Nhật báo Ba Lan Gazeta Wyborcza
Lê Diễn Đức dịch
Sun, 10/07/2012 - 22:48 — ledienduc
Nhà khoa học chính trị Mỹ, giáo sư Allan
Lichtman của American University tại Washington, người đã phân tích kết quả các
cuộc bầu cử tổng thống Mỹ từ năm 1984, dự đoán Barack Obama sẽ tái đắc cử Tổng
thống Mỹ.
Kể từ năm 1984, chưa bao giờ Allan Lichtman
sai lầm, dù chỉ 1 lần, trong dự đoán của mình, bằng sử dụng phương pháp dự báo
kết quả bầu cử theo thuyết "13 chìa khoá để mở cửa Toà Bạch Cung".
Obama không chỉ là một ứng viên chắc chắn,
nhưng ngay cả khi trong các cuộc vận động bầu cử nếu để xảy ra một số sai lầm
hoặc vấp ngã, thì ông vẫn giành chiến thắng - Lichtman nói tại Brusselss trong
một cuộc tranh luận được tổ chức bởi think tank European Policy Center.
Lichtman cũng đã đưa ra nhận định như thế
sau thất bại của Obama trong cuộc tranh luận trên truyền hình thứ Tư vừa qua
truớc ứng viên của đảng Cộng Hòa Mitt Romney. Theo Lichtman, các cuộc tranh luận không quan trọng. -
"Điều quan trọng là việc điều hành đất nước, không phải là chiến dịch
tranh cử"- ông lập luận.
Obama sẽ giành chiến thắng bởi vì "chỉ
có 3 giả thiết không phù hợp"
13 chìa khoá đơn giản chỉ là một danh sách
các giả thiết mà thường cho rằng, người được công chúng ủng hộ hơn là của đảng
đang cầm quyền (tức đảng mà vị Tổng thống xuất phát hiện tại). Nếu có ít nhất 6
giả thiết trong thuyết này sai, đảng đối lập sẽ thắng.
Trong trường hợp cuộc bầu cử tổng thống 4
năm trước đây, Lichtman dự đoán Obama nhất định chiến thắng, bởi vì chỉ có 3
giả thiết không phù hợp, có xu hướng bất lợi cho Obama.
Vì vậy, Obama sẽ giành chiến thắng ngay cả
khi ông không giành kết quả khả quan trong các cuộc tranh luận tiếp theo với
Romney. Ví dụ, "Chính phủ hiện tai không bị cáo buộc về những vụ bê bối
lớn" (như câu chuyện của Bill Clinton với Monica Levinsky), "không có
một ứng viên thứ ba đáng kể và nghiêm trọng", tức là đối thủ cạnh tranh có
thể làm tổn hại cho Obama, như vào năm 2000 ứng cử viên đảng Xanh Ralph Nader
đã gây tổn thất cho đảng Dân Chủ. Giành được gần 3% cử tri ủng hộ, Ralph Nader
đã tước mất chìa khoá của ứng viên Dân chủ Al Gore, do đó George W. Bush của
đảng Cộng hòa đã chiến thắng.
Không có bê bối và nền kinh tế không suy
thoái
Trong trường hợp của Barack Obama có một số
giả thiết khác không phù hợp: "Đó là đã không có các cuộc bầu cử sơ bộ của
đảng để giành quyền ứng viên", tức "ứng viên tranh cử là tổng thống
đương nhiệm". Ngoài ra giả thiết "Chính phủ đã đạt được những thành công đáng kể
trong chính sách đối ngoại và các vấn đề quân sự" là đúng sự thật, bởi vì việc giết chết
trùm Al-Qaeda Osama bin Laden vào năm ngoái được xem là một thành công của quân
đội Mỹ.
Không có lợi cho Obama còn một trong hai
"chìa khóa" nữa liên quan tới nền kinh tế: "Nền kinh tế
không phải suy thoái trong thời gian có chiến dịch bầu cử". Mặc dù đang có
một cuộc khủng hoảng, nền kinh tế Mỹ vẫn đang tăng tiến tối thiểu nhất"
- Lichtman nhận định về giả thiết tiếp theo - "Trong nhiệm kỳ của tổng
thống không xảy ra những bất ổn xã hội mang tính lâu dài".
Bản Việt ngữ © 2012 Lê Diễn Đức - RFA Blog
* Dịch từ Gazeta Wyborcza, nhật báo hàng đầu của Ba lan
ngày 7/10/2012, bản Online, tại link:
------------------------------------
Niall Ferguson
Hoàng Vũ chuyển ngữ
Được đăng ngày Thứ bảy, 06 Tháng 10 2012 21:16
LTS:Tối ngày 03/10/2012 vừa qua cuộc tranh luận vòng 1
giữa ứng cử viên Tổng Thống của Đảng Cộng Hòa, Mitt Romney và đương kim Tổng
Thống Barack Obama của Đảng Dân Chủ đã diễn ra tại Denver, Colorado. Kết quả
thăm dò dư luận của CNN cho thấy ứng cử viên Mitt Romney đã chiến thắng vòng
đấu này với 67% phiếu bình chọn và 25% cho Obama. Giám đốc Phòng Thăm Dò Dư
Luận của CNN, Keating Holland nói: "Chưa có ứng cử viên Tổng Thống nào đạt
được mức 60% kể từ ngày có chương trình tranh luận vào năm 1984". Quả
thật, theo dõi chương trình tranh luận chúng ta thấy ông Mitt Romney đã liên
tục chất vấn sự thất bại của chính quyền Obama trong suốt 4 năm qua và Obama có
tài hùng biện thế mà đã phải "lắp bắp" chống đỡ.
