Tiến sỹ Ralf Berhorst
Phan Ba dịch từ chuyên san lịch sử “Trung Quốc của
Mao Trạch Đông” do GEO EPOCHE xuất bản
Trang này hiện đang bao gồm các chương sau đây:
Tên cướp đỏ: 1921 – 1931: lần thăng tiến của Mao
Con người chuyên quyền kia: Tưởng Giới Thạch
Cuộc chạy trốn qua núi: 1934 – 1935: “Vạn lý Trường chinh”
Địa ngục Nam Kinh: Cuộc thảm sát tại Nam Kinh
Trận đấu tay đôi vì Trung Quốc: 1946 – 1949: nội chiến
Khởi hành vào một kỷ nguyên mới: 1940 – 1954: cải tạo Xã hội Chủ nghĩa
Cuộc chiến chống Mỹ: 1950 – 1953: Chiến tranh Triều Tiên
Trận đấu tay đôi vì Trung Quốc
1946 – 1949: nội chiến
Johannes
Schneider
Phan Ba dịch từ chuyên san lịch sử “Trung Quốc của Mao Trạch Đông” do GEO
EPOCHE xuất bản
Người Quốc gia và người Cộng sản tranh giành quyền lực từ năm 1927 – chỉ
lần người Nhật tiến vào là đã có thể bắt buộc họ liên kết lại với nhau. Sau Đệ
nhị thế chiến, mối kình địch của các địch thủ ngày xưa lại bùng nổ ra.
Trước khi bay đến thành phố của kẻ tử thù Tưởng Giới
Thạch của mình, Mao đứng cho chụp ảnh, ông ấy cười mỉm: người lãnh tụ của ĐCS
Trung Quốc cố che đậy sự sợ hãi của mình.
Mao đã ngần ngừ cả một thời gian dài, đã từ chối lời mời
của Tưởng Giới Thạch, thế nhưng cuối cùng, sau bức điện tín thứ ba, ông ấy cũng
nhượng bộ và nhận lời.
“Người em của anh đang chuẩn bị để đến càng sớm càng tốt”,
ông ấy trả lời Tưởng với sự lịch sự truyền thống ở Viễn Đông. Ông phải bay về
Trùng Khánh – vào trung tâm quyền lực của Quốc Dân Đảng của Tưởng.
Bây giờ, vào ngày 28 tháng 8 năm 1945, ngay trước khi
khởi hành, Mao đang hồi hộp. Ông ôm chầm lấy đứa con gái bé nhỏ của mình, hôn
vợ từ giã. Ông cần phải vượt khoảng cách tròn 800 kilômét từ Diên An ở giữa
Trung Quốc, căn cứ chính của những người Cộng sản, về đến Trùng Khánh nằm ở
phía Nam bằng một chiếc máy bay cánh quạt mà Tưởng đã gửi đến cho ông.
Nhưng Mao, 51 tuổi, chưa từng bao giờ bay. Ông không tin
vào kỹ thuật đấy, sợ rằng máy bay có thể bị phá hoại trước. Vì thế nên ông
khăng khăng đòi Patrick Hurley, đại sứ Hoa Kỳ ở Trung Quốc, đi cùng với ông
trong chuyến đi này. Người Mỹ là đồng minh của Tưởng. Có Hurley bay cùng, Mao
cảm thấy yên tâm hơn.
Trên không, ông cố tìm cách sao lãng, viết một bài thơ.
Và thật sự thì chuyến bay diễn ra bình an vô sự, và sau một vài giờ, Mao đã
nhìn thấy dãy núi quanh Trùng Khánh.
Trên sân bay, một phái đoàn của Tưởng đón tiếp ông.
Hurley giới thiệu nhiều đại diện của chính phủ Quốc Dân Đảng cho Mao; người
lãnh đạo ĐCS bắt tay, lại cười. Các nhà báo muốn biết ông nghĩ gì về máy bay.
Mao ra vẻ từng trải: “Rất hiệu quả.”
Hẳn là không có quốc gia nào chăm chú theo dõi cuộc gặp
gỡ giữa Mao và Tưởng như Hoa Kỳ – vì người Mỹ muốn có một Trung Quốc thống nhất
là đồng minh ở châu Á.
Lần cuối cùng mà Mao ở trong một thành phố lớn như Trùng
Khánh cách đây đã lâu rồi. Ở Diên An ông ấy sống trong một hang động qua những
năm vừa rồi; bây giờ Hurley chở ông trên một chiếc Cadillac đến một ngôi nhà
đầy tiện nghi.
Ngay sau đấy, hai đối thủ đứng đối diện nhau trong buổi
ăn tối. Tưởng – khổ hạnh, gầy, đầu cạo trọc – mặc một bộ quân phục không chê vào
đâu được; Mao mặc một chiếc áo khoác nhăn nheo. Từ 20 năm nay, đó là lần đầu
tiên mà hai người đàn ông này nhìn vào mắt nhau.
Vào cuối buổi gặp gỡ, Mao nâng ly chúc người chủ nhà, gọi
to: “Tưởng Giới Thạch muôn năm!”
Người đàn ông, người mà ông Chủ tịch uống để chúc tụng
sức khỏe, đã săn lùng những người Cộng sản của ông ấy xuyên qua khắp cả đất
nước. Ông ấy đã cho giết chết hàng chục ngàn người theo Mao. Từ khi Tưởng được
bầu làm lãnh tụ của Trung Quốc Quốc Dân Đảng năm 1925, ông không theo đuổi một mục
đích nào kiên trì nhiều năm hơn là tiêu diệt Đảng Cộng sản.
Nhưng bây giờ Mao và Tưởng tỏ ra thống nhất, cười, nâng
ly chúc tụng nhau, đưa tay ra cho nhau. Nhưng đó không phải là một sự thay đổi
ý kiến, cái mang họ lại với nhau, không phải niềm mong muốn có hòa bình. Mà là
áp lực từ bên ngoài.
Đã một lần, tám năm trước đó, cả hai đối thủ này đã bắt
buộc phải liên kết lại với nhau. Liên minh thời đó chỉ tồn tại được một thời
gian ngắn.
THÁNG 12 NĂM 1936. Trong Quốc Dân Đảng,
những lời yêu cầu người đàn ông đầy quyền lực của Trung Quốc, Tưởng Giới Thạch,
hãy đánh đuổi người Nhật ra khỏi đất nước, ngày càng to tiếng hơn.
