NHÀ GIAM CỘNG SẢN – NƠI HOÀN TẤT VIỆC TRẢ THÙ
Nhà văn Nguyễn Quang
Nhà văn Nguyễn Quang
Saturday,
12.05.2012, 05:06pm (GMT)
Trích từ tác phẩm Biển Đỏ Việt Nam, Phần I,
Chương 30 của Nhà văn
Nguyễn Quang
Trầm
nhược và tự sát thường xuất hiện sau những thất bại liên tiếp, vì do kỳ vọng
quá cao “tham vọng lớn, mất mát lớn”. Trong môi trường tù, các tham vọng nầy
thường tự cá nhân đặt lên vai mình. Trầm nhược cũng có thể là một phản ứng đối
với sự mất mát thực thể hay huyễn tưởng do xa cách người thân, mất tình yêu hay
mất lòng tự trọng. Các tù nhân mắc chứng trầm nhược thường buồn rầu, ủ rũ,
không tiếp xúc với ai, chán nản mệt nhọc. Một bạn tù trên bốn mươi tuổi, án hai
mươi năm với những hoài vọng bị thất bại, bị bắn trọng thương lúc bị bắt, chân
bị gãy dù đã lành nhưng mảnh đạn hãy còn bên trong, sự đau nhức thường xuyên
cùng nhiều thất bại liên tiếp khiến anh trở nên trầm nhược, anh treo cổ tự sát
nhiều lần nhưng được các bạn tù phát hiện kịp thời. Tù nhân trẻ có tên Phúc,
tuổi ba mươi, án chung thân, kỳ vọng về một nền dân chủ thật sự và các công dân
được hưởng những quyền cơ bản của con người, hầu như lúc nào anh cũng đăm chiêu
về những vấn đề nầy, anh thích tự lập một mình, không xin ai một món gì và thậm
chí trong lúc quá thiếu thốn, Thiện Nam nhận thấy anh đi bươi rác để nhặt những
cộng rau muống già còn sót lại của các bạn tù khác đã vứt đi để mưu sinh, có lẽ
anh không muốn làm phiền đến ai, trong những hoàn cảnh đáng thương như thế cũng
có người lên giọng đạo đức với anh: tù chính trị mà làm như thế và lá thư cuối
cùng trong trầm uất, thất vọng, anh đã tự tử ngay tại phòng giam của trại Thung Lũng Tử Thần.
Vô
cảm dững dưng với tất cả những việc gì xảy ra chung quanh, hờ hững với hoàn
cảnh của mình, không có gì gây được thích thú và phản ứng cảm xúc. Tù nhân thụ
động lờ đờ, không thiết tha gì cả, thích nằm lì tại chỗ nếu có thể, hoặc ngồi
lánh xa một góc nào đó như thường gặp trong tâm thần phân liệt. Sự vô cảm đến
không còn cá tính.
Cuộc
sống mất tự do của các tù nhân, nó hạn chế mọi thứ đến mức tối đa như bữa cơm
hằng ngày vắt lại bằng quả trứng vịt, với thức ăn là nước muối khiến các yếu tố
bẩm sinh cũng như di truyền tàn lụi. “Hãy
cho chúng ăn thật ít và bắt chúng làm thật nhiều”. Có một viên Trung tá khi
vào tù đến bữa cơm đã yêu cầu phải dùng cân tiểu ly để chia cơm mới công bình,
thật vậy các buổi chia cơm thường xảy ra những vụ đánh cãi chửi nhau... dù đây
đó có người từng là các viên chức ngày trước. Một Thiếu úy cán binh cộng sản,
án mười năm, trên bốn mươi tuổi, hầu như mất liên lạc hoàn toàn với gia đình,
có lúc chính anh lại nhặt chính lá thư của mình gửi về gia đình bị vứt ngay nơi
anh làm vệ sinh quanh phòng giám thị, sự chịu đựng trong những điều kiện quá
khắc nghiệt khiến anh trở nên bất bình thường thấy rõ như miệng lúc nào cũng
lầm bầm chửi bới chế độ: toàn là một lũ cướp, tham ô nhũng lạm, vốn là phần lớn
phạm tội giết người rồi kéo vào chiến khu để dung thân và nay nắm chính quyền
chứng nào tật nấy, tao rành tụi bay quá mà.v.v. Tù nhân nầy vốn là một sĩ quan
cộng sản trong chiến khu về sau chống lại chế độ độc tài... Tù nhân trẻ khác,
án hai mươi năm, tuổi hai mươi, mặc dù còn trẻ nhưng chỉ còn da bọc xương, sống
nhờ vào các bạn tù, hầu như suốt ngày không nói tiếng nào, ai cho thứ gì thì
mừng, ai nhờ việc gì thì giúp, kể cả các cai tù sai đâu chạy đó, mọi sự như phó
mặc cho số phận.