Để bạn đọc nắm vững hơn tình hình chính trị
kinh tế của Hoa Kỳ trước kỳ bầu cử, Thông Luận trân trọng giới thiệu
cùng bạn đọc bài viết "Obama’s Gotta Go" của Niall Ferguson -
chuyên gia về kinh tế và sử học người Anh, giáo sư Sử học tại Harvard, cây bút
chuyên viết bình luận cho tuần báo Newsweek, tạp chí Time, tác giả cuốn sách
nổi tiếng "Empire: How Britain Made the Modern World".
Tại sao Paul Ryan lại đe dọa Tổng Thống
nhiều như thế? Bởi vì Obama đã thất hứa, và rõ ràng rằng chỉ có liên danh Đảng
Cộng Hòa (GOP - Grand Old Party - tiếng lóng gọi Republican Party) là niềm hy
vọng duy nhất cho sự hưng thịnh của chúng ta.
Bốn năm trước, tôi thật sự là kẻ thất bại
thảm hại. Trong bài viết "Kế hoạch vĩ đại của lịch sử", tôi
viết một ngày sau khi Obama ứng cử Tổng Thống, "bốn thập kỷ không phải là
một quãng thời gian thật sự quá dài. Tóm lược khoảng thời gian đó ở Hoa Kỳ là
khởi đầu từ cuộc ám sát Martin Luther King Jr. đến việc thần tượng hóa Barack
Obama. Vì thế nếu bạn không chấp nhận một niềm vui sướng thật sự thì bạn không
có tấm lòng nhân bản."
Dẫu rằng —một tiết lộ công khai— là một cố
vấn cho ông John McCain, tôi vẫn thừa nhận rằng đối thủ của John McCain có
nhiều tố chất hoàn hảo: ông ta có tài thuyết phục đám đông, ông ta trầm tĩnh
khó để mà chọc giận, và chiến dịch tranh cử của ông ta đã không phạm bất cứ một
sai lầm nào.
Tuy nhiên câu hỏi trực diện cho quốc gia
sau gần bốn năm trời không phải là ứng cử viên nào giỏi hơn mà phải là người
thắng cử có giữ được lời hứa hay không. Và sự thật đáng buồn là ông ta đã thất
hứa.
Trong bài diễn văn nhậm chức, Obama đã hứa
"không chỉ tạo ra công ăn việc làm, mà còn kiến tạo ra nền tảng cho sự
tăng trưởng". Ông ta hứa sẽ "xây dựng đường sá và cầu cống, mạng lưới
điện và hệ thống truyền tải cáp để giúp nghành thương mại và nối kết mọi người
với nhau." Ông ta khẳng định "khôi phục nghành khoa học với đúng chức
năng của nó và vận dụng những kỳ công của kỹ thuật công nghệ để nâng cao chất
lượng và hạ thấp chi phí chăm sóc sức khỏe và bảo hiểm y tế." Và ông ta
cam kết "thay đổi trong các trường học, các trường cao đẳng và đại học để
đáp ứng được các nhu cầu đòi hỏi của thời đại mới." Thật bất hạnh, bảng
điểm của Tổng Thống trên từng mỗi lời cam kết chỉ là những kết quả thảm hại.
Hồi đầu năm nay trong lúc sơ ý, Tổng Thống
đã buông lời nhận xét khu vực kinh tế tư nhân đã "hoạt động tốt".
Chắc hẳn, thị trường chứng khoán cũng đã tăng lên (74%) so với thời điểm đóng
cửa vào ngày ông ta nhậm chức Tổng Thống năm 2009. Thế nhưng tổng cộng con số
công ăn việc làm của toàn bộ khu vực kinh tế tư nhân vẫn ít hơn 4.3 triệu khi
so với lúc cao điểm vào tháng giêng 2008. Trong khi đó, con số khủng 3.6 triệu
người Mỹ được ghi danh thụ hưởng vào chương trình bảo hiểm an sinh xã hội dành
cho người khuyết tật. Đây chính là một trong những cách che dấu tình trạng thất
nghiệp.
Trong ngân sách tài chính năm 2010 — ngân
sách đầu tiên do ông ta đệ trình — Tổng Thống đã trình bày dự kiến tăng trưởng 3,2% trong năm 2010; 4,0% cho năm
2011; 4,6% vào năm 2012. Nhưng con số thực tế là 2,4% trong năm 2010 và 1,8%
trong năm 2011; không có nhiều kỳ vọng cho mức tăng trưởng trên 2,3% trong năm
nay.