Tưởng Giới Thạch, sếp của Quốc Dân Đảng, từ 1928 là nhà lãnh đạo quân đội
nhiều quyền lực nhất của Trung Quốc. Hoa Kỳ dựa vào ông ấy, giúp đỡ quân đội
của ông ấy bằng tiền và vũ khí. Ảnh: GEO EPOCHE
Từ năm 1931, đảo quốc đấy chiếm giữ Mãn Châu, một vùng
đất ở miền Đông Bắc của Trung Quốc. Năm 1932, người Nhật lập một chính phủ bù
nhìn ở đấy và từ lúc đó đã kiểm soát nhiều vùng rộng lớn ở miền Bắc của Trung
Quốc.
Nước Nhật là quốc gia hùng mạnh nhất châu Á, những người
lãnh đạo nó muốn ngang hàng với các cường quốc châu Âu và thành lập một nước
thuộc địa – với Trung Quốc là cốt lõi. Lực lượng chiếm đóng hành hạ người dân
trong những vùng đất bị xâm chiếm, phá bỏ trường học, đại học, thánh vật của
họ.
Trung Quốc trong thời gian này là một đất nước bị chia rẽ
về chính trị và lãnh thổ. Ở đấy có người Nhật, đã xâm chiếm được miền Bắc; ở
đấy là những người Quốc gia của Tưởng, thống trị các vùng đất rộng lớn ở miền
Nam và miền Đông; ở đấy là những người Cộng sản, đã nắm giữ được nhiều lãnh địa
ở miền Trung của nước này, trong số đó là căn cứ chính của họ ở Diên An; và còn
một vài warlord nữa, những nhà cầm quyền địa phương, kiểm soát các miền đất
rộng lớn ở phía Tây.
Từ nhiều tháng nay, các tướng lĩnh của Quốc Dân Đảng thúc
giục Tưởng đừng chấp nhận cứ bị Tokyo làm nhục mãi. Thế nhưng người này không
muốn tiến hành chiến tranh chống lại những kẻ chiếm đóng: ông ấy hoài nghi rằng
quân đội của ông có thể đương đầu được với đối thủ. Thêm vào đó, ông muốn dùng
quân đội của mình đế chống lại ĐCS hơn.
Ngược lại, Mao lâu nay đã yêu cầu Tưởng hãy cùng nhau
chống lại nước Nhật. Quyền lợi của quốc gia bây giờ quan trọng hơn là cuộc đấu
tranh giai cấp. Nhưng cho tới nay, lời yêu cầu của ông ấy không được xem xét
đến.
Nhưng rồi vào tháng 12 năm 1936, hai tướng của Quốc Dân
Đảng dụ Tưởng Giới Thạch về thành phố Tây An của hoàng đế và bắt giam ông ở
đấy: họ muốn bắt buộc ông phải liên kết với những người Cộng sản. Sau hai tuần
bị quản thúc tại gia, Tưởng nhượng bộ.
Các cuộc thương lượng với ĐCS kéo dài nhiều tháng trời.
Chu Ân Lai, người được Mao tin cậy nhất, thường xuyên gặp Tưởng để trao đổi –
hoài công. Con người chống Cộng sản quyết liệt đấy cố gắng gây trở ngại cho
cuộc thống nhất bằng cách liên tục đưa ra các yêu cầu mới, ví dụ như quyền tổng
chỉ huy các lực lượng thống nhất.
Ngay lúc Mao đe dọa hủy bỏ các cuộc đối thoại, người Nhật
viện cớ một cuộc chạm trán nhỏ ở gần Bắc Kinh trong tháng 7 năm 1937 để tiếp
tục tiến sâu vào Trung Quốc. Bây giờ thì Tưởng phải từ bỏ chiến thuật kéo dài
thời gian của ông ấy, mối đe dọa cho toàn bộ đất nước trở nên quá lớn.
Và vì thế mà từ lúc đấy trở đi, những người Quốc gia và
những người Cộng sản cùng nhau chống lại kẻ xâm lược.
Mặc dù vậy, họ vẫn bị bất ngờ bởi vận tốc tiến công của
quân địch: người Nhật chiếm Thượng Hải trong tháng 11, chiếm Nam Kinh vài tuần
sau đó, trụ sở chính phủ của Quốc Dân Đảng. Tưởng và các thành viên của bộ máy
hành chính ông ấy chạy về Trùng Kháng.
Những người xâm lược hoành hành trong Nam Kinh. Quân lính
Nhật làm ô nhục thành phố bảy tuần liền. Hơn 70.000 người bị giết chết.
Cuộc thảm sát đấy là màn mở đầu cho một cuộc chiến hầu
như không thể nào tàn bạo hơn được nữa: cuộc kháng chiến đã cướp đi ít nhất là
15 triệu sinh mạng người Trung Quốc. Trong diễn tiến của nó, các tư lệnh người Nhật
đã nghĩ ra một phương cách mà họ gọi là “ba lần tất cả”: cướp hết tất cả, đốt
cháy hết tất cả, giết chết hết tất cả.
Năm 1937 quân đội Trung Quốc thất bại trong tất cả các trận đánh chống
người Nhật, như ở đây trước Thượng Hải. Chỉ những người Cộng sản mới mang lại
chiến bại cho những kẻ đang tấn công năm 1938 – nhờ chiến thuật du kích của họ.
Ảnh: GEO EPOCHE
Trong vòng một năm, quân đội của Tokyo chiếm toàn bộ Đông
Trung Quốc, giữ tất cả các thành phố công nghiệp và thương mại quan trọng cũng
như vùng đất nông nghiệp màu mỡ nhất. Thế nhưng người Trung Quốc không đầu
hàng.
Từ Trùng Khánh, Tưởng chỉ huy cuộc kháng chiến, liên tục
lôi kéo người Nhật vào những trận đánh mới. Để trì hoãn cuộc tiến quân của họ,
ông ấy cho phá đê trong nội địa: trận lụt làm ngập nhiều tỉnh, hàng trăm ngàn
người Trung Quốc chết.
Trong khi người của Quốc Dân Đảng tiến hành những trận
đánh lớn, nhiều tổn thất, để chống người Nhật thì người Cộng sản tấn công kẻ
địch ở phía sau mặt trận: từ tỉnh Thiểm Tây là nơi trú ẩn của họ, họ tấn công
đường tiếp tế của người Nhật với những đơn vị nhỏ, linh hoạt, bắn các đoàn xe,
phá đường tàu hỏa.
Sâu trong lãnh thổ của kẻ địch, họ thành lập căn cứ mới
và động viên người dân đứng lên chống những kẻ đang chiếm đóng. Vì người Nhật
không có khả năng kiểm soát toàn bộ các vùng đất đã chiếm được – Trung Quốc quá
rộng.
Tưởng nghi ngại theo dõi các hoạt động của người Cộng
sản: trong khi vùng đất dưới quyền của ông ấy thu nhỏ lại thì dường như những
người đồng minh lại hưởng lợi từ cuộc chiến. Họ dùng cuộc chiến tranh phòng ngự
của họ ở phía sau chiến tuyến của người Nhật để tự phô diễn mình trước quần
chúng như là những người yêu nước thật sự, và thêm vào đấy lại giảm bớt sự đóng
góp cho những người nông dân nghèo nhất.
