Dương Đình Giao
14-1-2013
Các
vị sáng lập chủ nghĩa Marx đã có một cách dùng ví von rất hay để nói đến mối đe
dọa của chủ nghĩa cộng sản – họ gọi đó là “bóng
ma”. Vào những năm đầu thế kỷ XXI này, nếu nhìn lại chủ nghĩa cộng sản như
một thực thể đã từng hiện diện trong gần suốt một thế kỷ rồi lần lượt biến đi,
chúng ta có thể bổ sung thêm vào cách gọi của Marx và Engel – chủ nghĩa cộng sản trong thế kỷ XX không
phải là một “bóng ma” nữa mà đã là một loài ma cà rồng thực sự, hoành hành
khắp từ Âu đến Á khiến nhân loại phải trả giá trên 100 triệu nhân mạng, một cái
giá không hề nhỏ.
Xuất
phát từ một ý tưởng cứu vớt loài người rất thiện lương thế mà có ai ngờ lại đưa
đến hệ quả đau lòng như thế, chứng tỏ trong lý thuyết của nó, chủ nghĩa cộng
sản đã tiềm ẩn những căn cốt phi nhân bản đáng sợ, để cho những kẻ độc tài khét
tiếng lợi dụng và đẩy các nhân tố ấy đến cực đoan, mặt khác cũng tìm cách vô
hiệu hóa những thành tố thật sự tốt đẹp mà chủ nghĩa đó chứa đựng ngay khi mới
khai sinh, nhờ thế nó mới lôi cuốn được tầng lớp tinh hoa trên thế giới trong
một thời gian dài, chủ yếu là khoảng những thập niên cuối thế kỷ XIX đến vài
thập niên đầu thế kỷ XX.
Bây
giờ thì nói đến cái chủ nghĩa đang tàn lụn trong đời sống thực tiễn của trái
đất hôm nay, người có lương tri dù ở đâu cũng không thể lên tiếng bênh vực gì
nó được nữa, bởi dưới sự thống trị của hai ông vua độc tài họ Xít và họ Mao,
một nửa nhân loại đã bị dày vò, bóp méo và sản sinh ra hàng loạt thế hệ không
còn chất người nguyên vẹn. Và
đó chính là sự vô phúc cho bất kỳ dân tộc nào trót sa chân vào cái lò luyện đan
của hai kẻ phù thủy đó – sự hồn thuần trong bản tính dân tộc thế nào cũng có
đổi thay, mặt chất phác nguyên sơ như một đặc tính di truyền không sao còn bảo
lưu được đầy đủ, con người đối xử với nhau tàn bạo, bất lương hơn, và sự nô lệ
ý thức hệ cũng khủng khiếp hơn bất kỳ thứ nô lệ nào trong lịch sử – nó bắt buộc
người ta phải xuôi tay đầu hàng, giống như một loại gène đã trải qua một quá
trình tác động của con người khiến gây nên những đột biến sinh học.
Duyệt
lại vài điều sơ lược như trên chỉ để nhấn mạnh rằng, vào đầu thập niên thứ hai
của thế kỷ XXI có ngờ đâu cả thế giới lại có được một nỗi hoan hỷ khôn tả khi
cảm nhận một cách thấm thía điều may mắn lạ kỳ của một quốc gia như Myanmar. Ở
đó bàn tay lông lá của lũ quỷ Trung Cộng đã thò vào nhưng may thay, chúng vẫn
chưa làm được cái gọi là “xuất cảng cách mạng”, một kiểu tác động đặc thù của
chủ nghĩa cộng sản làm cho “gene người” của người dân Miến Điện đột biến không
tài gì cưỡng. Hỏi có hạnh phúc nào lớn
bằng hạnh phúc của nhân dân Myanmar?
Bauxite
Việt Nam
--------------------------------------------------------
Những
cánh chim
Người
Việt Nam rất thích chim. Chim treo trên ban công, trong sân, trước hiên nhà,…
Trong những khu vực còn đôi chút yên tĩnh, tiếng chim hót vui tai, xóa đi phần
nào cái ồn ào của thành phố đông đúc. Hà Nội bây giờ nhan nhản những chợ chim.
