Cam Bốt và Nam Việt Nam đạn dược,
phụ tùng thay thế, và vũ khí chiến thuật cần thiết để tiếp tục cuộc chiến tự
vệ. Bất chấp sự kiện là Hiệp Định Paris 1973 đặc biệt đòi hỏi phải cung cấp
“viện trợ để thay thế trang thiết bị quân sự vô giới hạn” cho Nam Việt Nam, đến
tháng Ba phe Dân Chủ trong Quốc Hội biểu quyết với tỷ số áp đảo, 189-49, chống
lại bất kỳ viện trợ quân sự bổ sung cho Nam Việt Nam và Cam Bốt.
Trong
các cuộc tranh luận, luận điệu của phe Tả phản chiến gồm toàn những lời lên án
các đồng minh đang bị chiến tranh tàn phá của Hoa Kỳ. Và đầy những hứa hẹn về
một tương lai tốt đẹp cho các quốc gia này dưới sự cai trị của chế độ Cộng Sản.
Rồi dân biểu Christopher Dodd, tiêu biểu cho sự ngây thơ hết thuốc chữa của các
đồng viện, lên giọng đầy điệu bộ “gọi chế độ Lon Nol là đồng minh là làm nhục
chữ nghĩa… Tặng vật lớn nhất mà đất nước chúng ta có thể trao cho nhân dân Cam
Bốt là hòa bình, không phải súng. Và cách tốt nhất để đạt được mục đích này là
chấm dứt viện trợ quân sự ngay lập tức.”
Sau
khi trở thành chuyên gia đối ngoại trong vòng chỉ có hai tháng kể từ lúc thôi
bú mẹ, Tom Downey chế diễu những cảnh cáo về tội ác diệt chủng sắp sửa xảy ra ở
Cam Bốt, cái tội ác đã giết hơn một phần ba dân số của quốc gia này, như sau:
“Chính phủ cảnh cáo rằng nếu chúng ta rời bỏ các quốc gia ấy thì sẽ có tắm máu.
Nhưng những cảnh cáo cho việc tắm máu trong tương lai không thể biện minh cho
việc kéo dài việc tắm máu hiện nay.”
Trên
chiến trường Việt Nam việc chấm dứt viện trợ quân trang, quân cụ là một tin làm
kinh ngạc và bất ngờ. Các cấp chỉ huy quân đội của miền Nam Việt Nam đã được
đảm bảo về việc viện trợ trang thiết bị khi người Mỹ rút quân – tương tự như
những viện trợ Hoa Kỳ vẫn dành cho Nam Hàn và Tây Đức – và đảm bảo rằng Hoa Kỳ
sẽ tái oanh tạc Bắc Việt, nếu Bắc Việt tấn công miền Nam, vi phạm hiệp định
Paris 1973. Bây giờ thì họ đang mở mắt trừng trừng nhìn vào một tương lai bất
định khủng khiếp, trong lúc khối Sô Viết và Trung Cộng vẫn tiếp tục yểm trợ cho
Cộng Sản Bắc Việt.
Trong
lúc quân đội Nam Việt Nam, vừa choáng váng vừa mất tinh thần, tìm cách điều
chỉnh lại lực lượng để đối phó với những sự thiếu thốn trang thiết bị cần
thiết, quân đội chính quy miền Bắc được tái trang bị đầy đủ lập tức phát động
cuộc tổng tấn công. Bắt giữ được nhiều đơn vị bị cô lập, quân Bắc Việt tràn
xuống vùng đồng bằng trong vòng có 55 ngày.
Những
năm về sau, tôi đã phỏng vấn những người lính miền Nam Việt Nam còn sống sót
trong những cuộc giao tranh, nhiều người đã bị trải qua hơn chục năm trong các
trại tù tập trung của Cộng Sản sau khi cuộc chiến chấm dứt. Những điệp khúc này
không bao giờ chấm dứt:
-
“Tôi không còn đạn dược.”
-
“Tôi chỉ còn 3 quả đạn pháo cho mỗi khẩu một ngày.”
-
“Tôi không còn gì để phát cho binh sĩ của tôi.”
-
“Tôi phải tắt máy truyền tin, bởi vì tôi không thể nào chịu đựng được nữa khi
phải nghe những lời kêu gọi xin tiếp viện.”