Đàng khác, do phần lớn các quan hệ gia
đình bị cắt đứt, như thư tín bị hạn chế nếu không nói bị cấm. Các tù nhân
thường bắt gặp thư của chính họ hoặc từ gia đình gửi đến bị xé vứt lung tung có
khi ngay cả trên đường đi đến hiện trường lao động. Ngoài ra do địa
điểm của các nơi giam giữ quá hiểm trở, nên việc thăm gặp của người thân rất
khó khăn. Có gia đình khi trở về mang theo bệnh tật do tai nạn, hoặc suýt mất
mạng vì sốt rét rừng... Việc quan hệ gần gũi giữa các tù nhân cũng bị cấm đoán,
nhiều tù nhân bị gọi đích danh và cấm hẳn việc quan hệ với mọi người. Có giai
đoạn tại trại Thung Lũng Tử Thần chỉ cho phép thăm gặp ba tháng một lần và chỉ
được nhận 3 kg quà tiếp tế từ gia đình. Một tù nhân, tuổi trên ba mươi, án mười
lăm năm, hầu như không có sự liên lạc với gia đình, cơ thể anh gần như khô đét
lại vì phải lao động khổ sai với vắt cơm cùng nước muối và rau trời. Anh trở
nên trầm mặc ít nói, phó mặc theo tiếng kẻng dục lên thì đi, gọi về thì nằm phờ
ra đó. Nhiều tù nhân, mỗi năm gia đình mới đến thăm, thêm các chứng lao phổi và
suyễn, khiến họ trở nên ngày càng mệt mỏi, yếu dần, làm biếng nói năng, hầu như
bàng quan với mọi thứ chung quanh.
Chính những yếu tố vật chất và tinh thần như thế khiến
các tù nhân biến đổi dần đến thân xác còn đó nhưng vô hồn, mà nét chung về thể
trạng của họ chỉ còn da bọc “thây ma”, hai má hóp vào, mắt lõm sâu, nước da
xanh xao người nào cũng tái mét. Họ trở thành những hữu thể đặc thù trong
sự triệt hạ của con người chứ không phải nhằm chữa trị con người. Và “vật cùng
tất biến” như quan niệm triết lý Á đông. Các hữu thể đó được cải tạo dần đến
mức không còn nhận ra chính mình rồi đi thật xa mãi mãi đến cái chết như vị
Linh mục hùng biện một thời khả kính, Dòng Chúa Cứu thế, sau ba năm kiên giam
cơ thân teo lại chỉ còn bé tí, rọm người lại, trông thấy rõ về sự khốn cùng của
thân phận con người sắp chết đói. Hữu thể đó đã được cải tạo thành quái vật
người trong nền văn hoá vật người. Nhiều tù nhân trên sáu mươi tuổi, án cao,
gia đình hầu như rất khó khăn, nên bữa ăn chỉ có nước muối là chính cùng vắt
cơm nhỏ, phần lớn áp huyết cao ngày càng cao hơn khiến họ thường bị đột quỵ và
có cụ chết ngay sau giờ lao động khi ráng lê bước trở về.