Ngay cách Hà Nội hàng mấy chục cây số dọc con đường đi lên khu du lịch Ba Vì
cũng thấy những hàng bán chim cảnh san sát. Nhưng đó phải là chim của mình.
Những con chim được nhốt trong lồng đủ loại. Có đẹp đến đâu thì cũng là lồng,
là mất tự do. Tiếng hót của những con chim bị giam hãm nghe như có cái gì vừa u
uất vừa thương cảm. Tôi có một khu vườn nhỏ cách Hà Nội 40 km. Cạnh đó lại có
khu đất rất rộng chưa có người ở. Thỉnh thoảng, chim vẫn bay về làm tổ, kiếm
mồi. Trong vườn, tôi đã có ý để lại một vài cây ổi mọc hoang. Loại ổi này ăn
thì chẳng ra gì, vì quả nhỏ và rất nhiều hạt. Nhưng chúng có mùi thơm kỳ lạ và
là loại thức ăn hấp dẫn của nhiều loài chim. Mong cho chim về, mong được thấy
cảnh chim cùng nhặt thóc với đàn gà trên mảnh sân nhỏ, mong được nghe tiếng hót
của những cánh chim tự do giữa bầu trời rộng rãi. Nhưng chim thường xuyên bị
bắn hạ, bằng súng cao su, bằng súng hơi, thậm chí bằng cả súng thể thao. Kẻ bắn
chim phần lớn đều không phải vì đói khát. Họ bắn chim để thể hiện sự “sành
điệu”, như một mốt chơi “sang”. Mặc bộ quần áo rằn ri, đi cái xe máy phân khối
lớn, lưng vắt chéo khẩu súng hơi, vênh váo nhìn thiên hạ. Họ bắn chim như để
thỏa mãn nhu cầu đòi hỏi được ác. Nhìn thấy một con chim nhỏ bé rũ rượi, lông
bết máu, họ nở một nụ cười mãn nguyện.
Cảm
giác đầu tiên tôi có được trong suốt bảy ngày trên đất Myanmar là sự bình yên.
Ngay ở thủ đô Yangon, sao lại có thể nhiều chim đến như thế! Ở Thái Lan cũng
rất nhiều chim nhưng tôi thường chỉ thấy chim trong chùa, những bầy chim trên
sân chùa, còn ở đây, chim ở đủ mọi nơi. Chim trên các mái nhà, chim trên dây
điện, chim trên cây, chim trên sân khách sạn, chim ở chợ… Ngay cả trên những
đường phố đông đúc người xe, từng đàn chim vẫn đỗ đầy trên vỉa hè. Người đi
lại, cứ đi, mải miết hay thong dong ở giữa, còn phần sát với đường phố tấp nập
xe chạy, quanh những gốc cây, chim vẫn điềm nhiên mổ hạt, vẫy cánh, rỉa lông.
Chỉ khi có người đến gần, chúng mới tung cánh, bay cao như nhường đường rồi lại
điềm nhiên hạ xuống cách đó không xa… Đủ loại chim, nhưng nhiều nhất là quạ, bồ
câu, sáo mỏ vàng, sẻ,… Từ bé, trong các bài tập đọc, tôi đã thấy từ “rợp trời”.