Với thành công: chẳng bao lâu sau đó, con số những người
theo Cộng sản tăng vọt, cả lãnh thổ do họ kiểm soát cũng rộng lớn hơn nhiều, du
kích quân của họ ngày càng có sức chiến đấu cao hơn.
Khi người của Mao còn bắt đầu chiếm cứ những ngọn núi ở
phía Nam của Trường Giang – một vùng đất của những người Quốc gia –, quân đội
Quốc Dân Đảng tấn công người đồng minh trong tháng 1 năm 1941, bắt buộc họ phải
lui về phía Bắc. 3000 Hồng quân đã chết trong các trận đánh này. Bằng mọi giá,
Tưởng muốn ngăn không cho người Cộng sản lan rộng ra.
Đối với Mao, cuộc tấn công đó rõ ràng là đã phá vỡ “mặt
trận thống nhất”, hai tháng sau đó, ông tuyên bố chấm dứt liên minh.
Hai đối thủ bây giờ ra mặt trở thành địch thủ. Và cả hai
đều đã có kế hoạch cả cho thời gian sau chiến tranh. Như Mao ra lệnh cho các
viên chỉ huy của ông ấy không đưa hết toàn bộ các đơn vị vào trong cuộc chiến
chống người Nhật. Quan trọng hơn về lâu dài là phải xây dựng một đạo quân có
sức chiến đấu cao.
Nhưng ngay cả khi những người Cộng sản không hy sinh tất
cả trong cuộc chiến chống người Nhật: những cuộc tấn công theo lối du kích của
họ cũng góp phần quyết định để cho Trung Quốc có thể chống cự được với một địch
thủ hùng mạnh. 53 tháng trời.
Thế rồi, vào sáng sớm ngày 7 tháng 12 năm 1941, người
Nhật gửi 378 chiếc máy bay chiến đấu đến hòn đảo núi lửa Oahu ở Hawaii, đến
cảng chính của Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ: Pearl Harbor.
Các chỉ huy ở Tokyo đã quyết định tấn công Hoa Kỳ, thế
lực mà từ nhiều năm nay đã cho Tưởng, đối thủ của họ, vay bạc triệu; thế lực mà
họ đã cảnh cáo một cách dứt khoát rằng không nên tiếp tục bành trướng ở châu Á
nữa; và thế lực mà từ một vài tháng nay đã ban hành lệnh cấm vận dầu hỏa đối
với đảo quốc của họ, điều bây giờ đang đe dọa làm tê liệt quân đội của Nhật
hoàng.
Quyết định tấn công Pearl Harbor của người Nhật cũng được
đưa ra bởi vì cuộc chiến chống Trung Quốc không thể kết thúc một cách nhanh
chóng bằng một chiến thắng được – và nó là một quyết định sai lầm lớn. Vì chỉ
một ngày sau cuộc tấn công, Hoa Kỳ tuyên chiến công khai với đế chế. Bây giờ
Trung Quốc có một cường quốc đứng cạnh mình.
Hoa Kỳ lo liệu sao cho Liên bang Xô viết và Liên hiệp Anh
công nhận Trung Quốc là nước lớn và nhận đất nước này thêm vào nhóm tay ba đặc
biệt của họ: bắt đầu từ năm 1942, từ câu lạc bộ của “Ba nước lớn”, các đồng
minh quan trọng nhất trong cuộc chiến chống phe Trục của Đức, Ý và Nhật, đã trở
thành “Bốn nước lớn”.
Trước khi Hoa Kỳ bước vào cuộc chiến, mục đích duy nhất
của Quốc Dân Đảng là cố chống đỡ. Bây giờ thì dường như việc chiến thắng nước
Nhật chỉ còn là câu hỏi về thời gian. Và Tưởng làm tất cả mọi việc để sau khi
chiến thắng, ông ấy sẽ là người thống nhất Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của
mình.
Ông luôn yêu cầu Hoa Kỳ giúp đỡ về mặt quân sự. Ông bi
kịch hóa tình hình, nói rằng những lần cung cấp vũ khí – xe tăng, xe tải, đại
bác, máy bay – là không đủ, ông còn cần nhiều hơn nữa.
Người Mỹ huấn luyện quân đội Tưởng, cấp tiền xây dựng
đường băng cho máy bay chiến đấu loại mới. Năm 1944, họ còn thành công trong
việc bảo đảm cho Trung Quốc có một ghế thường trực trong Hội đồng Bảo an sắp
được thành lập của Liên Hiệp Quốc.
Nhưng Tưởng không thể ngăn cản được việc một phái đoàn
của Hoa Kỳ bay đến Diên An trong cùng năm, để gặp Mao và những người trung
thành với ông ấy – cuối cùng thì cả những người Cộng sản cũng chiến đấu chống
Nhật Bản, và người Mỹ tìm cách thống nhất tất cả các lực lượng Trung Quốc – nếu
có thể thì dưới quyền lãnh đạo của một viên tổng chỉ huy người Mỹ.
Mao, người hy vọng sẽ nhận được vũ khí từ Washington,
xuất hiện trước những người khách đến thăm trong Diên An, nơi phần lớn đã bị
phá hủy bởi bom của người Nhật, như một nhà cải cách dung hòa chứ không phải là
một nhà cách mạng cực đoan.
Ông chào mừng phái đoàn với một dàn nhạc quân đội, xin
lỗi vì những ổ gà trên đường băng, cho phép những người đến thăm tự do đi lại
trong trung tâm quyền lực của ông ấy. Ông ấy cho xe tải chở người Mỹ đến nơi cư
ngụ của họ: hang động được đào sâu vào trong sườn núi dốc.
Vấn đề quan trọng nhất của ông ấy là lo cho người dân ở
nông thôn được tốt hơn, Mao giải thích cho những người khách của ông ấy.
Ông ấy giữ kín những tiết học chính trị mà trong đó cán
bộ của ông ấy giảng dạy cho người nông dân về các lý thuyết của Chủ nghĩa Cộng
sản Xô viết. Ông ấy cũng dấu cả việc những thành viên mới của chính phủ không
chính thức của ông ấy buộc phải đọc những bài luận văn về ý thức hệ ba tháng
trời, do Stalin, Lenin và chính ông viết.
Thêm vào đó, ông cũng giấu giếm việc sử dụng các hình
thức tra tấn để khuất phục những người hoài nghi đường lối chính trị của ông ấy
– và cũng không nói về việc ông khuyến khích sự tôn sùng cá nhân của ông ấy, kể
từ khi ông cũng chính thức nhận lĩnh sự lãnh đạo của ĐCS với chức vụ Chủ tịch
Bộ Chính trị và Chủ tịch Ban Bí thư năm 1943.