Các yếu tố di truyền như thông minh, bén nhạy, sáng
tạo... trong sinh hoạt hằng ngày chỉ còn ở mức thấp nhất. Phần lớn các tù
nhân không còn năng lực để tư duy vì thức ăn chính yếu hằng ngày là khoai mì và
lá mì làm dưa, nếu không muốn nói là tiêm chất độc dần vào cơ thể. Có tù nhân
lùn, có lẽ anh ta lùn nhất ở trại Thung Lũng Tử Thần, tuổi hai mươi, án trên
mười năm, chỉ còn biết lo cải thiện, anh hay nói: bây giờ chỉ có ăn, ăn để tồn
tại còn mọi chuyện sẽ tính sau. Nhiều tù nhân khác, tuổi bốn mươi, án trên mười
năm, có cùng quan điểm phát biểu: bây giờ không còn phải suy nghĩ gì nữa, chỉ
mong sao cho qua ngày vì đã kiệt sức lắm rồi.
Việc
giáo dục chỉ là phương tiện tuyên truyền lập đi, lập lại theo một khuôn mẫu
không có gì mới, nhất là giữa lý thuyết và thực tế là sự khác biệt vô cùng. Trưởng trại Bảy đầu rìu, khi thăm các
tù trọng án và bảo: các anh hãy bảo trọng... Nhưng y vừa rời khỏi phòng giam,
các cán bộ của y đã mang cả giày ủng nhảy lên người các tù nhân đang bị cùm và
đánh đá túi bụi khiến ai cũng một phen kinh hoàng và xảy ra lập đi lập lại như
vậy thường xuyên. Đó là sự giáo dục, an ủi của những người cộng sản. Các buổi
học tập chính trị thường xuyên được tổ chức như nào hiến pháp đều có ghi đầy đủ
việc tôn trọng các quyền cơ bản của con người: tự do tôn giáo, hội họp, thông
tin... Nhưng cụ thể khi gặp quý tăng ni, tu sĩ đang bị tù, các trưởng trại đều
thường gọi là “thằng”, như trưởng trại Bảy khi gặp các Nhà sư còn gọi “ mày,
tao”. Trong khi chính y vẫn thường xuyên tuyên bố trước toàn trại: Đảng ta rất
tôn trọng tự do tôn giáo... Các tù nhân chỉ biết cúi đầu thầm lặng: những người
cộng sản nói vậy, nhưng không phải dzậy!
Con đường thật sự mở ra trong việc chuyển biến con người
của chế độ toàn trị không phải là mở đường để tạo ra một khởi đầu mới mà nó là
cái chết. Đó là sự hoàn tất tốt nhất trong việc trả thù. Sự khốn cùng của
triết lý: đó là điều quan trọng không phải làm cho con người được sống và sự
sống lại mà chết đi, chết lại nhiều lần và rồi chết thật. Một tù nhân rất trẻ,
chưa ngoài ba mươi, đã chết vì bệnh chó dại ngay tại trại giam, nguyên do chính
là giám thị trại giam không cho ra ngoài điều trị, họ buộc phải điều trị bằng
thuốc Nam do một Nhà sư phụ trách về Đông y ở đây. Vị Đại đức nầy đứng ra lãnh
trách nhiệm và sau nhiều thang thuốc Nam do ông chế... Song đúng ba tháng mười
ngày thì tù nhân nầy trào nước bọt, tru tréo như chó rồi chết. Tù nhân đáng
thương mang án phạt 11 năm, can tội chống chế độ. Còn Cha Luân bất khuất chỉ bị một mụt nhọt nhỏ ở lưng, thế nhưng
không được chữa trị khiến vết ung lan dần cho đến lúc nhiễm trùng và chết. Khi
sắp chết, Người được ra khỏi kiên giam, vào bệnh xá trại giam, vị Linh mục vẫn
bình thản lạc quan nhắn nhủ những người Việt Nam hãy vì con người, và luôn đấu
tranh cho quyền con người.