“Cờ bay rợp trời, chim bay rợp trời”. nhưng cho đến nay, tôi vẫn nghĩ “rợp
trời” là một “ngoa ngữ”, nói quá đi và điều này chỉ có trong tưởng tượng. Nhưng
trong những ngày ở đây, tôi đã nhiều lần thấy cảnh chim bay rợp trời. Trời đang
nắng dưới bóng râm những tán cây, tự nhiên thấy rợp bóng chim khi một đàn chim
chắc khoảng mấy trăm con đồng loạt tung cánh. Ngồi trong khách sạn năm sao hay
trong phòng đợi của Sứ quán Việt Nam, tôi vẫn có thể nghe tiếng chim gù. Ban
đầu, cứ nghĩ mình nghe lầm. Nhưng quả là như thế. Cảm giác như đang giữa trưa
hè ở làng quê mình (làng quê mình ngày xưa thôi, bây giờ thì khó có làng quê
nào còn có thể nghe tiếng chim gù). Chim không của ai cả, nhưng là của tất cả
mọi người. Buổi sáng, đi tập thể dục, hít thở không khí trong lành, tôi thấy
khá nhiều ngô, đỗ, thóc… rải rác trên đường. Những thức ăn này là của những
người vô danh dành cho chim. Ở đây, có nhiều người nấu những nồi cơm to (khoảng
5, 7 người ăn), khói còn đang bốc nghi ngút, đứng bên đường cúng dường cho các
nhà sư đi khất thực bằng tấm lòng trân trọng cung kính vào mỗi sáng sớm thì vào
lúc ấy, cũng có những người, lo cái ăn cho chim. Đó là những người “giàu có”,
họ làm công việc ấy thường xuyên hàng ngày. Trên đường phố, có nhiều người bán
các loại hạt chim thường ăn: gạo, thóc, đậu, kê, … Người đi đường ít tiền,
trong đó có khách du lịch có thể dừng lại, mua vài trăm kiat (tiền Myanmar, 1
kiat bằng khoảng 25 đồng Việt Nam), ném cho chim ăn, ngắm chim tranh nhau mổ
hạt, vừa giảm bớt street, vừa giúp chim nẩy nở sinh sôi. Tôi đã thấy một người
đàn ông Myanmartrông vẻ ngoài rất lam lũ, trán còn lấm tấm những giọt mồ hôi
đang ngồi tựa dưới gốc cây ăn bắp ngô luộc. Ông vừa ăn, vừa tách ngô ném cho
chim. Đàn chim quây quần xung quanh. Ông vừa được no bụng, vừa tìm được sự
thanh thản sau công việc mệt nhọc, lại vừa làm công việc tích đức cho con cháu
mai sau. Nhìn cảnh những đứa trẻ mới 4, 5 tuổi, bàn tay xinh xinh nắm trong tay
những hạt đỗ ném cho chim ăn nhưng không ném được xa, cả bầy chim xô tới tranh
nhau lượm hạt quanh chân bé, thật đáng yêu và cảm động. Ngay từ tuổi ấu thơ, đã
được dạy lòng thương yêu, quen chăm chút, nâng niu mọi vật như thế, trách gì
con người khi lớn lên đều nhân hậu, vị tha.
Với
người Việt Nam chúng ta, quạ vốn là con vật không được mấy thiện cảm. Quạ gắn
với cái chết, vì nó có bộ lông đen, vì nghe nói nó ăn xác động vật, kể cả xác
người. Nhiều người coi quạ như một điềm gở, nghe tiếng quạ kêu trên cây trong
vườn là tìm mọi cách xua đuổi. Nhưng những đàn quạ, có khi tới hàng trăm con
cùng với tiếng kêu của chúng ở đây lại không gây cho tôi cảm giác ấy. Sinh sống
và được nuôi dưỡng bởi những con người như thế, ngay cả loài quạ cũng biến đổi
tâm tính ư?
Giữa
khung cảnh một thành phố khá hiện đại với những cây cầu vượt, với những làn
đường trên cao, với không ít những khách sạn năm sao tráng lệ, những tòa nhà
cao ngất,… nhưng bầu trời luôn rợp cánh chim. Biết ngay đây là miền đất lành.