Mức thất nghiệp được giả định là 6% cho năm
nay thế nhưng cho đến nay con số trung bình đã là 8.2%. Trong khi đó mức thu
nhập bình quân của mỗi gia đình đã giảm xuống hơn 5% kể từ tháng 6/2009. Gần
110 triệu người đã phải nhận trợ cấp an sinh xã hội trong năm 2011, chủ yếu từ
chương trình chăm sóc sức khỏe (Medicaid) hoặc phiếu thực phẩm.
Chào mừng bạn đến quốc gia Hoa Kỳ của
Obama: gần một nửa dân số không phải đóng thuế thu nhập – gần như chính xác tỷ
lệ cân bằng là một hộ gia đình có ít nhất một thành viên nhận được một loại trợ
cấp nào đó từ chính phủ. Chúng ta đang trở thành một quốc gia 50-50 – một nửa
số chúng ta đóng các loại thuế, và phân nửa còn lại thu nhận tất cả các loại
trợ cấp.
Và thế là tất cả những điều trái khoáy này
hứa hẹn khoản nợ liên bang của chúng ta sẽ gia tăng mạnh mẽ. Theo ngân sách tài
khóa 2010, các khoản nợ công phải được thanh khoản với tỷ lệ giảm đi so với
tổng sản lượng quốc dân (GDP) từ 67% trong năm 2010 xuống dưới mức 66% trong
năm nay. Nếu được. Cho đến cuối năm nay, theo số liệu từ Văn Phòng Ngân Sách
Quốc Hội (CBO), tỷ lệ vượt lên đến 70% của tổng sản lượng quốc dân (GDP). Những
số liệu này cho thấy rõ rằng có sự lấp liếm che dấu bớt các khoản nợ có vấn đề,
bất kể như thế nào. Vấn đề đó là tỷ lệ của khoản nợ tính trên doanh thu. Theo
số liệu của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) con số tỷ lệ này đã tăng vọt từ 165%
trong năm 2008 đến 262% trong năm nay. Trong số các nước có nền kinh tế hùng
mạnh, chỉ có Ái Nhĩ Lan và Tây Ban Nha mới có sự kiệt quệ tệ hại hơn thế.
Không chỉ riêng những viên kẹo bọc đường
của công cuộc kích thích tài chính vội vàng trong năm 2009 đã nhanh chóng nhạt
nhẽo, mà Tổng Thống cũng đã chẳng làm được điều gì để thu hẹp khoảng cách quá
khổ của con số chi tiêu và thu nhập quốc gia.
Chương trình cải cách hệ thống y tế đầy
khoác lác của Tổng Thống sẽ không ngăn chặn được việc tiêu xài xả láng trong
các chương trình chăm sóc sức khỏe từ mức 5% tổng sản lượng quốc dân (GDP) hiện
nay đến gần 10% vào năm 2037. Cộng thêm các khoản chi phí tăng vọt trong các
chương trình an sinh xã hội và bạn sẽ thấy hóa đơn tổng cộng lên đến 16% vào 25
năm sau. Con số này chỉ thấp hơn chút ít khi so với chi phí trung bình của tất
cả các chương trình hoạt động của chính phủ liên bang, đó là chưa tính đến các
khoản tiền lãi phải thanh toán trong hơn 40 năm qua. Với các chính sách của
Tổng Thống hiện nay, món nợ trên đà gia tăng đến 200% tổng sản lượng quốc dân
(GDP) vào năm 2037 - núi nợ nần này sẽ ràng buộc kìm hãm đà tăng trưởng về lâu
dài.
Và ngay chính con số này cũng mô phỏng
không đúng về gánh nặng thật sự của món nợ. Giá trị ước tính gần đây về sự
chênh lệch con số nợ thực của chính phủ liên bang hiện tại và số thu thực của
chính phủ liên bang trong tương lai —con số mà kinh tế gia Larry Kotlikoff gọi
là "khoảng cách ngân khố".
Tất nhiên, những người ủng hộ Tổng Thống sẽ
cho rằng không thể đổ lỗi cho Tổng Thống về các hoạt động kém cỏi làm nền kinh
tế kiệt quệ. Họ thích chỉ trích vào vị Thổng Thống tiền nhiệm, hoặc đổ vấy lỗi
cho các kinh tế gia cố vấn của Tổng Thống, cho thị trường chứng khoán Wall
Street, cho nền kinh tế Âu Châu— hoặc cho bất cứ ai ngoại trừ vị Tổng Thống
đương nhiệm trong Toà Bạch Ốc.
Sự thật phơi bày trong điều này. Thật khó
để có thể dự đoán được những gì sẽ xảy ra cho nền kinh tế sau năm 2008. Thế
nhưng, chắc chắn chúng ta vẫn có thể quy trách nhiệm vào các sách lược chính
trị sai lầm của chính Tổng Thống trong suốt bốn năm qua. Xét cho cùng, công
việc Tổng Thống là phải điều hành— lãnh đạo quốc gia hữu hiệu. Và chính đây là
thất bại thảm hại nhất.
