Tấn Hà
Chuyện "đánh và đàm" là một
giải pháp khôn ngoan của cả hai phe trong chiến tranh, điều đó có lẽ đã từng
xảy ra từ thời cổ đại. Khi đàm phán, luôn là cơ hội để hai bên thăm dò nhau về
chiến thuật, chiến lược, thậm chí là cả ý chí của địch thủ. Bàn đàm phán Paris
trong chiến tranh Nam - Bắc Việt Nam từ tháng 5/1968 đến tháng 01/1973 cũng là
một nơi như vậy.
Hiệp định Paris ngày 27/01/1973 đã đánh
dấu một ngã rẽ hoàn toàn bất lợi cho chính thể Việt Nam Cộng Hoà (VNCH), nhưng
nó cũng không hề có ý cho phép Bắc Việt có cơ hội tăng cường tấn công quân sự
VNCH. Đã có hàng chục ngàn trang viết, bài bình luận, nghiên cứu, tổng hợp,
nhận định, vv.., của hàng trăm nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu người Việt và
người ngoại quốc về sự kiện này. Nhưng dường như nó chưa thoả mãn được sự quan
tâm và cả... sự tò mò của những độc giả khó tính.
Người ta tự đặt câu hỏi, có thật Miền
Bắc đã thông minh, khôn khéo, giỏi giang trong đàm phán với Hoa Kỳ và VNCH? Đây
là một câu hỏi cầnđược trả lời một cách minh bạch, vì cho đến hôm nay báo đài
của chế độ Cộng Sảnở Việt Nam vẫn đang ra sức tô vẽ cho cái gọi là "chiến
thắng ngoại giao" trong việc giành được lợi thế tại Hội nghị Paris về Việt
Nam năm 1973.
Nếu nhìn một cách tổng quát, có vô vàn yếu tố cả khách quan
và chủ quan dẫn đến kết cục của Hiệp Định Paris về Việt Nam năm 1973.
Thứ nhất, và quan trọng
nhất, đó chính là việc Hoa Kỳ không còn mấy mặn mà với cuộc chiến tranh Việt
Nam. Có nhiều nguyên do dẫn đến quanđiểm chính sách này, bao gồm sự phản ứng từ
dư luận nhân dân Mỹ, đặc biệt là thân nhân các tử sĩ, binh lính và sĩ quan Mỹ
đã và đang tham chiến tại chiến trường Miền Nam Việt Nam vào lúc đó.
Thứ hai, việc ông Lyndon
B. Johnson - Tổng thống Hoa Kỳ(1963 - 1969) quyết định không tái tranh cử tổng
thống nhiệm kỳ tiếp theo cũng là một bất lợi lớn. Mặc dầu vậy, Tổng thống
Johnson vẫn quyết định dùng không quân tấn công Miền Bắc năm 1972. Trong khi
đó, ông Richard Nixon ra tranh cử và đắc cử tổng thống Mỹ cũng "há miệng
mắc quai" vì những phát biểu mang tính chất hứa hẹn sẽ sớm kết thúc chiến
tranh Việt Nam và tôn trọng hoà bình.
Thứ ba, cũng vẫn xuất
phát từ chiến dịch không kích Bắc Phần năm 1972. Theo tin tức chính xác từ một
số cán bộ cao cấp của Miền Bắc, khi họthấy không cần phải giữ bí mật chiến
tranh nữa thì nhiều người đã thừa nhận là Miền Bắc đã nắm được ý đồ chiến lược
của Hoa Kỳ và thậm chí là toàn bộ kế hoạch ném bom các mục tiêu của không lực
Hoa Kỳ nhắm vào Hà Nội và các địa điểm khác.Điều này hẳn nhiên được minh chứng
khi "lòi mặt chuột" hàng loạt giánđiệp nằm vùng trong lòng VNCH với
những cái tên như Phạm Xuân Ẩn, Vũ Thắng, Vũ Đình Hoè, Đặng Trần Đức, Trần Văn
Hiệu, Phan Dĩnh, Nguyễn Xuân Đính, vv.., đặc biệt là nhữngđộng thái kỳ lạ
(giống một tên nội gián) lúc cuối đời của cựu phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ -
cựu tư lệnh không lực VNCH. Chúng ta thấy, dù có khác nhau vềmức độ, các “lỗ
hổng” này đều là những thiệt hại cực kỳ nghiêm trọng!