Đường
phố Yangon
Thủ
đô Yangon cũng đã có gần một nghìn năm tuổi. Không biết đến lúc đó, người
Myanmar sẽ tổ chức lễ kỷ niệm mà sự tốn kém bằng được bao nhiêu phần trăm
“Nghìn năm Thăng Long” của ta. Yangon hiện đại được xây dựng từ giữa thế kỷ XIX
khi là thuộc địa của thực dân Anh. Khu phố cũ của Yangon cũng tương tự như khu
phố cũ của Hà Nội (các phố Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hoàng Diệu, Phan Đình
Phùng, Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo,…) hay các phố thuộc quận 1,
quận 3 của Sài Gòn trước đây, nhưng rộng hơn nhiều. “Google” cho tối biết,
Yangon có diện tích gần 600 km2, (trong khi Hà Nội cũ khoảng 150 km2, và Sài
Gòn cũ khoảng 400 km2). Các đường phố rộng rãi, nhiều đường có dải phân cách
(cứng hoặc mềm). Hai bên thường là các biệt thự với các khuôn viên rộng hơn các
biệt thự ở Hà Nội và Sài Gòn, có khi tới vài hecta. Điều thích thú nhất là ngay
sau hè đường, các biệt thự ở Hà Nội hay Sài Gòn đều làm tường rào (xây hoặc
song sắt), nhưng ở đây, chủ nhân bao giờ cũng làm hàng rào lùi vào trong phần
đất của mình khoảng một mét. Phần đất này được trồng hoa, trồng các loại cây
thấp. Tường rào thường không cao, tầm nhìn người đi đường không bị hạn chế. Sau
hàng rào là vườn cây, có nhiều cây cổ thụ, bãi cỏ rộng rãi trong biệt thự
thường thấp tầng. Nó khiến đường phố như rộng hẳn ra. Những gia đình giàu có
rất có ý thức về cái chung mặc dù chắc họ không có khẩu hiệu “mình vì mọi
người”. Trong không gian rộng rãi ấy, con người được sống sảng khoái trong một
bầu không khí trong lành.
Khu
phố cũ của Yangon có vẻ đẹp tĩnh lặng như khu phố cũ của Hà Nội hay Sài Gòn
trước kia. Nhưng nó không bị trải qua những cơn bão của “đường lối”, “chính
sách”, những cơn hồng thủy “cải tạo”, “cưỡng chế” nên vẻ đẹp nay vẫn nguyên
vẹn, khác với nơi đã từng được coi là “hòn ngọc Viễn Đông” sau những năm tháng
hãi hùng cuối thế kỷ trước.
Ở
những nơi giao cắt nhiều đường (mà ta thường gọi là “bùng binh”) là những tượng
đài, phía dưới trồng hoa đủ màu sắc, nơi nào cũng có hệ thống tưới nước tự
động. Vào buổi trưa hay chiều nắng gắt, hệ thống phun nước này vừa giúp cho hoa
tươi tốt, vừa làm giảm hạ nhiệt độ xung quanh hạn chế cái nóng bức trên đường
phố.
Hè
phố có nơi rộng nơi hẹp nhưng thường cao hơn mặt đường đến 40cm. Trước cổng mỗi
biệt thự hè được làm thấp xuống bằng với mặt đường, tiện cho ô tô ra vào. Người
đi bộ có cảm giác an toàn dù xe cộ trên đường khá đông đúc. Xe dù có mất lái
cũng khó có thể leo lên hè, gây tai nạn cho người đi bộ.
Yangon
hoàn toàn không có xe máy. Anh hướng dẫn du lịch người Myanmar nói với tôi: kể
nếu được dùng xe máy thì cuộc sống thuận tiện hơn nhiều, nhưng xem tivi, thấy
cảnh xe máy ở Việt Nam thì thà không có lại hơn. Xe đạp cũng không có. Ở các
khu chợ có loại xe đạp 3 bánh nhưng loại xe này không được vào các khu phố cũ.
Người dân đi lại bằng xe buýt hoặc taxi. Thú vị là taxi cũng có hai loại. Một
loại như taxi ở ta, xe đẹp, có điều hòa, có đồng hồ tính tiền. Nhưng có loại
“bình dân”, xe cũ, có khi cửa kính vỡ, đệm rách phải khâu lại và khách đi phải
mặc cả. Giá thường chỉ bằng nửa giá taxi bình thường. Đây là loại xe dành cho
người nghèo.
Trong
thành phố hầu như không thấy có các loại xe tải nặng (có lẽ chỉ được phép chạy
vào ban đêm), chỉ có xe con, xe buýt và xe tải loại dưới hai tấn. Hồi Sài Gòn
mới giải phóng, một lần, tôi ra ga Bình Triệu bằng xích lô. 4 giờ sáng, đường
phố vắng tanh, thỉnh thoảng mới có một chiếc xe máy lướt qua. Đến ngã tư, gặp
đèn đỏ, người lái xích lô vẫn dừng lại chờ, dù không thấy bóng cảnh sát, đến
khi có đèn xanh, anh mới đi tiếp. Đến năm 1991, có dịp vào Sài Gòn, giao thông
đã bắt đầu lộn xộn, có cảnh sát nhưng vẫn có người vượt đèn đỏ, hè phố bị lấn
chiếm. Cứ nghĩ mình sẽ không bao giờ còn thấy cảnh luật lệ được tôn trọng nữa.