Phản
ứng của Hoa Kỳ trước sự sụp đổ này cho thấy có hai nhóm khác nhau, và điều này
vẫn còn tiếp tục được thấy rõ trong nhiều vấn để mà chúng ta đang phải đương
đầu ngày nay. Đối với những người đã từng chiến đấu ở Việt Nam, và đối với gia
đình, bạn bè, và những người cùng quan điểm chánh trị với họ, đây là là một
tháng đen tối và tuyệt vọng.
Những
khuôn mặt mà chúng ta thấy đang chạy trốn sự tấn công của Bắc Việt là những
khuôn mặt rất thật và quen thuộc, không phải đơn thuần là những hình ảnh truyền
hình. Những thân người xoay trong không gian như những bông tuyết, rơi xuống
chết thảm khốc sau khi họ đeo và bám vào thân trực thăng hay phi cơ một cách
tuyệt vọng, có thể là những người chúng ta quen biết hoặc đã từng giúp đỡ. Ngay
cả đối với những kẻ không còn niềm tin vào khả năng đánh bại Cộng Sản, đây
không phải là cách để chấm dứt cuộc chiến.
Đối
với những kẻ từng trốn tránh cuộc chiến và lớn lên tin rằng đất nước chúng ta
là quỷ dữ, và ngay cả khi họ thơ mộng hoá những ý định của người Cộng Sản,
những tuần lễ sau cùng này đã chối bỏ trách nhiệm của mình trong sự xụp đổ này
bằng những phê phán quân đội Nam Việt Nam đầy tính sa lông, hay là công khai
reo mừng.
Ở
trung tâm Luật Khoa của Đại Học Georgetown nơi tôi đang theo học, việc Bắc Việt
trắng trợn ném bỏ các điều cam kết về hòa bình và bầu cử trong Hiệp Định Paris
1973, và tiếng xe tăng của Bắc Việt trên đường phố Sài Gòn được xem như là một
cái cớ để thực sự ăn mừng.
Sự
chối bỏ trách nhiệm vẫn còn tràn lan trong năm 1997. Thực ra cái kết cuộc này
chính là mục tiêu của phong trào phản chiến đã cố gắng không ngừng nghỉ trong
những năm theo sau sự rút quân của Mỹ. George McGovern, thẳng thắn hơn nhiều
người, công khai tuyên bố với người viết trong lúc nghỉ khi thâu hình cho
chương trình “Crossfire” của CNN vào năm 1995. Sau khi tôi đã lý luận rằng cuộc
chiến rõ ràng là có thể thắng được ngay cả vào giai đoạn cuối nếu chúng ta thay
đổi chiến lược của mình, ứng cử viên Tổng Thống năm 1972, người tình nguyện đi
Hà Nội bằng đầu gối, đã bình luận rằng: “Anh không hiểu là tôi KHÔNG MUỐN chúng ta
chiến thắng cuộc chiến đó sao?” Ông McGovern không chỉ có một mình. Ông
ta là phần tử của một nhóm nhỏ, nhưng vô cùng có ảnh hưởng lớn trong chính
trường. Sau cùng họ đã đạt được điều họ muốn.
Có
lẽ không còn minh chứng nào lớn hơn cho không khí hân hoan chung quanh chiến
thắng của Cộng Sản là giải thưởng điện ảnh năm 1975, được tổ chức vào ngày 8
tháng 4, ba tuần trước khi miền Nam sụp đổ.
Giải phim tài liệu hay nhất được trao cho phim Hearts and Minds, một phim tuyên truyền độc ác tấn công những giá trị văn hóa Hoa Kỳ cũng như những cố gắng của chúng ta để hỗ trợ cho sự chiến đấu cho nền Dân Chủ của miền Nam Việt Nam. Các nhà sản xuất Peter Davis và Bert Schneider (người thủ diễn một vai trong câu chuyện của David Horowitz) cùng nhau nhận giải Oscar. Schneider thẳng thừng trong việc công nhận sự ủng hộ những người Cộng Sản của mình.
Đứng
trước máy vi âm ông ta nói:
-
“Thật là ngược đời khi chúng ta đang ở đây, vào thời điểm mà Việt Nam sắp được
giải phóng.”