Ông ấy thích phô trương nhà trẻ hơn nhiều, nhà trẻ mà họ
đã xây dựng trong Diên An. Và nói về việc dân chủ mang tầm quan trọng đối với
ông như thế nào. Những người khách đến thăm bị gây ấn tượng.
Nhưng Tưởng dứt khoát chống lại các đề nghị hỗ trợ Mao
mạnh hơn nữa của người Mỹ.
Và không có sự đồng ý của ông ấy thì người Mỹ không bước
thêm bước tiến nào để đến với những người Cộng sản. Con người Dân tộc Chủ nghĩa
đó – sự tính toán là như thế – cần phải là đối tác đáng tin cậy của họ cả cho
thời gian sau khi nước Nhật đã bại trận.
Nhưng điều đấy không có nghĩa là họ hé lộ kế hoạch của họ
cho ông ấy biết. Vì khi quả bom nguyên tử đầu tiên của lịch sử rơi xuống
Hiroshima vào ngày 6 tháng 8 năm 1945, Tưởng – cũng như Mao – vẫn còn chuẩn bị
tinh thần cho một cuộc chiến kéo dài nhiều năm chống lại láng giềng phía Đông.
Ông ấy hoàn toàn không biết gì về vũ khí kỳ diệu của Hoa Kỳ cả.
Vẫn còn mang ấn tượng về lực tàn phá của loại bom mới của
người Mỹ, Tưởng trải qua lần quân đội Xô viết tấn công người Nhật ở Mãn Châu
vào ngày 8 tháng 8: tại Hội nghị Malta trong tháng 2 năm 1945, Stalin đã hứa
với người Mỹ rằng trong vòng ba tháng sau khi chiến thắng Hitler, ông ấy sẽ
bước vào cuộc chiến ở Thái Bình Dương. Bây giờ, nhà độc tài đấy thực hiện lời
hứa và gửi quân đội của ông ấy đến để chống lại một địch thủ mà sau cơn sốc
Hiroshima đã gần như bại trận.
Chỉ một ngày sau khi chiến dịch tấn công của Xô viết bắt
đầu, ba ngày sau Hiroshima, quả bom nguyên tử thứ hai của Hoa Kỳ nổ tung trong
Nagasaki, và vào ngày 15 tháng 8, Tưởng – người đang ăn tối với đại sứ Mexico ở
Trùng Khánh – biết rằng Hoàng đế Hirohito đã tuyên bố đầu hàng trong radio.
Tám năm liền, Tưởng đã chiến đấu chống lại người Nhật
hùng mạnh hơn, chiến tranh dường như đã trở thành việc thường ngày. Thế nhưng
bây giờ bất thình lình lại là hòa bình (trong những năm trước đó, người tướng
lĩnh này đã lôi kéo cả các viên tư lệnh về phía mình: bằng áp lực hay với lời
hứa hẹn một chức vụ cao trong quân đội của ông ấy; bây giờ chỉ còn người Cộng
sản là chưa nằm dưới sự kiểm soát của ông ấy)
Chế độ của Tưởng cố ngăn chận một cách dã man không cho người dân chạy đến
với người Cộng sản: năm 1948, địch thủ bị bắt ở Thượng Hải bị hành quyết công
khai trên đường phố bằng cách bắn vào đầu. Ảnh: GEO EPOCHE
Ở Mãn Châu, từ 1931 trong tay người Nhật, khoảng 900.000
người lính bắt đầu rút quân; trong phần Trung Quốc còn lại, trước hết là ở vùng
bờ biển phía Đông, cả 1,25 triệu quân lính chiếm đóng bây giờ cũng rời khỏi đất
nước này.
Để người của Tưởng có thể tiếp nhận được lần đầu hàng của
người Nhật, trong vòng hai tháng người Mỹ đã cho máy bay chở hơn 110.000 người
lính và sĩ quan của Quốc Dân Đảng đến những vủng bị chiếm đóng trước đây: Mãn
Châu cũng như các thành phố lớn của Trung Quốc.
Những người chiếm đóng trước đây chỉ được phép đầu hàng
họ, Tưởng ra lệnh.
Nhưng những người Cộng sản cũng vội vã đi vào các tỉnh,
thành phố và làng mạc, ở những nơi mà các thống đốc người Nhật đang chờ để ký
văn kiện đầu hàng.
Đó là một cuộc chạy đua giữa ĐCS và Quốc Dân Đảng, về
việc ai được phép đại diện cho quyền lực nhà nước – bây giờ, vì trong nước đã
mở ra một khoảng chân không quyền lực khổng lồ.
Hoa Kỳ cố gắng thúc đẩy các đối thủ đi đến một giải pháp
chung. Họ muốn có một đối tác Trung Quốc mạnh và thống nhất, cũng là đối trọng
với Liên bang Xô viết. Và họ biết rằng mâu thuẫn giữa Quốc Dân Đảng và những
người Cộng sản có thể đẩy đất nước này vào một cuộc nội chiến.
Vì thế mà trong tháng 8 năm 1945, đại sứ Hoa Kỳ Hurley đã
thúc giục Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch đi đến những cuộc hội đàm hòa bình
ở Trùng Khánh.
VÀ THẬT SỰ: bảy tuần sau khi Mao đến Trùng
Khánh, đông đảo người dân đã vui mừng reo hò trên đường phố của thủ đô Trung
Quốc. Các cuộc thương lượng kéo dài 43 ngày, Tưởng và Mao đã trực tiếp gặp nhau
bốn lần để bàn về các hồ sơ do nhân viên thương lượng dưới quyền trình lên.
Vào ngày 10 tháng 10, cuối cùng hai người đã ký tên vào
một văn kiện mà trong đó họ tuyên bố ý định sẽ thống nhất lực lượng quân đội
của họ; thêm vào đó, họ muốn triệu tập một hội nghị nhằm đưa ra một Hiến Pháp
mới cho Trung Quốc.
Cả hai người đàn ông tươi cười rạng rỡ sau khi ký vào văn
kiện và ăn mừng.
Thế nhưng khi Mao trở về đến Diên An, ông bị chứng tim
đập nhanh và choáng váng, ông nằm xuống giường nhưng không nghỉ ngơi được, toát
mồ hôi, run cả người. Con người lãnh đạo ĐCS dễ bị stress gây bệnh, và bây giờ
ông ấy căng thẳng tới mức thân thể của ông nổi loạn.
Ông biết rằng cuộc đấu tranh giành Trung Quốc bây giờ chỉ
vừa mới bắt đầu.