Nhưng tôi đã thấy cảnh này trên đường phố Yangon hai mươi năm sau đó. Hai làn
đường xuôi ngược nhiều khi chỉ được ngăn bằng một vạch sơn, nhưng dù chiều
ngược lại không một bóng xe, vẫn không có một chiếc xe nào lấn vạch. Cho nên
thỉnh thoảng cũng có cảnh ùn ứ, nhưng chỉ vài phút, tình trạng đó đã được chấm
dứt. Trong một tuần lễ ở Myanmar, tôi chỉ nhìn thấy cảnh sát hai lần. Đó là ở
hai điểm giao cắt có đèn điều khiển nhưng lúc đó mất điện. Xe cộ đi lại trật tự
và đặc biệt, các lái xe luôn nhường đường cho xe khác hoặc người đi bộ qua
đường. Tôi đã đứng khoảng 15 phút ở một ngã tư trong khu China Town, một khu
phố rất đông đúc, buôn bán sầm uất, xe cộ đi lại như mắc cửi quan sát tình
trạng giao thông. Không thấy một xe nào vi phạm. Người đi bộ (rất nhiều người
trông lam lũ, cũng tay xách nách mang) cũng chỉ qua đường khi ô tô các loại
dừng trước vạch sơn. Đường phố ồn ào, nhưng không nghe thấy tiếng còi ô tô. Có
lẽ vì không cần chen lấn, lạng lách. Và cũng có lẽ người lái xe không cần “thể
hiện”. Ngay trong giao thông ở một thành phố hiện đại, người dân Miến cũng biết
khiêm nhường.
Rất
nhiều đường phố Yangon cũng đang được cải tạo, nhiều cầu vượt, đường trên cao
đang được xây dựng (những công việc này chỉ được thực hiện vào ban đêm). Yangon
rồi đây sẽ thông thoáng hơn, hiện đại hơn và có lẽ giao thông ở Hà Nội, ở Sài
Gòn và nói chung ở Việt Nam ta sợ sẽ chẳng bao giờ theo kịp họ.
Lễ
chùa
Myanmar
nổi tiếng với những ngôi chùa cổ, với những tháp chùa được giát vàng tráng lệ.
Ngôi chùa Shwe Dagon nổi tiếng nhất được giát bằng 90 tấn vàng. Có người bảo,
nếu đem toàn bộ số vàng đã giát trong các chùa khắp trên đất nước Myanmar chia
cho toàn dân (khoảng 61 triệu người), mỗi người có thể được khoảng từ 2 đến 3
cân (kilogram) vàng. Những điều này mọi người có thể xem trên internet. Tôi
cũng đã đọc trước khi đến Myanmar. Điều tôi ngạc nhiên khi thăm những ngôi chùa
của Myanmar là niềm tin của con người khi bước vào thế giới tâm linh của họ.
Việt Nam và Myanmar đều có chùa, đều thờ Phật, nhưng chùa và cách thờ Phật nay
đã khác nhau xa. Người Miến thờ Phật trước hết là bằng làm việc thiện. Người
giàu có, các bậc đại gia có thể cúng vàng ròng để đúc chuông, đúc khánh cho
chùa. Người ít tiền hơn có thể mua những mảnh vàng giát mỏng dâng vào chùa để
giát vàng những ngôi tháp. Người nghèo, có thể bỏ 50 hay 100 kiat (1 kiat bằng
khoảng 25 đồng Việt Nam) vào hòm công đức. Những hòm công đức này để khắp nơi
trong chùa. Tiền này không phải để dâng Đức Phật. Cũng như người Việt Nam xưa,
tiền được coi là vật “uế tạp”, không được dâng lên bàn thờ, không được dâng lên
Đức Phật). Đây là tiền để làm việc thiện, để giúp người cơ nhỡ, kẻ khó khăn.