Nhìn vào giấy trắng mực đen rõ ràng Tổng
Thống đang có đội hình như mơ các cố vấn chuyên gia kinh tế: Larry Summers,
Christina Romer, và Austan Goolsbee, chưa kể đến Peter Orszag, Tim Geithner, và
Paul Volcker. Thế nhưng, những câu chuyện nội bộ cho thấy Tổng Thống hoàn toàn
không thể điều hành được những bộ óc siêu việt —và cái tôi— của những người mà
ông ta đã mời gọi làm cố vấn.
Trong cuốn sách Confidence Men (Những
Người Tâm Phúc), Summers nói với Orszag trong bữa ăn tối vào tháng 05/2009:
"Ông biết đấy, Peter, chúng ta như những đứa trẻ bị bỏ ở nhà một mình...
Tôi nói thật đấy. Chúng ta ở nhà một mình. Không có người lớn coi sóc. Clinton
không bao giờ phạm phải sai lầm như vậy [lưỡng lự thiếu quyết đoán trong các
chính sách kinh tế trọng điểm]." Từ chuyện này sang chuyện khác, theo
Suskind, Summers từng bác bỏ ý kiến Tổng Thống. Summers nói với Orszag,
"Ông không thể chỉ bước vào và trình bày lập luận của mình rồi để cho ông
ta (Tổng Thống) quyết định, vì ông ta không biết phải quyết định cái gì."
(Tôi đã từng nghe nhiều chuyện bên lề tương tự từ những thành viên chủ chốt
tham gia các buổi "hội thảo" kéo dài lê thê của Tổng Thống về các
chính sách đối với Afghanistan.)
Vấn đề này đã vượt ra ngoài Tòa Bạch Ốc.
Sau nền Tổng Thống chuyên quyền thời ông Bush, hai năm đầu của chính quyền
Obama giống thể chế chính quyền nghị viện. Tổng Thống đề nghị dự luật, Quốc Hội
tùy tiện xử lý. Chính bà Nancy Pelosi và phe cánh của bà ta đã viết ra dự luật
kích thích nền kinh tế và chắc chắn trong đó được nhồi nhét đầy ứ những trò
chính trị xôi thịt. Và dự luật này được phe Đảng Dân Chủ thông qua—lãnh đạo bởi
Christopher Dodd và Barney Frank—tác giả của 2,319 trang Dự Luật Cải Cách Thị
Trường Chứng Khoán Wall Street và Bảo Vệ Người Tiêu Dùng (gọi tắt là
Dodd-Frank), một kiểu mẫu hoàn hảo của sự phức tạp quá đáng trong các quy chế.
Dự luật này đòi hỏi các nhà lập pháp tạo ra 243 điều luật, thực hiện 67 cuộc
nghiên cứu, và phát hành 22 bản phúc trình định kỳ. Dự luật loại bỏ một quy chế
nhưng lại lập ra hai quy chế mới.
Cuộc khủng hoảng tài chính đã trôi qua 5
năm, thế nhưng vấn đề cốt yếu —tập trung tài chính quá thừa thải và đòn bẩy
kích thích tài chính quá mức— vẫn chưa được giải quyết.
Hiện nay chỉ có 10 tổ chức tài chính
quá-lớn-khó-để-mà-sụp-đổ chịu trách nhiệm cho 3/4 tổng trị giá tài sản đang
được quản trị tại Hoa Kỳ. Thế mà, ngân hàng lớn nhất tại Hoa Kỳ lại không đủ
vốn ít nhất là $50 tỷ đô-la theo yêu cầu mới về vốn đầu tư của thỏa ước
"Basel III" về việc quản trị bảo toàn vốn thích ứng cho các ngân
hàng.
Và kế tiếp là chương trình bảo hiểm sức
khỏe. Không ai còn nghi ngờ rằng Hoa Kỳ cần phải cải tổ hệ thống bảo hiểm sức
khỏe. Thế nhưng Luật Bảo Vệ Bệnh Nhân và Chăm Sóc Sức Khỏe Theo Khả Năng (ACA)
năm 2010 đã chẳng làm gì để giải quyết những khuyết điểm cốt lõi của hệ thống
bảo hiểm sức khỏe: sự bùng phát kéo dài các chi phí Medicare cho thế hệ baby
boomers (thế hệ bùng phát dân số sau WWII) đang đến tuổi về hưu, hình
thức "lệ phí chữa bịnh" làm gia tăng lạm phát việc chăm sóc sức khỏe,
sự trói buộc việc thuê mướn nhân công vào hệ thống bảo hiểm y tế lý giải tại
sao rất nhiều công dân Hoa Kỳ không có được bảo hiểm y tế, và chi phí bảo hiểm
trách nhiệm quá mức làm các bác sỹ cần phải tự bảo vệ mình trước các luật sư do
chính chúng ta thuê mướn.
Thật mỉa mai, điểm cốt lõi của chương trình
Obamacare là khái niệm "yêu cầu cá nhân" (đòi hỏi tất cả các công dân
Hoa Kỳ phải mua bảo hiểm hoặc phải đóng tiền phạt) lại chính là những gì mà
Tổng Thống đã chống đối kịch liệt khi tranh giành sự đề cử ứng cử viên Tổng
Thống của Đảng Dân Chủ với bà Hillary Clinton. Cho nên gọi chương trình này
bằng từ ngữ chính xác hơn là “Pelosicare”, vì chính bà ta đã thúc đẩy dự luật
để được Quốc Hội thông qua.