Ngay trước khi khởi hành đến Trùng Khánh, Mao đã chỉ thị
cho những người đồng chí của ông ấy nắm lấy quyền chỉ huy trong càng nhiều vùng
đất càng tốt, ngay cả trong lúc đang thương lượng. Vì cuộc gặp gỡ Tưởng Giới
Thạch đối với ông trước hết chỉ là một sự nhượng bộ Hoa Kỳ: một mưu mẹo để
không đứng đấy như một người cản trở sự thống nhất trong hòa bình.
Mao không tin Tưởng. Nếu như không có Hoa Kỳ, ông ấy
phỏng đoán như thế, thì kẻ thù không đội trời chung của ông ấy đã tiến công từ
lâu, để tiêu diệt ông.
Và vì thế mà cuộc chạy đua tranh giành vùng ảnh hưởng
càng rộng càng tốt cũng diễn ra trong thời gian ngưng bắn chính thức, người
Quốc gia và người Cộng sản tiếp tục việc mà họ đã làm chậm nhất là kể từ khi
người Nhật đầu hàng: chuẩn bị cho trận đại chiến cuối cùng.
Trong những tháng tiếp theo sau đó thường xuyên xảy ra
những trận đánh nhỏ giữa quân đội Quốc gia và Cộng sản. Những người Cộng sản
tấn công trước hết là trong vùng Mãn Châu phát triển cao về công nghiệp, phá
hủy đường ray cũng như cột điện tín theo lối đánh du kích đã có nhiều kinh
nghiệm – và qua đó gây khó khăn cho Quốc Dân Đảng trong việc lấy lại quyền kiểm
soát ở miền Bắc Trung Quốc.
Dù Tưởng và Mao có cam đoan muốn hòa bình đi nữa – thật
sự là cả hai đều nói dối.
Tuy Hoa Kỳ vẫn tiếp tục cố gắng làm trung gian: Tổng
thống Harry S. Truman gửi George Marshall đến Trung Quốc, một trong những nhà
ngoại giao tài giỏi nhất của ông ấy (người sau này sẽ phát triển kế hoạch tái
xây dựng châu Âu được gọi theo tên mình).
Nhưng khi người Cộng sản không tham dự hội nghị ban hành
Hiến Pháp do Quốc Dân Đảng triệu tập vào cuối năm 1946 thì cuối cùng người ta
cũng biết chắc rằng sẽ không có sự hợp nhất về chính trị.
Mao không muốn là đối tác nhỏ hơn của Quốc Dân Đảng. Ông
ấy muốn thống trị toàn Trung Quốc.
Tháng 1 năm 1947, George Marshall thất vọng trở về Hoa
Kỳ, và ngay trong cùng tháng đó, Bộ Ngoại giao Mỹ tuyên bố trong một bản thông
tin báo chí gồm mười dòng, rằng họ đã gọi về tất cả các nhà ngoại giao có nhiệm
vụ làm trung gian giữa Tưởng và Mao.
Washington không còn hy vọng có được một giải pháp hòa
bình. Cuộc đấu tranh giành quyền thống trị Trung Quốc bước vào giai đoạn quyết
định. Đó là về quyền thống trị nửa tỉ con người, tròn mười triệu kilômét vuông
đất.
Về quyền thống trị dân tộc lớn nhất thế giới.
NGAY LẬP TỨC Tưởng đẩy quân đội của mình lên
phía Bắc. Mặc dù người Cộng sản đã mạnh lên trong cuộc chiến chống Nhật, mở
rộng lãnh thổ của họ; bây giờ quân đội của họ đã có gần một triệu người cầm
súng. Thêm vào đó, quân đội Xô viết, lực lượng lại rút khỏi Mãn Châu trong
tháng 3 năm 1946, đã để lại cho họ toàn bộ xe tăng, máy bay và súng ống mà họ
đã lấy được từ người Nhật.
Năm 1946, khi cuộc nội chiến bùng nổ, quân đội của Tưởng hơn Hồng Quân gấp
ba lần. Họ đã có thể nhanh chóng chiếm nhiều vùng rộng lớn ở miền Bắc Trung
Quốc. Ảnh: GEO EPOCHE
Thế nhưng người của Mao thường không biết phải sử dụng vũ
khí của người Nhật như thế nào. Và với 3,5 triệu người, những người Quốc gia có
gần gấp bốn lần quân lính và thêm vào đó là sử dụng trang bị hiện đại của người
Mỹ.
Khi Quốc Dân Đảng chiếm Diên An đã bị người Cộng sản bỏ
đi trong tháng 3 năm 1947, nhiều nhà quan sát đã nhìn thấy kết cuộc của cuộc chiến
đang tiến đến gần.
Người Cộng sản phần lớn đã lui về miền Bắc của Mãn Châu,
dưới áp lực của những người Quốc gia, họ đã phải bỏ hơn 150 thị trấn – và bây
giờ là cả trung tâm quyền lực trước đây của họ nữa. Nhiều năm trời, Mao từ
thành phố trong núi này đã lãnh đạo Đảng Cộng sản; nó là căn cứ quân sự của ông
ấy và đồng thời cũng là nơi giáo dục tư tưởng.
Tưởng cho máy bay chở mình đến trung tâm chỉ huy lúc
trước của Mao, thăm hai hang động được trang bị đơn sơ mà đối thủ của ông đã
viết những bài luận về triết học và làm thơ ở trong đó.
Lầm chiếm được Diên An là một thành công lớn về tuyên
truyền cho những người Quốc gia: hân hoan khắp nơi trong Nam Kinh, thành phố mà
bây giờ lại chính thức là trụ sở chính phủ của Quốc Dân Đảng.
Nhưng Mao, kịp thời rời thành phố trên một con ngựa, vẫn
bình thản (một điệp viên đã cảnh báo trước cuộc tấn công sắp được tiến hành của
những người Quốc gia cho ông). Bây giờ, ông ấy rút về phía bắc của tỉnh Thiểm
Tây và đưa ra chiến lược đấu tranh chiếm vùng Mãn Châu.
Mãn Châu, theo Mao, giống như một cái ghế bành tiện lợi:
với các quốc gia Cộng sản Mông Cổ và Triều Tiên như tay ghế – và Liên bang Xô
viết như lưng ghế. Ông muốn dụ Tưởng, muốn khiến cho ông ta kéo căng chiến
tuyến ra quá dài. “Chúng ta cho Tưởng Diên An, ông ấy sẽ cho chúng ta Trung
Quốc”, ông trấn an các viên chỉ huy đang lo lắng.
Quả thật, quân đội Tưởng đã không còn khả năng đáp ứng
bởi cuộc tiến quân đã diễn ra quá nhanh chóng; thay vì củng cố quyền lực của
mình ở miền Nam và miền Trung Trung Quốc, ông ấy muốn chiến thắng Mao một cách
nhanh chóng – và xem nhẹ các vấn đề được cho rằng không quan trọng bằng các
thành công về quân sự.