Rồi có thể nấu cơm, thức ăn cúng dường các nhà sư khất thực mỗi sáng sớm, mua
chút thức ăn cho chim. Người không có tiền thì hàng ngày đến chùa, quét, lau
sân chùa. Tôi đã được thấy cảnh này ở chùa Shwe Dagon, ngôi chùa lớn nhất
Myanmar. Khoảng 4 giờ chiều, hàng vài trăm người tập hợp ở sân, xếp thành từng
hàng, mỗi hàng khoảng 20 người. Mỗi người tay cầm hai cái chổi “đót”, vừa đi
vừa quét. Hết hàng nọ đến hàng kia. Sau năm sáu hàng quét là đến mấy hàng lau.
Có vài người đi trước té nước. Rồi lại một hàng khoảng hai mươi người đẩy những
tấm bao tải dài suốt chiều ngang sân. Cũng lại lau năm sáu lần như thế. Nên sân
chùa sạch bong. Bước vào chùa phải bỏ giày dép, có chùa yêu cầu bỏ cả tất. Nghe
nói, có lần, ông Đỗ Mười với tư cách nguyên thủ quốc gia vào thăm chùa, cũng
không có ngoại lệ. Trước Đức Phật, mọi chúng sinh đều bình đẳng. Bàn thờ Phật ở
Myanmar rất đơn giản, có tượng Phật Thích Ca (tượng có thể bằng vàng ròng),
nhưng ngoài tượng không có nhiều thứ rườm rà như ở ta (nhất là những chùa mới
được xây hoặc mới cải tạo sau này). Cảm thấy người Miến chỉ coi bàn thờ là một
biểu tượng, đó là nơi họ dâng lên Đức Phật tấm lòng thơm thảo của mình. Vào lễ
Phật, phẩm vật thường được dùng là hoa, những dải hoa ngát hương được bán với
giá 40 kiat, dài khoảng 20 cm. Phía ngoài chùa, tôi cũng thấy có bán nhiều loại
quả: chuối, dừa, xoài,… nhưng thấy ít người mua. Bước vào bất cứ ngôi chùa nào
cũng ngát hương hoa nên luôn có cảm giác thanh thản, nhẹ nhàng (trái ngược với
chùa Việt Nam, nghẹt thở vì khói hương và khói đốt vàng mã). Sau khi dâng một
tràng hoa lên bàn thờ Phật, mỗi người có thể tìm một chỗ theo ý mình, ngồi niệm
Phật. Đó có thể là một nơi góc sân chùa, có thể trước một ngọn tháp, dưới một
gốc cây cổ thụ, hoặc bất kỳ chỗ nào (sân chùa thường rất rộng). Họ ngồi xếp
bằng, có người ngồi xổm, hai tay chắp trước ngực, nét mặt đầy vẻ thành kính,
đôi mắt ngưỡng lên cao, nơi Đức Phật đang ngự. Họ ngồi rất lâu, dường như quên
đi tất cả. Chỉ còn họ đang giao cảm với Đức Phật từ bi. Dường như từ nơi thinh
không cao vời vợi kia, Đức Phật đang chia sẻ với những nỗi vui buồn, đồng cảm
với những oan khuất, an ủi những đau đớn, vỗ về những xót thương mà họ đang
phải chịu đựng. Và cũng từ nơi ấy, Đức Phật đang mỉm cười, đồng cảm với những
ước nguyện mà họ đang tha thiết ấp ủ. Họ ngồi rất lâu, có người ngồi đến khoảng
vài ba giờ. Đến đây, tôi dường như mới hiểu thế nào là tín ngưỡng, là niềm tin.
Họ đến chùa là tìm nơi chia sẻ, giãi bày, tìm người đồng cảm chứ không phải đến
chùa để “hối lộ thánh thần” với đủ thứ mâm cao cỗ đầy nhưng toàn đồ giả để xin
xỏ công danh phú quý.