Rồi
giây phút đáng kinh ngạc nhất của Hollywood xảy ra – dù giờ đây đã được họ cố
tình quên đi. Trong lúc quốc gia Việt Nam, mà nhiều người Mỹ đã đổ máu và nước
mắt để bảo vệ, đang tan biến dưới bánh xích của xe tăng, Schneider lôi ra một
điện tín được gởi từ kẻ thù của chúng ta, đoàn đại biểu Cộng Sản Việt Nam ở
Paris, và đọc to lên lời chúc mừng cho phim của mình. Không một phút giây do
dự, những kẻ nhiều quyền lực nhất của Hollywood đứng dậy hoan nghênh việc
Schneider đọc bức điện tín này.
Chúng
ta, những người đã từng chiến đấu ở Việt Nam hoặc là những người ủng hộ những
cố gắng ở đó, nhìn lại cái khoảnh khắc này của năm 1975 với sự sửng sốt không
nguôi và không bao giờ quên được. Họ là ai mà cuồng nhiệt đến thế để đầu độc
cái nhìn của thế giới về chúng ta? Sao họ lại có thể chống lại chính những
người đồng hương của mình một cách dữ tợn đến thế? Sao họ có thể đứng dậy để
hoan nghênh chiến thắng của kẻ thù Cộng Sản, kẻ đã làm thiệt mạng 58,000 người
Mỹ và đè bẹp một đồng minh chủ trương ủng hộ Dân Chủ? Làm sao có thể nói rằng
chúng ta và họ đang sống trong cùng một đất nước?
Từ
lúc ấy đến nay, không một lời nào của Hollywood nói về số phận của những con
người biến mất sau bức màn tre của Việt Nam. Không ai đề cập đến những trại tù
tập trung cải tạo mà hàng triệu chiến binh miền Nam Việt Nam đã bị giam giữ,
56,000 người đã thiệt mạng, 250,000 bị giam hơn 6 năm, nhiều người bị giam đến
18 năm. Không người nào chỉ trích việc cưỡng bách di dân, tham nhũng, đàn áp
những người bất đồng chính kiến, cướp đất, cướp nhà của dân hay là chế độ Công
An trị mà hiện vẫn còn đang tiếp diễn. Thêm vào đó, ngoại trừ phim Hamburger
Hill có ý tốt nhưng kém về nghệ thuật, người ta chỉ hoài công nếu muốn tìm một
phim thuộc loại có tầm vóc diễn tả các chiến binh Hoa Kỳ ở Việt Nam với đầy đủ
danh dự và trong những khung cảnh có thật.
Tại
sao? Bởi vì cộng đồng làm phim, cũng như những kẻ thuộc loại đỉnh cao trí tuệ
trong xã hội, chưa bao giờ yêu thương, kính phục, hay ngay cả thông cảm với
những con người đã nghe theo tiếng gọi của đất nước, lên đường phục vụ. Và vào
lúc mà một cuộc chiến âm thầm nhưng không ngừng nghỉ đang diễn ra về việc lịch
sử sẽ ghi nhớ đất nước chúng ta tham dự ở Việt Nam như thế nào? Những kẻ chế
diễu chính sách của chính quyền, trốn lính, và tích cực ủng hộ kẻ thù, cái kẻ
thù mà sau cùng trở nên tàn độc và thối nát, không muốn được nhớ đến như là
những kẻ quá đỗi ngây thơ và lầm lẫn.
Giữa
những người dân Mỹ bình thường, thái độ của họ trong khoảng thời gian rối ren
này lành mạnh hơn nhiều. Đằng sau những tin tức bị thanh lọc và những bóp méo
về Việt Nam, thực tế là những công dân của chúng ta đồng ý với chúng ta, những
người đang chiến đấu, hơn là với những kẻ làm suy yếu cuộc chiến đấu này. Khá
thú vị là điều nầy đặc biệt đúng với tuổi trẻ Mỹ, mà giờ đây vẫn còn được mô tả
như là thành phần nổi loạn chống chiến tranh.