Đảng của Tưởng, Quốc Dân Đảng, do Tôn Dật Tiên thành lập
năm 1912 để đại diện cho toàn thể người dân, đã trở thành một đảng của giới
tinh hoa dưới sự lãnh đạo của ông ấy. Người hỗ trợ họ là chủ ngân hàng và
thương gia trong các thành phố. Quốc Dân Đảng có nền tảng quyền lực của họ ở
đó, trong các trung tâm tài chính ở miền Nam và miền Đông Trung Quốc.
Nhưng sau khi người Nhật rút lui, các thành phố lớn của
Trung Quốc nằm trong một tình trạng đổ nát. Người Nhật không những áp đặt một
loại tiền tệ riêng cho chính phủ bù nhìn ở Bắc Kinh mà cũng phát hành các loại
tiền tệ địa phương khác nhau trong những vùng do họ chiếm đóng.
Bây giờ, khi những người Quốc gia trở về các thành phố,
sự tồn tại song song của đồng “fabi” của họ và các loại tiền tệ của người chiếm
đóng trước đây đã gây ra hỗn loạn. Với những cú đánh cược của mình, giới đầu cơ
tài chính còn làm cho giá cả càng khác nhau nhiều hơn từ thành phố này sang
thành phố khác, và qua đó làm cho thương mại càng khó khăn hơn.
Thêm vào đấy, thường vẫn còn chưa rõ là các cửa hàng và
doanh nghiệp được người Nhật quản lý trước đây bây giờ thật ra là thuộc về ai –
và cho tới khi tình trạng sở hữu được giải quyết thì người ta đã mất nhiều thời
gian quý báu. Nạn thất nghiệp tăng lên, cũng vì sau khi chiến thắng nước Nhật,
Tưởng phải cắt giảm sản suất trong các nhà máy chế tạo vũ khí được nhà nước tài
trợ.
Câu trả lời của chính phủ ông ấy cho các vấn đề cấp bách
của kinh tế và tài chính thật đơn giản cũng như có nhiều hậu quả: họ in nhiều
tiền hơn – và qua đó góp phần làm cho lạm phát tăng vọt, cái đã là một vấn đề
từ nhiều năm nay.
Từ năm 1945 đến 1947, giá lương thực thực phẩm ở Thượng Hải
tăng lên gấp 30 lần. Những người chủ phải đi qua các cửa hàng của mình nhiều
lần trong một ngày để thay đổi bảng giá.
Những người công nhân mà tiền lương của họ không còn có
giá trị gì nữa đình công ngày càng thường xuyên hơn; khi công nhân viên của các
nhà máy điện Thượng Hải đình công, các bên đang tranh cãi với nhau phải thương
lượng dưới ánh nến.
Quốc Dân Đảng cố gắng kìm chế lạm phát bằng cách ấn định
giá cả bằng luật lệ; họ phân phát phiếu lương thực, lại phát hành một loại tiền
mới: đồng nhân dân tệ vàng. Nhưng đồng tiền này cũng không thể ngăn chận được
việc nước Cộng hòa Trung Hoa rơi dần dần về mức thương mại hàng đổi hàng.
Các cải cách của ngưởi Quốc gia cũng thất bại bởi vì tham
nhũng đã làm cho Quốc Dân Đảng bị hư hỏng. Thành viên cấp cao của Đảng biển thủ
tiền thuế, cả ở nông thôn, nơi mà thật ra bây giờ người Quốc gia cần phải chiếm
được thiện cảm của người dân ở đó.
Tưởng đưa người từ bộ máy Đảng của ông ấy về những thị
trấn và làng mạc hẻo lánh, những nơi mà chính phủ trung ương của ông ấy nắm
được quyền kiểm soát sau khi thời chiếm đóng của người Nhật chấm dứt và người
Cộng sản rút lui về phương Bắc.
Nhưng các thị trưởng Quốc gia thường ít hiểu biết về tình
trạng ở địa phương, và thường cũng không quan tâm đến những điều đấy. Họ phớt lờ
những lời ta thán của nông dân nghèo, thay vào đấy lại bảo vệ địa chủ, những
người đã bị xua đuổi đi dưới thời thống trị của những người Cộng sản và bây giờ
quay trở về với tài sản của mình – và vì thế mà đã khiến cho người dân ở nông
thôn căm ghét họ.
Sau những năm chịu nhiều thiếu thốn dưới thời chiếm đóng
của người Nhật và sau những nỗi kinh hoàng của các chiến dịch “ba lần tất cả”,
sau khi đồng ruộng của họ đã bị nước của con sông Hoàng Hà tàn phá và sau những
mùa Đông khắc nghiệt của những năm vừa rồi, bây giờ những người nông dân sẵn
sàng hỗ trợ cho bất kỳ ai có thể làm giảm bớt sự nghèo nàn của họ – kể cả những
người Cộng sản.
Ngược lại, khác với như đã hứa trước đây, người Quốc gia
thường không trả tiền cho những lần đóng góp đặc biệt mà trong thời chiến họ đã
yêu cầu nông dân đóng góp dưới dạng lúa mì, bắp hay đậu. Và nếu như có trả thì
họ đền bù cho những người nông dân đấy bằng những món tiền quá thấp hay bằng
những loại tiền tệ vô giá trị.
Nhưng người của Tưởng lại càng nghiêm khắc hơn khi bắt
buộc những người nông dân lệ thuộc phải đáp ứng các yêu cầu của địa chủ trong
những vùng đã giành lại được quyền kiểm soát từ những người Cộng sản: nếu như
những người mắc nợ nghèo nàn không chịu trả tiền, họ sẽ bị người của phe Quốc
gia bắn chết.
TRONG NHỮNG VÙNG do người Cộng sản kiểm soát thì
ngược lại, giới địa chủ phải chịu khổ. Mao tước quyền sở hữu của họ và trao đất
của họ về cho nông dân. Người của ông ấy dẫn địa chủ bị trói, bị cho là là
những kẻ thù của nhân dân, ra trước các ủy ban làng.
Bắn chết một địa chủ đang bị trói: trong vùng do họ kiểm soát, người Cộng
sản tổ chức chia lại ruộng đất một cách dã man (ở đây là hình từ năm 1952 –
không có hình ảnh từ cuộc nội chiến). Ảnh: GEO EPOCHE
Những người nông dân tố cáo, tường thuật lại về sự bóc
lột nhiều năm liền, về sự lạm dụng; họ chửi rủa những người cho họ thuê đất
trước đây, hét to sát vào mặt họ.