Tử
tế
Sau
khi bài “Tình người trên đất Miến” được đăng tải, tôi nhận được nhiều phản hồi
của bạn đọc trên facebook và các trang mạng, ai cũng vô cùng ngưỡng mộ nhân dân
Myanmar, các doanh nhân thuộc tập đoàn HTOO và các viên chức chính quyền
Myanmar. Tất cả đều nói họ là những con người hết sức tử tế. Tôi vẫn hiểu, đất
nước Myanmar còn lạc hậu, còn chậm phát triển, vừa trải qua một thời gian dài
bị cấm vận do chính phủ quân sự độc tài. Mạng internet cho tôi biết vài nét về
tập đoàn HTOO. Những thông tin cho thấy đây chưa phải là một tập đoàn lớn (so
với nhiều tập đoàn ở nước ta). Doanh thu năm 2011 của họ chỉ là 65,1 triệu đô
la (nghĩa là khoảng 1.300 tỷ đồng Việt Nam), trong khi doanh thu của EVN là
100.000 tỷ đồng Việt Nam, lợi nhuận của Tập đoàn Hoàng Anh – Gia Lai năm 2011
đã là 3.000 tỷ đồng Việt Nam. Hãng hàng không AirBagan cũng chỉ có 6 chiếc máy
bay (sau tai nạn ngày 25 tháng 12 năm 2012). Nhân viên của họ lương thấp nhất
chỉ là 70 đôla/tháng. Trong số tiền chúng tôi được nhận, có những tập tiền đôla
mệnh giá 20 đôla, thậm chí có tập mệnh giá chỉ 5 đôla. Có cảm giác họ đã phải
vét những đồng tiền cuối cùng trong két sắt. Họ chưa giàu, nhưng sao họ đối xử
với mỗi hành khách đi trên chiếc máy bay gặp nạn “hào phóng” như vậy? Họ cần gì
để khách ăn ở tại khách sạn 5 sao? 3 sao là đã không có ai trách cứ rồi (các
tour du lịch thường chỉ đặt chỗ ăn ở như thế! Họ việc gì phải gợi ý cho những
người bị bỏng có cần phẫu thuật thẩm mỹ sau khi vết thương lành (tất nhiên họ
chịu toàn bộ chi phí)? Họ cần gì phải đưa khách ra tận sân bay, cho nhân viên
làm mọi thủ tục cho khách trước khi lên máy bay về nước?, v.v…Mọi cách cư xử
của họ tôi đều cảm thấy quá “rộng rãi”. Hình như họ không cần tính toán chuyện
tiền nong (mặc dù chuyện tiền nong xét cho cùng là mục đích của việc kinh
doanh). Sao ông chủ tập đoàn cùng con trai còn khá trẻ cần vượt gần 1.000 km
đến thăm hỏi hành khách trên máy bay gặp nạn sau khi tai nạn xảy ra chưa đầy 10
giờ đồng hồ mà không cử một người khác? Điều đáng lạ hơn tôi chưa thấy ở nước
ta là, đi theo ông có khá đông nhân viên tháp tùng, nhưng không hề có ai quay
phim chụp ảnh. Sau chuyến thăm này, sáng hôm sau, mỗi hành khách chúng tôi được
nhận thêm áo ấm và một số tiền không nhỏ. Tôi cứ suy nghĩ mãi, sao ông ta không
như những gì thường thấy ở nước ta, trao cho chúng tôi vào hôm qua, khi ông tới
thăm? Có lẽ ông không muốn làm cái việc gọi là “làm ơn” cho người khác để mọi
người nhìn thấy, ông không muốn nhìn thấy chúng tôi có thái độ hàm ơn ông, ông
không cần “đánh bóng tên tuổi”. Ngay khi làm việc tốt, ông vẫn có cảm giác
ngượng ngùng! Ông chủ như thế nên những người thuộc cấp của ông cũng có sự chu
đáo hiếm có. Quần áo vật dụng Air Bagan cho không phải nhiều lắm. Nhưng khi di
chuyển, chúng tôi đã phải mua tạm những túi nilon cho vào để xách theo. Quả là
không có dáng vẻ của người đi du lịch. Đón chúng tôi từ khách sạn đến phòng
khách của sân bay Heho, các nhân viên của sân bay đã đến làm thủ tục cho chuyến
bay tại chỗ. Khi làm thủ tục hành lý, thấy khách nào cũng có một túi xách, họ
quay ra, và lát sau, mang tới cho chúng tôi mỗi người một vali du lịch (kể cả
cháu ngoại tôi, mới 4 tuổi cũng được một vali riêng). Họ cư xử như thế vì họ là
những người tử tế. Họ
cần có hành động để phần nào chuộc lại lỗi lầm (mặc dù lỗi lầm ấy hoàn toàn do
khách quan, họ không bao giờ muốn nó xảy ra), họ thấy cần an ủi các khách hàng
của họ khi lâm nạn ở nơi đất khách, và họ nhận thức sâu sắc trách nhiệm của họ.