Pelosicare không chỉ là một thảm họa trên
chính trường. Các cuộc thăm dò ý kiến cho thấy chỉ có một thiểu số ít ỏi thích
Luật Chăm Sóc Sức Khỏe Theo Khả Năng (ACA—Affordable Care Act), và đây
chính là lý do mấu chốt giải thích tại sao Đảng Cộng Hòa đã nắm lại quyền kiểm
soát Hạ Viện vào năm 2010. Và cũng chính đạo luật này làm ngân khố tài chính
quốc gia hỗn loạn thêm. Tổng Thống cam kết công cuộc cải cách bảo hiểm y tế sẽ
không làm tăng thêm một xu nào vào ngân sách đã bị thâm thủng. Thế nhưng theo
Văn Phòng Ngân Sách Quốc Hội (CBO—Congressional Budget Office) và Tiểu Ban
Liên Hiệp Thuế của Quốc Hội dự đoán các điều khoản trong Luật Chăm Sóc Sức Khỏe
Theo Khả Năng (ACA—Affordable Care Act ) sẽ phải trang trải chi
phí thực lên đến $1.2 ngàn tỷ đô-la trong giai đoạn 2012-2022.
Tổng thống vẫn tiếp tục ngụp lặn trong các
vấn đề ngân khố tài chính quốc gia. Ngay sau khi thiết lập một ủy hội lưỡng
đảng Hội Đồng Quốc Gia về Trách Nhiệm Tài Chính và Cải Cách, lãnh đạo là Thượng
Nghị Sỹ Wyoming đã hồi hưu thuộc Đảng Cộng Hòa, Alan Simpson và Erskine Bowles,
cựu chánh văn phòng TT Clinton, Obama đã dẹp ra rìa chẳng thèm để ý lời khuyến
cáo của Hội Đồng về việc cắt giảm chi tiêu $3 ngàn tỷ và việc tăng thu $1 ngàn
tỷ đô-la trong thập niên sắp tới. Và kết quả là không đạt được "thỏa hiệp
lớn" nào với Đảng Cộng Hòa tại Hạ Viện—có nghĩa là, ngoại trừ một vài phép
lạ, ngân khố quốc gia sẽ tiến đến bờ vực thẳm vào ngày 01 tháng Giêng khi mà
Đạo Luật Cắt Giảm Thuế của Tổng Thống Bush hết hiệu lực và trước nhất con số
thâm thủng $1.2 ngàn tỷ đô-la tự động buộc phải áp đặt cắt giảm chi tiêu có tác
động đều khắp quốc gia. Văn Phòng Ngân Sách Quốc Hội (CBO) ước tính hiệu ứng
thực sẽ tác động làm giảm 4% tổng sản lượng.
Sự thua kém về khả năng lãnh đạo trong các
chính sách kinh tế tài chính suốt 4 năm qua đã cho thấy những hệ quả trên địa
bàn chính trị thế giới. Ngân Hàng Thế Giới cho rằng Hoa Kỳ chỉ tăng trưởng ở
mức 2% trong năm 2012. Trung Quốc sẽ đạt mức tăng trưởng gấp 4 lần hơn; Ấn Độ
đạt mức gấp 3 lần hơn. Đến năm 2017, Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế dự đoán, tổng sản
lượng quốc dân của Trung Quốc sẽ vượt qua mặt Hoa Kỳ.
Trong khi đó, chiếc xe lửa tài chính tàn tạ
vỡ nát vẫn đang mê mải trong tiến trình cắt giảm chi phí quốc phòng trong thời
điểm mà thế giới khó có thể an toàn hơn—nhất là ở vùng Trung Đông.
Với tôi, thất bại thê thảm nhất của Tổng Thống
là không đủ trí tuệ để suy xét những sự liên can đến những thách đố quyền lực
của Hoa Kỳ. Không thiết tha khai triển một chiến lược hợp lý, ông ta tin tưởng
—có lẽ do phấn khích vì được nhận một giải thưởng quá hấp tấp, giải Nobel Hòa
Bình— rằng tất cả công việc mà ông ta cần làm chỉ là đọc những bài diễn văn
động lòng-miễn phí trên khắp thế giới để giải thích cho mọi người biết rằng ông
ta không phải là George W. Bush.
Tháng 11/2009 tại Tokyo, Tổng Thống đã nung
nấu vòng-tay-đại-đồng trong bài diễn văn: "Trong một thế giới liên kết,
quyền lực không cần thiết phải là trò chơi một mất một còn, và quốc gia này
không nhất thiết phải sợ sự thành công của quốc gia khác... Hoa Kỳ không tìm
cách kìm hãm Trung Quốc... Ngược lại, sự trỗi dậy mạnh mẽ, phồn thịnh của Trung
Quốc có thể là nguồn tiếp sức cho cộng đồng thế giới." Thế mà đến mùa thu
2011, phương cách này đã bị vứt bỏ để ưu tiên quay trở lại "trục then
chốt" Thái Bình Dương, bao gồm cả việc triển khai quân đội thật nực cười ở
Úc và Singapore. Nhìn từ ưu thế của Bắc Kinh, không phương cách nào đáng tín
nhiệm cả.