Như
được tường trình lại trong bài “Ý Kiến Quần Chúng”, những kết quả thăm dò của
Gallup từ năm 1966 cho đến khi Hoa Kỳ chấm dứt sự tham dự chiến tranh ỏ Việt
Nam cho thấy tuổi trẻ Mỹ thực ra ủng hộ cuộc chiến Việt Nam lâu bền hơn bất cứ
lứa tuổi khác. Ngay cả cho đến tháng 1 năm 1973, khi 68 phần trăm dân Mỹ trên
50 tuổi tin rằng chuyện gởi quân sang Việt Nam là một sai lầm, chỉ có 49 phần
trăm những người tuổi từ 25 đến 29 đồng ý. Những phát hiện này cho thấy giới
trẻ nói chung rõ ràng là không cực đoan, điều này đã được củng cố thêm bằng kết
quả bầu cử năm 1972 – trong đó lứa tuổi từ 18 đến 29 ưa thích Richard Nixon hơn
là George McGovern bằng tỷ lệ 52% so với 46 phần trăm.
Tương
tự như vậy, mặc dù trong quá khứ những người chống đối này, mà ngày nay đang
thống lãnh giới báo chí và giới khoa bảng, đã khăng khăng nói ngược với thực
tế, sự xâm nhập vào Cam Bốt năm 1970 đã được ủng hộ quần chúng mạnh mẽ. Sự xâm
nhập này đã gây ra sự phản đối rộng khắp ở các sân trường đại học, kể cả một vụ
xung đột làm cho bốn người chết ở Kent State University. Theo những kết quả
thăm dò dư luận của Harris gần 6 phần 10 dân Mỹ tin rằng sự xâm nhập vào Cam
Bốt là đúng đắn. Đa số được hỏi ý kiến, trong cùng bản thăm dò này vào tháng 5
năm 1970, ủng hộ tái oanh tạc Bắc Việt, một thái độ cho thấy sự bác bỏ hoàn
toàn phong trào phản chiến.
Các
cựu chiến binh Việt Nam, dù bị bôi bẩn thường xuyên trên phim ảnh, trong các
bản tin, và trong các lớp học, như là những chiến binh miễn cưỡng và thất bại,
vẫn được những người dân Mỹ bình thường tôn trọng. Trong một nghiên cứu toàn
diện nhất từ trước đến giờ về những cựu chiến binh Việt Nam (Harris Survey,
1980, ủy quyền bởi Veterans Administration), 73 phần trăm công chúng và 89 phần
trăm cựu chiến binh Việt Nam đồng ý với câu phát biểu: “Vấn đề rắc rối ở Việt
Nam là QUÂN ĐỘI CHÚNG TA ĐƯỢC YÊU CẦU CHIẾN ĐẤU TRONG MỘT CUỘC CHIẾN MÀ CÁC
LÃNH TỤ CHÍNH TRỊ Ở WASHINGTON KHÔNG CHO HỌ ĐƯỢC PHÉP CHIẾN THẮNG”, 70 phần
trăm những người từng chiến đấu ở Việt Nam không đồng ý với câu phát biểu:
“Những gì chúng ta gây ra cho nhân dân Việt Nam thật đáng xấu hổ.” Trọn 91 phần
trăm những người đã từng phục vụ chiến đấu ở Việt Nam nói rằng họ hãnh diện đã
phục vụ đất nước, và 74 phần trăm nói rằng họ thấy thoải mái với thời gian ở
trong quân đội. Hơn nữa, 71 phần trăm những người phát biểu ý kiến cho thấy họ
sẵn sàng chiến đấu ở Việt Nam một lần nữa, ngay cả nếu biết rằng cái kết quả
chung cuộc vẫn như thế và sự giễu cợt sẽ đổ lên đầu họ khi họ trở về.
Bản
thăm dò này còn có cái gọi là “nhiệt kế đo cảm giác,” để đo lường thái độ của
công chúng đối với những nhóm người khác nhau, với thang điếm từ 1 đến 10. Cựu
chiến binh từng phục vụ ở Việt Nam được chấm điểm 9.8 trên thang điểm này. Bác
sĩ được 7.9, phóng viên truyền hình 6.1, chánh trị gia 5.2, những người biểu
tình chống chiến tranh 5.0, kẻ trốn quân dịch và chạy sang Canada được cho 3.3.