Hôm
ngồi chờ máy bay ở sân bay Heho để về Yangon, khi máy bay từ Yangon đến, tôi
thấy một số người đi thẳng từ đường băng ra ngoài mà không qua cửa kiểm soát.
Họ mang theo khoảng hai chục vòng hoa. Những vòng hoa không lớn, lớn nhất đường
kính cũng chỉ khoảng 60 cm. Nhưng hoàn toàn không có hoa nhựa, hoa ni lông, hoa
giả như ở ta. Hoa thật 100% ngát hương thơm. Hỏi thì được biết đây là đoàn quan
chức từ Yangon đến để dự đám tang cô hướng dẫn viên du lịch người Myanmar,
người duy nhất trên máy bay thiệt mạng. Chỉ cần qua những vòng hoa ngát hương
ấy, người ta có thể hiểu tình người ở xứ sở này.
Còn
các cơ quan nhà nước Myanmar cũng khiến chúng tôi bất ngờ. Tất cả những người
bị mất hộ chiếu đều được làm giấy thông hành ngay tại nơi đang tạm trú. Chúng
tôi chỉ phải ngồi để chụp ảnh, rồi chờ đợi trong khoảng chưa đầy nửa giờ đồng
hồ. Không phải làm đơn, không phải khai báo, không phải trả lời phỏng vấn… Và
tất cả những người quan hệ với chúng tôi đều luôn nở nụ cười thân thiện. Sau
khi nhận giấy thông hành để đi lại trên lãnh thổ Myanmar, họ còn có nhã ý chuẩn
bị cho chúng tôi mỗi người một tấm ảnh để làm giấy tờ ở Sứ quán nước mình.
Một
người bạn trên facebook bảo tôi, trước cổng các cơ quan cảnh sát Myanmar đều có
tấm biển đề MAY I HELP YOU (Tôi có thể giúp gì cho bạn). Họ biết người ta đến
cơ quan cảnh sát để làm gì và sẵn sàng từ khi người dân sắp bước chân vào. Điều
này tôi nhờ các bạn kiểm chứng vì trong thời gian làm lại giấy tờ, tôi không
phải tới những cơ quan này. Tôi có hỏi một nhân viên Air Bagan rằng ở đây có
khẩu hiệu nào đại loại như “chính quyền là của dân, do dân, vì dân”, “cán bộ là
đầy tớ của nhân dân” không? Sau khi nghe lời dịch, anh ta cười ngượng ngập và
lắc đầu.
Tôi
có cảm giác chính quyền quân sự độc tài không phải như mình vẫn nghĩ. Dù trải
qua ba mươi năm, nhưng những vẻ đẹp nhân văn, mối quan hệ đồng loại giữa những
con người với con người vẫn được trân trọng.
Từ
người dân bình thường, các doanh nhân (mà ở nước ta, nhiều khi vẫn hiểu họ chỉ
biết có tiền), cho đến viên chức nhà nước đều tử tế, đều hết lòng giúp đỡ người
khác.
Họ
tử tế còn vì họ đã giúp đỡ người khác một cách thầm lặng.
Năm
mới 2013
D.Đ.G.
Tác
giả gửi trực tiếp cho BVN
---------------------------------------------------
TÌNH
NGƯỜI TRÊN ĐẤT MIẾN (Dương Đình Giao) 31-12-2012
No comments:
Post a Comment