Bài diễn văn của ông Obama tại Cairo ngày
04/06/2009, là lời mời chào vụng về thô thiển để lấy lòng những gì được cho là
sự khơi mào cuộc cách mạng trong vùng."Tôi rất hân hạnh mang theo cùng
tôi," ông ta nói với người dân Ai Cập, "lời chào mừng an bình từ các
cộng đồng Hồi Giáo ở đất nước tôi: Assalamu alaikum ... Tôi đến đây...
để kiếm tìm sự khởi đầu mới giữa Hoa Kỳ và người Hồi Giáo trên khắp thế giới,
đặt trên nền tảng... với sự thật là người Mỹ và người Hồi Giáo không loại trừ
nhau và không cần phải kèn cựa nhau."
Tin tưởng rằng vai trò của mình là cự tuyệt
chủ thuyết bảo thủ, Obama đã làm lỡ hoàn toàn cơ hội của làn sóng cách mạng dân
chủ tại Trung Đông—chính xác là làn sóng của những người theo phái bảo thủ với
ngòi nổ kích hoạt từ cuộc lật đổ Saddam Hussein ở Iraq. Khi cuộc cách mạng bùng
phát —đầu tiên tại Iran, kế đến tại Tusinia, Ai Cập, Libya và Syria— Tổng Thống
phải biết quả quyết khi đối mặt với sự lựa chọn rõ ràng. Ông ta phải cố nắm bắt
làn sóng bằng cách dồn sức ủng hộ những người cách mạng trẻ tuổi và cố gằng lèo
lái họ theo đường hướng thuận lợi cho Hoa Kỳ. Hoặc ông ta không làm được gì cả
và để mặc cho các thế lực đối nghịch thắng thế.
Tổng Thống đã không làm gì cả khi cách mạng
dân chủ nổ ra tại Iran, và những kẻ cuồng sát của nước Cộng Hòa Hồi Giáo đã
nghiền nát cuộc cách mạng một cách rất tàn nhẫn. Tương tự cũng vậy với Syria.
Tại Lybia ông ta can thiệp rất phỉnh phờ. Tại Ai Cập, ông ta cố gắng theo hai
phương cách, thúc giục Tổng Thống Ai Cập Hosni Mubarak ra đi, rồi thối lui và
gởi gắm cho "quá trình chuyển tiếp có trật tự". Kết quả là một chính
sách ngoại giao thảm bại. Không chỉ riêng giới trí thức-tinh hoa của Ai Cập
bàng hoàng trước sự phản bội, mà ngay cả những người chiến thắng —lực lượng Anh
Em Hồi Giáo— cũng chẳng cần phải biết ơn. Ngay cả các đồng minh thận cận của
Hoa Kỳ tại Trung Đông —Israel và Arab Saudis— cũng phải sửng sốt.
"Bạn rất ngạc nhiên, thế nhưng sự việc
vẫn xảy ra như thế đó," một quan chức Hoa Kỳ không muốn nêu danh tánh đã
nói với The New York Times hồi tháng 02/2012. "Chúng ta đã có những
phiên họp chiến lược bàn về hòa bình cho Trung Đông kéo dài lê thê không dứt
suốt hai năm qua, kể cả bàn về các vấn đề với Iran. Thế mà có bao nhiêu lần họp
bàn giải quyết tình thế của Ai Cập chuyển biến từ lúc ổn định sang tình trạng
hỗn loạn? Hoàn toàn không."
Điều đáng lưu ý là Tổng Thống tương đối dễ
dàng kiếm được khá nhiều phiếu cử tri trên phương diện về an ninh quốc gia. Có
lẽ công chúng đã hiểu sai chính quyền của ông ta trong việc tự do sử dụng các
chính sách tự sát chính trị một cách đáng kinh ngạc thay vì thực hiện một chiến
lược rõ ràng. Theo Văn Phòng Điều Tra Báo Chí tại Luân Đôn, tỷ lệ tổn thất dân
sự do máy bay không người lái gây ra là 16% vào năm ngoái. Bạn hãy tự hỏi xem
giới truyền thông cánh tả sẽ cư xử ra sao nếu cựu Tổng Thống George W. Bush sử
dụng máy bay không người lái như thế này. Thế đó không biết sao, duy chỉ có các
ngoại trưởng của Đảng Cộng Hòa mới bị cáo buộc là "tội phạm chiến
tranh" mà thôi.
Tội ác thật sự đó là kế hoạch tấn công truy
sát của máy bay không người lái làm tiêu hủy tất cả các lực lượng tình báo quan
trọng (cũng như chuốc lấy lòng hận thù của người dân địa phương). Kế hoạch này
tượng trưng cho quyết định của chính quyền Obama rũ bỏ các cuộc chiến chống
quân nổi dậy mà chiếu cố vào các cuộc chiến chống khủng bố một cách chật vật.