Thứ tư, mặc dù giờ này
không phải là lúc ngồi để mà bới lông tìm vết nhau. Nhưng thiết nghĩ cũng phải
nói một vài điểm sai lầm của nhiều cá nhân quan trọng trong bộ máy chính quyền
của VNCH để những người quan tâm có cái nhìn khách quan về sự kiện người Mỹ
buộc phải ký Hiệp Định Paris năm 1973. Ngoại trừ cựu tổng thống Ngô Đình Diệm,
hầu hết thế hệ lãnh đạo đầu tiên của giai đoạn 1954 – 1973 đều tin và dựa quá
nặng vào đồng minh Hoa Kỳ để bảo vệ đất nước -- nặng đến nỗi khi đồng minh có
nhu cầu khác thì VNCH chết đứng. (Nói như vậy không có nghĩa là người dân Nam
Việt không có trách nhiệm khi đẩy hết việc giữ nước cho quân đội và sống như
thể trong một nước không có chiến tranh).
Thứ năm, yếu tố Liên Xô
cũng là một yếu tố đặc biệt quan trọng. Tại Paris, chính họ đã nghĩ ra
"sáng kiến" đàm phán bàn tròn, nghĩa là tất cả 4 đoàn tham gia đàm
phán đều ngồi quay quanh một chiếc bàn tròn. Chắc hẳn bạn đọc cũng đồng ý rằng:
Vào thời điểm năm 1973 khi hàng tỉ con người trên trái đất này (trong đó có rất
đông người Việt) đều vẫn tin rằng Chủ Nghĩa Xã Hội là chủ nghĩa tiến bộ, thế
nên người Mỹ và cả VNCH cũng đều không thể coi nhẹ tầm ảnh hưởng của Liên Xô.
Đặc biệt, sự kiện Liên Xô triển khai vũ khí hạt nhân tại Cu Ba năm 1961 khiến
cho bản thân Hoa Kỳ cũng phải thận trọng hơn với việc hậu thuẫn VNCH.
Hiệp Định Paris về Việt Nam năm 1973 kết thúc cả một tiến
trình dài đàm phán, kể từ tháng 5/1968 đến tháng 1/1973. Trong đó tất cả những gì đã diễn ra trong hơn 200 phiên đàm
phán công khai và 36 phiên đàm phán bí mật (số liệu do cựu đại sứ VC - ông Võ
Văn Sung cung cấp), người ta thấy rằng, chỉ khi trên chiến trường, bên nào
giành được lợi thế chiến thắng thì bên đó sẽ giành được lợi thế đàm phán. Thực
tế, khi Pháo đài Bay B52 của Hoa Kỳ với tầm bay lên tới 16 ngàn mét, bất ngờ bị
tên lửa SAM 3 của Liên Xô bắn rơi tại Hà Nội thì họ mới biết đích xác rằng,
không riêng gì người Mỹ tham chiến tại Việt Nam mà phía bên kia chiến tuyến còn
có những con thú dữ hung hãn ẩn mình là Nga Xô và Trung Cộng.
Nước Mỹ những năm 1970 không thực sự
mạnh như ngày hôm nay. Họ cũng đang căng tai căng mắt đêm ngày để sẵn sàng cho
một cuộc huyết chiến với phe Cộng Sản quốc tế, đứng đầu là Liên Xô. Cho nên để
tránh một cuộc đối đầu bất đắc dĩ, Hoa Kỳ cần phải biết rằng: Khai hoả một cuộc
chiến tranh thế giới tại chiến trường Việt Nam là quá xa để họ vận chuyển khí
tài và đạn dược chiến tranh không hạt nhân, chứ chưa nói gì đến một cuộc chiến
bằng vũ khí nguyên tử. Lúc đó nếu tôi là người Mỹ, tôi cũng sẽ sẵn sàng rút
quân khỏi Việt Nam.
Về việc tại sao VNCH lại thất thủ trước Bắc Việt thì có
nhiều nguyên nhân. Tuy nhiên, cho đến hôm nay rất nhiều
người không chịu nhận ra nột điều: Ngoài việc "đó là sự sắp đặt của
Chúa" hay "do cơ trời vận nước" thì nguyên nhân con người là yếu
tố chính quyết định tất cả. Xin xem thêm bài "Người Mỹ và cuộc chiến tranh
Nam - Bắc Việt Nam dưới góc nhìn của người ngoài cuộc" - Một bài viết đã
gây ra tranh cãi mạnh mẽ- có tới hơn 100 comment trên trang Take-2 Tango của cố
nhà báo Thế Phương (thời điểm năm 2009) thì sẽ hiểu thêm về vấn đề này.