Trái
ngược với những câu chuyện huyền thoại được dai dẳng phổ biến, hai phần ba
những người phục vụ ở Việt Nam là quân tình nguyện chứ không phải bị động viên,
và 77 phần trăm những người tử trận là quân tình nguyện. Trong số những người
tử trận: 86 phần trăm là da trắng, 12.5 phần trăm người Mỹ gốc Phi Châu và 1.2
phần trăm thuộc các chủng tộc khác. Những cáo buộc rất phổ biến như là chỉ có
dân thuộc các nhóm thiểu số và người nghèo được giao cho những công tác khó
khăn trong quân đội khi ở Việt Nam là điều sai lạc. Sự bất quân bình trong cuộc
chiến, thực ra chỉ đơn giản là do những thành phần đặc quyền đặc lợi trốn tránh
trách nhiệm của mình, và chính những người này kể từ thời gian ấy đã kiên trì
bôi bẩn những kinh nghiệm về cuộc chiến để nhằm tự bào chữa cho chính mình,
phòng khi sau này sẽ bị lịch sử phán xét.
Thế
còn những kẻ không những đã hiểu sai ý nghĩa một cuộc chiến, mà còn không hiểu
nổi dân tộc của mình, những kẻ thuộc thành phần tinh hoa của xã hội đó bây giờ
ra sao? Bây giờ họ đang ở đâu nếu không phải ở trong Tòa Bạch Ốc? Trên vấn đề
lịch sử quan yếu này, cái vấn đề đã xác định thế hệ của chúng ta, họ dấu mình
thật kín. Họ nên dấu mình như thế.
Đối
với những kẻ đã đem cuộc hành trình tuổi trẻ đánh bạc trên cái ý tưởng rằng tổ
quốc mình là một lực lượng ác quỷ, sau khi nhận ra sự ngây thơ của mình trong
những năm sau năm 1975, chắc họ phải có một cảm giác rất kinh khủng. Thật là
sáng mắt, sáng lòng cho những kẻ đã tỉnh thức, đã tự vượt qua được phản ứng
chối tội, để chứng kiến cảnh tượng hàng trăm ngàn người dân miền Nam Việt Nam
chạy trốn “ngọn lửa tinh nguyên của cách mạng” trên những con tàu ọp ẹp, sự
chạy trốn mà chắc chắn 50 phần trăm đã vùi thây dưới đáy biển, hoặc là nhìn
thấy những hình ảnh truyền hình của hàng ngàn chiếc sọ người Cam Bốt nằm lăn
lóc trên những cánh đồng hoang, một phần nhỏ của hàng triệu người bị giết bởi
những người Cộng Sản “giải phóng quân.”
Thực
vậy, chúng ta hãy thẳng thắn nhìn nhận. Thật đáng tủi nhục biết bao khi nhìn
vào khuôn mặt của một thương binh, hay là nghe diễn từ tốt nghiệp của một học
sinh thủ khoa người Mỹ gốc Việt Nam, mà người cha quá cố của em đã chiến đấu
bên cạnh những người Mỹ, cho một lý tưởng mà bọn họ công khai mỉa mai, chế
diễu, và xem thường. Và thật là một điều đáng xấu hổ khi chúng ta có một hệ
thống chính quyền đã để cho em học sinh đó thành công nhanh chóng ở đây, mà lại
không thực hiện được một hệ thống như vậy ở quê hương của em.
————————-
By
James Webb, The American Enterprise, 2003/04/30
Giang
chuyển ngữ
.
*
*
(Đăng lại từ địa chỉ
: http://ngoclinhvugia.wordpress.com/2011/12/23/chan-g%E1%BB%91i-v%E1%BB%9Bi-k%E1%BA%BB-thu-james-webb/
) Tháng Mười Hai 23, 2011 at 3:11 sáng
*
*
Phụ lục :
Vietnam,
Vietnam
was a United States Information Agency
(USIA) film about the Vietnam War. The film, narrated by Charlton
Heston, was shot on location in Vietnam in
October-December 1968 but not released until 1971. Though John Ford,
the Executive Producer, went to Vietnam, he did not
participate in production work there. Ford later did supervise the editing and
rewrote the film scenario.[1]
Bruce Herschensohn, the producer, remarked that
the purpose of the film was to provide a "balance" to the view which
critics of the war were providing. Due to the changing political situation in
Vietnam, the film went through numerous cuts and script alterations over a
three-year period and, when finally released, managed to offend almost
everyone. Critical reviews were unfavorable. USIA Director Frank
Shakespeare left the decision on whether or not to order a copy of the film
up to individual US Embassies abroad, and only a few did.[2]
VIDEO
No comments:
Post a Comment