Điều đó cho thấy thực tế việc bỏ rơi không chỉ với Iraq mà thôi và chẳng chóng
thì chầy sẽ đến lượt Afghanistan. Thật dễ hiểu, những người đã phục vụ tại
những nơi đó, đàn ông và cả đàn bà, luôn sẽ tự hỏi họ đã hy sinh cùng đích cho
điều gì, nếu cho rằng sự hy sinh đó để xây dựng quốc gia của chúng ta thì khái niệm
đó đã bị âm thầm vứt bỏ vào sọt rác. Đến khi cả hai quốc gia này lại sa lầy
ngập chìm vào những cuộc nội chiến thì chúng ta sẽ thấy rõ nét giá trị thật sự
của chính sách đối ngoại thời kỳ Obama.
Hoa Kỳ dưới thời Tổng Thống Obama là là một
siêu cường thối lui, nếu không muốn nói là bỏ cuộc. Chí ít là 46% người dân Hoa
Kỳ —và 63% người dân Trung Hoa— tin rằng Trung Quốc đã và đang thay thế Hoa Kỳ
trong vị trí siêu cường hoặc cuối cùng cũng sẽ là như thế.
Đó chính là dấu hiệu cho thấy Barack Obama
đã hoàn toàn "mất hút câu chuyện đời mình" kể từ khi đắc cử, thế nên
việc tốt nhất ông ta cố làm khi ra tái tranh cử là cứ cố nói ông Mitt Romney
không nên trở thành tổng thống. Trong bài diễn văn trơ trẽn "anh đã không
làm được điều đó", Obama liệt kê những gì ông ta cho là thành tựu của
chính quyền vĩ đại: mạng viễn liên, đạo luật GI (đạo luật ra đời năm 1944,
cung cấp trợ cấp và phúc lợi cho các cựu chiến binh trở về từ Đại Thế Chiến
II_diễn giải của người dịch), cầu Golden Gate, đập nước Hoover, phi thuyền
Apollo hạ cánh xuống mặt trăng, và ngay cả (kỳ quặc) việc hình thành tầng lớp
trung lưu. Thật đáng buồn, ông ta đã không thể kể ra được bất cứ điều gì mà
chính quyền của ông ta đã thực hiện được.
Bây giờ Obama đang phải đối đầu trực diện
với đối thủ của mình: một chính trị gia luôn cho rằng nội dung quan trọng hơn
hình thức, thực hiện cải cách tốt hơn là nói lời khoe mẽ khoa trương. Trong
thời gian vừa qua đã có nhiều bài viết về Dân Biểu Wisconsin, Paul Ryan, sự lựa
chọn của Mitt Romney trong liên danh tranh cử Tổng Thống. Tôi biết, thích, và
cảm phục Paul Ryan. Đối với tôi, nét nổi bật của ông ta thật đơn giản. Ông ta
là một trong số ít các chính trị gia ở Hoa Thịnh Đốn, những người thật sự chân
thành toàn tâm giải quyết cuộc khủng hoảng tài chính của quốc gia.
Chương trình "Con Đường đi đến Thịnh
Vượng" của Ryan trong những năm qua đang trên đà tiến triển, hơn nữa những
vấn đề chủ yếu được trình bày rất rõ ràng: thay thế chương trình Medicare bằng
chương trình tem phiếu trợ cấp cho những người dưới 55 tuổi (không dành
cho những người đang hoặc sắp sửa được nhận lãnh), chuyển đổi gom chương trình
Medicare và tem phiếu thành một khối rồi giao việc trợ cấp cho các tiểu bang
đảm nhận, và —quan trọng mang tính quyết định— làm đơn giản hóa các mã số thuế
cũng như hạ thấp các loại thuế suất để bơm nguồn sinh khí vào cho lãnh vực kinh
tế tư nhân của Hoa Kỳ. Ryan không rao giảng chủ thuyết khắc khổ thắt lưng buộc
bụng. Ông ta chỉ thích nói đến sự tăng trưởng. Cho dù những vị cựu trào
thời-Reagan như David Stockman có thể nghi ngại, họ có thể đánh giá thấp ưu thế
của Ryan trên phương diện này. Thế nhưng đúng là không một ai ở Hoa Thịnh Đốn
thấu hiểu thông suốt những thách thức của chương trình cải tổ nền kinh tế tài
chính tốt hơn Ryan.
Cũng quan trọng không kém là Ryan đã học
được bài học, chính trị là môn nghệ thuật của những gì có thể làm được. Trong
kế hoạch của Ryan có những phần có thể hiểu được ngay là chỉ cần nhấn nhẹ bàn
đạp thì khởi động ngay lập tức—đáng chú ý là những nguồn thu vào mới cho chính
quyền liên bang như loại "thuế tiêu thụ kinh doanh" được nhắc đến
trong chương trình "Lộ Trình cho Tương Lai của Hoa Kỳ" năm 2010.
Stockman cần phải tự nhắc nhở mình rằng trong thực tế "câu chuyện-thần
tiên-hư cấu về kế hoạch ngân sách" đã được Tòa Bạch Ốc phát hành từ năm 2009.