Đối với cái gọi là "chiến công
ngoại giao" trong Hiệp định Paris về Việt Nam năm 1973 mà báo chí của chế
độ Cộng Sản Việt Nam cố tình tô vẽ theo chỉ đạo của Ban tuyên Giáo trung ương
thì thực chất, Bắc Phần ngày đó có được chút lợi thế chính là nhờ các bố già
Liên Xô, còn họ chỉ là những tên bù nhìn mà thôi. Cuộc chiến Nam - Bắc Việt Nam
ngày nào thực chất là cuộc chiến một bên là VNCH do người Mỹ đứng ra bảo vệ,
nhằm gìn giữ nền dân chủ cộng hoà non trẻ và bên kia là cả một guồng máy Cộng
Sản trải dài từ Âu sang Á muốn nhuộm đỏ cả thế giới, mà Việt Nam chỉ là nơi để
chúng thử nghiệm dã tâm của mình...
Nhưng nếu nhìn lại thì còn có một yếu
tố khác không kém phần quan trọng trong việc cố tình "hiểu sai" mà
thực chất đó là hành vi bội ước của Bắc Cộng. Hiệp định ngày 27/01/1973 có tên
đầy đủ là "Hiệp định Chấm dứt Chiến tranh, Lập lại Hoà bình ở Việt
Nam" gồm 9 chương và 23 điều khoản. Tại điều 1 của hiệp định kể trên ghi
rõ: "Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ Việt Nam như Hiệp định Geneve năm 1954 đã công nhận". Thế nhưng báo
chí của nhà nước VC lại hoẵng lên rằng, "đó là chiến thắng ngoại giao, và
Miền Bắc được quyền giữ nguyên lực lượng quân sự tại chiến trường Miền
Nam". Đây quả là một sự lươn lẹo có một không hai!
Tương tự như vậy, Điểm a, Khoản 3 của
Hiệp định Paris năm 1973 viết rằng: "các bên cam kết giữ vững ngừng bắn,
bảo đảm hoà bình lâu dài và vững chắc. Bắt đầu từ khi ngừng bắn, các lực lượng
của Hoa Kỳ và nước ngoài giữ nguyên vị trí của mình chờ đợi rút quân hoàn toàn
khỏi Việt Nam". Cho tới hôm nay, không ai có thể biết được bên nào đã vi
phạm lệnh ngừng bắn trước. Nhưng với việc đưa quân ồ ạt tấn công VNCH sau hiệp
định Paris, Bắc Phần đã công khai việc bội ước với chữ ký của chính họ. Chẳng
có chiến thắng ngoại giao nào ở đây. Nếu không có việc ký hiệp định thì họ vẫn
sẽ tiến đánh quyết liệt VNCH.
Người ta thấy rõ rằng, khi VNCH mất đi
người đồng minh Hoa Kỳ trong chiến trận thì họ đã mất tinh thần. Đặc biệt với
câu nói của cựu tổng thống Nguyễn Văn Thiệu: "Nếu Hoa Kỳ mà không viện trợ cho chúng tôi nữa thì không phải một vài
ngày hay một vài tháng, hay một năm, mà chỉ sau 3 giờ,chúng tôi sẽ rời khỏi
Dinh Độc Lập" (Wikipedia), chúng ta thấy rằng tư tưởng độc lập hành
động đã bị đốt cháy. Trong chiến tranh, ngoài mưu lược, gặp thời, và có thần
may mắn phù hộ thì yếu tố liều chết cũng chính là một trong những yếu tố làm
nên chiến thắng!
Cùng với việc "ăn mừng chiến thắng
30/4" nhà nước Việt Nam Cộng Sản tỏ ra vẫn không hề thay đổi trong luận
điệu mị dân về cuộc xâm lược đẫm máu VNCH. Chẳng hiểu tại sao khi đất Việt
trong tay người Việt thì nhất định "đốt cả dãy Trường Sơn" để giải
phóng cho được. Còn khi biển đảo, đất trời Việt rơi vào tay Trung Cộng thì lãnh
đạo ĐCSVN lại nhất định "ta không được vong ân bội nghĩa" vì Bắc Kinh
"chỉ yêu cho roi cho vọt chúng ta thôi". Cố tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu từng nói: "Đừng nghe những gì Cộng Sản nói, hãy nhìn
những gì họ làm" - Quả nhiên đúng như vậy!
- Phụ lục:
Người Mỹ và cuộc chiến tranh Nam-Bắc VN
dưới góc nhìn của người ngoài cuộc
No comments:
Post a Comment