Thường cuộc thanh toán đấy chấm dứt bằng cách người dân
làng, được các cán bộ Cộng sản xúi giục, dùng tay không, gậy gộc và gạch đá
đánh những người bị tố cáo cho tới chết. Nếu như lần nào mà sự tức giận của đám
đông không bùng phát thì một đại diện của ĐCS sẽ bắn vào đầu của kẻ thù giai
cấp.
Từ 1945 cho tới 1949, có khoảng một triệu người sở hữu
ruộng đất đã chết vì các “tòa án nhân dân” này.
Năm 1947, khi Ngạn Anh, người con trai 25 tuổi của Mao,
chứng kiến một trong những lần hành hình như thế, anh ấy đã quỵ xuống và khóc
lóc hàng giờ.
Cha của anh ấy đã gửi anh ấy đến các tòa án nhân dân để
anh ấy học tập được sự cứng rắn cách mạng cần thiết. Thế nhưng hình ảnh của tám
người bị đánh chết, Ngạn Anh ghi lại trong quyển nhật ký của mình như thế, chỉ
để lại sự đau đớn trong lòng anh ấy.
Nhưng với chiến dịch chống giới tinh hoa ở đó, Mao được
nhiều người trong số những người dân ở nông thôn theo mình. Ngày càng có nhiều
nông dân sẵn sàng ủng hộ người Cộng sản trong cuộc chiến chống Quốc Dân Đảng
của họ; có không ít người đã tình nguyện gia nhập “Quân đội Giải phóng Nhân
dân” của Mao.
Ngược lại, năm 1947 người Quốc gia bắt buộc phải ban hành
một đạo luật cho phép họ ép buộc bất kỳ một người đàn ông có khả năng chiến đấu
nào đều cũng phải phục vụ trong quân đội.
Họ gửi những nhóm tuyển mộ đi vào làng, tìm kiếm tất cả
những người đang trốn tránh để không phải bị đi chiến đấu. Cho mỗi một người mà
họ bắt được, các nhóm tìm người này nhận được một món tiền thưởng hay một khẩu
phần ăn thêm.
Trên đường về các căn cứ quân đội, những kẻ đi bắt người
trói lính mới tuyển mộ vào với nhau; vì thế nên họ đi thành hàng, theo nhóm
mười người. Quân lính của Tưởng trông giống như tù nhân.
Gần một nửa số lính mới trốn ra khỏi các trại huấn luyện.
Vì thế mà mỗi người trong nhóm phải chịu trách nhiệm cho người chạy trước mình;
nếu một người trốn thoát được thì chỉ huy sẽ cắt bớt phần ăn vốn đã không đủ
rồi, trừng phạt thêm người đấy bằng cách đánh đập.
Ai rớt lại sẽ bị đói. Vì các viên sĩ quan thường bán cho
lái buôn phần gạo được cung cấp cho đơn vị của mình.
Do vậy nên những người lính thường mang trong túi áo
khoác của họ cùng một chiếc bánh gạo đấy nhiều ngày liền, chỉ cắn một mẩu khi
không thể nào chịu đựng nỗi cơn đói nữa. Gần một phần năm đã chết vì đói ngay
trong thời gian huấn luyện.
Đầu năm 1947: người của Mao dám thực hiện một cuộc phản
công lớn đầu tiên. Tính bạc nhược của cỗ máy quân đội được cho là vượt trội hơn
của Tưởng đã lộ ra nhanh chóng. Dưới những cuộc tấn công của Hồng Quân, lực
lượng của ông ấy rút lui nhanh chóng, nhiều người lính lợi dụng sự hỗn loạn của
chiến trường để bỏ trốn.
Năm 1948, chiến cuộc bắt đầu thay đổi, từ bây giờ trở đi không còn có thể
ngăn chận Hồng Quân tiến quân được nữa – ở đây là một đơn vị đang trên đường
tiến về Bắc Kinh. Ảnh: GEO EPOCHE
Chỉ trong vòng vài tháng, những người Cộng sản chiếm
nhiều phần của miền Đông Bắc Trung Quốc, họ ngạc nhiên về quy mô của sự thành
công của họ. Mao quyết định rằng bây giờ là đã đến lúc phải đương đầu trực tiếp
với địch thủ trên chiến trường.
Các viên tướng của ông ấy nghi ngại. Tuy là họ đã tiếp
tục hiện đại hóa quân đội Cộng sản trong thành phố công nghiệp Cáp Nhĩ Tân
trong vùng Mãn Châu và đã tái cấu trúc quân đội thành các sư đoàn được tổ chức
chặt chẽ. Thêm vào đó, tù binh phe Quốc gia và cố vấn Xô viết thời gian sau này
đã giải thích cho họ cách sử dụng xe tăng và máy bay của Nhật. Nhưng mặc dù
vậy, các chuyên gia quân sự vẫn còn chưa chắc chắn, liệu một sự đối đầu với
Quốc Dân Đảng là có quá sớm hay không.
Nhưng Mao vẫn kiên quyết – và ra lệnh cho người của mình
“đập tan hoàn toàn” quân đội của những người Quốc gia.
Vào cuối mùa hè 1948, những người Cộng sản bắt đầu một
cuộc tấn công có quy mô lớn vào Thẩm Dương và Trường Xuân, hai thành phố lớn
cuối cùng còn do người Quốc gia kiểm soát. Trong lúc tiến công, quân đội của
ĐCS lần đầu tiên sử dụng nhiều súng đại bác. Và các đơn vị của Quốc Dân Đảng
lại thối lui.
Sau khi quân đội của Mao chiếm được một giao điểm đường
sắt quan trọng, họ bao vây cả hai trung tâm của phe Quốc gia.
Trong Trường Xuân, sau năm tháng bị bao vây, nạn đói lớn
tới mức thịt người chết trở thành món hàng buôn bán được thèm muốn; những người
cố thủ vẫn bắn chết bất kỳ ai cố gắng chạy trốn. Khi những người Cộng sản cuối
cùng rồi cũng tiến vào thành phố, họ đã bước đi trên xác chết.
Chỉ trong vòng ba tháng, người Quốc gia đã mất hơn
400.000 người, Hồng Quân bây giờ kiểm soát toàn bộ vùng Mãn Châu.
Tưởng bị sốc, gọi các chiến bại đó là một “thảm họa thế
giới”. Cuối năm 1948, ông ấy liên lạc với cả Hoa Kỳ lẫn Liên bang Xô viết, hỏi
rằng họ có thể làm trung gian để thương lượng đình chiến giữa ông và những
người Cộng sản hay không.
Nhưng Mao không quan tâm đến một thỏa hiệp. Chiến cuộc
biến chuyển thuận lợi cho ông ấy quá nhanh và quá rõ ràng. Và con đường chiến
thắng của quân đội ông ấy vẫn tiếp tục, họ chiến thắng hết trận đánh này sang
trận đánh khác.