Lần đầu tôi gặp Paul Ryan vào tháng
04/2010. Tôi được mời dự bữa ăn tối tại Hoa Thịnh Đốn với đề tài thảo luận là
cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính của Hoa Kỳ. Vấn đề thảo luận khá quan trọng
nên tôi nghĩ bữa ăn tối sẽ được tổ chức tại một phòng khánh tiết của một trong
những khách sạn sang trọng tại thủ đô. Thực sự buổi tiệc diễn ra tại tư dinh
của người chủ tiệc. Ba vị Thượng Nghị Sỹ đến dự buổi tiệc—một dấu chỉ cho thấy
phiên bản "không hỏi, không nói" (về khoản nợ) của Tổng Thống thành
công đến mức độ nào. Ryan lôi cuốn tôi thật mạnh mẽ. Từ dạo đó tôi đã muốn nhìn
thấy anh ta bước vào Tòa Bạch Ốc.
Vẫn còn đủ thời gian nếu người dân Hoa Kỳ
biết sẵn sàng nắm lấy thời cơ thực hiện kế hoạch kiểm tra chỉnh đốn lại toàn bộ
nền kinh tế tài chính do Ryan đề xuất. Tư tưởng của đám đông quần chúng thường
rất mâu thuẫn. Chỉ số tín nhiệm Tổng Thống đã tụt xuống mức 49%. Chỉ số Niềm
Tin Kinh Tế của Viện Gallup là -28 (tụt xuống đến -13 điểm chỉ trong vòng tháng
05/2012). Tuy thế, Obama vẫn còn dẫn điểm sít sao trước Romney trong cuộc thăm
dò lá phiếu phổ thông (50.8 so với 48.2) và yên tâm dẫn trước số phiếu cử tri
đoàn. Những người thu thập ý kiến thăm dò cho rằng việc chọn Paul Ryan cho liên
danh tranh cử chưa hẳn làm thay đổi cục diện cuộc tranh cử; mà quả thực, anh ta
lại là một chọn lựa mạo hiểm vì nhiều người vẫn còn cảm thấy lo lắng về các kế
hoạch cải tổ của Ryan.
Nhưng có điều thật rõ ràng. Ryan sẽ lật tẩy
lá bài Obama. Điều quá hiển nhiên khi Tòa Bạch Ốc đã quay sang công kích Ryan
từ mùa xuân năm ngoái. Và nguyên nhân Ryan sẽ lật nhào Obama là vì Ryan có một
chương trình kế hoạch cho quốc gia, trái ngược và khác hoàn toàn kiểu cách của
Obama —câu chuyện của những chiếc bánh vẽ.
Tôi cho rằng Mitt Romney chưa phải là ứng
viên tốt nhất ra tranh cử Tổng Thống. Thế nhưng ông ta vẫn là ứng cử viên sáng
giá của Đảng Cộng Hòa. Là ứng viên Thổng Thống, ông ta mang theo nhiều kinh
nghiệm thực tiễn —cả trên thương trường và trên chính trường— cái mà rõ ràng
Barack Obama rất thiếu sót vào bốn năm trước. (Chỉ cần Obama được làm việc tại
Bain Capital một vài năm, thay vì làm nhân viên tổ chức cộng đồng ở Chicago, có
lẽ ông ta sẽ hiểu được chính xác tại sao khu vực kinh tế tư nhân không
"hoạt động tốt" vào thời điểm này.) Bằng cách chọn lựa Ryan cho liên
danh tranh cử Tổng Thống, Romney đã đưa ra một dấu hiệu khởi điểm thực sự rằng
—không giống kiểu cách Obama— ông ta là một người lãnh đạo can đảm không ngơ
ngáo tránh né những thách thức mà Hoa Kỳ phải trực diện.
Bây giờ cử tri phải dối diện với sự chọn
lựa quả quyết. Họ có thể cứ để cho Barack Obama tiếp tục ngao du huyên thuyên
chủ thuyết duy ngã với cái tôi của mình cho tới khi họ khám phá ra rằng họ đang
sống với lối sống theo phiên bản của Âu Châu ngay tại Hoa Kỳ, với mức tăng
trưởng rất thấp, tình trạng thất nghiệp cao, cùng món nợ ngày càng chồng chất—
và thực tế suy tàn quyền lực trên địa bàn chính trị thế giới.
Hoặc họ có thể quyết định chọn sự thay đổi
thật sự: chỉ có thay đổi mới chấm dứt được 4 năm của nền kinh tế hiệu quả thấp
kém tụt hậu, chấm dứt sự lũy tiến kinh khủng của món nợ quốc gia, và tái thiết
một nền tảng kinh tế tài chính vững chắc cho an ninh quốc gia Hoa Kỳ.
Như tôi đã trình bày: bây giờ là thời điểm
để lựa chọn, hoặc Hoa Kỳ phiên bản Âu Châu hoặc Khải Hoàn Ca Cộng Hòa.
Bốn năm trước tôi là người thua cuộc. Nhưng
năm nay, hừng hực phấn khích với đà thăng tiến của Ryan, tôi khao khát mãnh
liệt sự chiến thắng.
Niall Ferguson
No comments:
Post a Comment