Tinh thần chiến đấu của lực lượng đói ăn của Tưởng ngày
càng xấu đi. Nhiều người trong số họ cố gắng tránh chạm trán với quân địch bất
cứ lúc nào có thể được. Cả ưu thế về không quân cũng không giúp đỡ được họ, vì
những người Quốc gia đã không chú ý đến việc đào tạo cho đủ phi công; thêm vào
đó, họ không thể bảo vệ các phi trường của họ trước Hồng Quân. Thường những
người lính đang rút lui của Tưởng đều bỏ lại vũ khí của họ cho đối phương.
Khi cuối cùng rồi những người Cộng sản cũng tiến quân vào
Bắc Kinh trong tháng 1 năm 1949, họ cử hành một cuộc duyệt binh trong thành phố
mang nhiều biểu tượng này. Hơn một giờ liền, một đoàn xe chạy ngang qua những
người dân hiếu kỳ: xe tăng, xe tải, đại bác, xe Jeep.
Đầu năm 1949, Quân đội Cách mạng Quốc gia cuối cùng đã tan rã, giữa tháng
1, quân đội của Mao tiến vào Bắc Kinh – chẳng bao lâu sau đó sẽ là thủ đô của
Trung Quốc. Ảnh: GEO EPOCHE
Một nhà quan sát người Mỹ hiện diện tại chỗ ngạc nhiên
nhận ra rằng những thiết bị quân sự được phô trương ra ở đấy phần lớn là đều
sản phẩm của Mỹ – những vũ khí mà thời trước Tưởng đã yêu cầu từ người Mỹ bây
giờ lại giúp cho những người Cộng sản.
Trong tháng 4, họ chiếm Nam Kinh, một tháng sau đó là
Thượng Hải. Trên đường rút lui, Tưởng viếng thăm lần cuối cùng Khê Khẩu Trấn,
là nơi sinh của ông ấy, quỳ trước mộ của người mẹ và khóc hàng giờ liền.
Ông ấy biết: cuộc chiến đã ngã ngũ. Từ gần hai năm nay,
quân đội của ông không còn đánh thắng một trận lớn nào nữa.
Mặc dù vậy, ông vẫn ra lệnh cho quân đội của ông tiếp tục
chiến đấu. Ông muốn kéo dài thời gian để chuẩn bị cho lần ra đi sang Đài Loan.
Người Quốc gia đã giành lấy quyền kiểm soát hòn đảo trước
bờ biển Đông Nam của Trung Quốc năm 1947, đập tan sự chống đối của người Đài
Loan một cách đẫm máu. Bây giờ, cán bộ Đảng của Tưởng chuyển hàng triệu dollar
sang thủ đô Đài Bắc của hòn đảo.
Lần cuối cùng, Quốc Dân Đảng tuyên bố Trùng Khánh là thủ
đô của Cộng hòa Trung Quốc, thế nhưng lời tuyên bố đấy không gì khác hơn là một
động thái vô nghĩa của một chính quyền đã bại trận.
Ở Bắc Kinh, Mao triệu tập một đại hội chính trị vào cuối
tháng 9, cái mặc dù bị ĐCS chiếm thế áp đảo nhưng cũng lưu ý đến 14 đảng nhỏ
hơn.
Dưới sự lãnh đạo của Mao, các thành viên quyết định rằng
Bắc Kinh ngay lập tức lại là thủ đô của Trung Quốc.
Và họ cũng chọn một lá quốc kỳ mới: một ngôi sao lớn, năm
cánh trên nền đỏ, được bao quanh bởi bốn ngôi sao nhỏ hơn. Ngôi sao lớn là biểu
tượng cho ĐCS, bốn ngôi sao nhỏ là các trụ chống của nhà nước tương lai: nông
dân, công dân, tiểu tư sản và cả tư sản.
Cuối cùng, hội nghị cũng quyết định thay thế lịch cách
mạng của Quốc Dân Đảng (chọn năm thành lập nền cộng hòa – 1912 – là “năm một”)
bằng lịch Gregory.
Và vì thế mà ở Trung Quốc cũng là ngày 1 tháng 10 năm
1949, khi Mao bước lên một khán đài ở Thiên An Môn, cổng chính để vào Cấm
Thành.
Nằm phía sau ông là các dinh thự to lớn mà từ trong đó,
các hoàng đế Trung Quốc đã cai trị đất nước này qua nhiều thế kỷ. Trước ông,
trên quảng trường Thiên An Môn, vào khoảng 300.000 người đang chờ đợi thông
điệp của ông.
Với giọng nói cao của ông ấy, gần như hát, ông nói to với
họ những lời nói đánh dấu lần kết thúc cuộc nội chiến đã kéo dài bốn năm, cuộc
chạy đua chết người đấy vì quyền thống trị Trung Quốc: “Đồng bào, tôi tuyên bố:
nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập!”
Cho tới năm 1951, Mao sẽ đập tan các kháng cự cuối cùng
trong những vùng ở rìa của đất nước – và chiến thắng những người theo Quốc Dân
Đảng còn sót lại cũng như những người ly khai ở địa phương.
Đối với người Mỹ, chiến thắng của Mao là một thất bại
chính trị to lớn, bây giờ, trong cuộc Chiến Tranh Lạnh, họ có thêm một đối thủ.
Đối với Tưởng Giới Thạch, đó có nghĩa là sự kết thúc giấc mơ của ông ấy, thống
nhất đất nước dưới dự lãnh đạo của mình.
Ông ấy còn cai trị một cách độc tài tròn 25 năm nữa ở Đài
Loan và đại diện cho quê hương của ông ấy ở Liên Hiệp Quốc cho tới năm 1971; là
tổng thống của “Cộng hòa Trung Hoa” bé nhỏ, ông công khai theo đuổi đường lối
tái chiếm Trung Hoa lục địa cho tới khi qua đời năm 1975.
Nhưng ở đấy, đối thủ của ông cuối cùng cũng đã giành được
độc quyền năm 1949: Mao Trạch Đông.
Johannes Schneider
Phan Ba dịch
Giới thiệu tài liệu: Steven I. Levine và
James C. Hsiung (xuất bản), “China’s Bitter Victory. The War with Japan
1937-45″, M. E. Sparpe: tập hợp các bài viết giải thích mọi khía cạnh của cuộc
xung đột giữa Trung Quốc và Nhật bản. Suzanne Pepper: “Civil War in China. The
Political Struggle, 1945-1949″, University of California Press: tác phẩm kinh
điển về cuộc nội chiến, nhiều chi tiết về cả hai bên trong chiến tranh.
No comments:
Post a Comment