Những
hình thức lao động khổ sai để trả thù như đập đá, ngâm mình trong sình lầy suốt
tám tiếng mỗi ngày, chưa kể việc tranh thủ làm đêm. Các tù nhân thường phải đi
sớm về muộn, những hôm nào có sương mù thì được đi trễ vì bọn cai tù sợ xảy ra
trốn trại, rồi nhiều buổi chiều tối cho đến buổi chiều cuối cùng trúng phải nơi
người tù bất hạnh nào đó thật là bi đát trong tiếng kêu tuyệt vọng: thôi chết
cho khoẻ tấm thân hơn là sống với cái ác đến bi đát quá. Tù nhân Trần Xuân án tử hình, nguyên là một trong số các Viện
trưởng kiểm sát của chế độ cộng sản, luôn nhắn nhủ các tù nhân khác về bản chất
chế độ giam giữ trong chế độ chuyên chính vô sản: Đến đây thời ở lại đây... bao
giờ bén rễ xanh cây mới về... Một Linh mục tuyên uý quân đội trong chế độ miền
Nam trước đây, án tập trung, ngoài năm mươi tuổi, lao động đến kiệt sức do ngâm
mình suốt ngày trên ruộng sình, lâu ngày bị sưng phổi, ho nhiều từng cơn rồi ói
ra nước vàng và chết tại trại giam. Đặc biệt vị Linh mục nầy vẫn ung dung không
van xin để nghỉ bịnh, Người vẫn đi làm khổ sai cho đến khi gục ngã. Đặc biệt
hơn nữa, lúc chết đi Người được các cán bộ cộng sản chôn một nơi riêng cao ráo
hơn và chôn sâu để chứng tỏ Nhà nước tôn trọng tôn giáo... Vì họ biết chắc thế
nào cũng có ngày Toà Giám mục lên thăm.
Mất
cảm giác tâm thần là mất mọi phản ứng cảm xúc, nhưng nếu môi trường được thay
đổi thì vẫn tiếp xúc được. Có loại mất hết phản ứng cảm xúc như trên nhưng lại
còn cảm xúc đau khổ về hiện tượng mất cảm xúc của mình, triệu chứng nầy gọi là
mất cảm xúc tâm thần đau khổ. Nhiều khi vì quá đau khổ mà người bệnh có hành vi
tự sát. Triệu chứng nầy gặp trong loạn tâm thần hưng trầm cảm, trầm cảm thoái
triển, tâm thần phân liệt. Các tù nhân do bị cùm lâu ngày trong nhà kỷ luật nên
nửa thân người hầu như bị mất cảm giác, lúc ra khỏi kiên giam họ phải tập đứng
ngồi ngay tại chỗ thật khó khăn, nhiều khi sự cử động làm toàn thân đau đớn
khiến hầu như đều có lời than vãn muốn chết cho khoẻ. Một tù nhân trẻ, án chung
thân, tuổi ba mươi, một chân mất cảm giác dần do bị bắn lúc bị bắt và mảnh đạn
vẫn còn. Nỗi đau cùng sự tiếc rẻ về cái chân đang bị chết dần do không được
chữa trị của mình... khiến anh có lúc nghĩ đến việc kết liễu cuộc đời .
Cảm
xúc không ổn định, người tù dễ chuyển từ cảm xúc nầy đến cảm xúc khác một cách
nhanh chóng, từ vui chuyển sang buồn, từ khóc sang cười, từ lạc quan sang bi
quan. Thường gặp trong các bệnh có tổn thương thực thể não bộ, các trạng thái
suy nhược. Có người bị mất vợ lúc ở tù, và một trường hợp tù nhân thuộc nhóm
nầy, án hai mươi năm, tuổi bốn mươi, hầu như không có gia đình thăm viếng, có
lúc thật vui vẻ, song có lúc lên cơn thật hung dữ sẽ gây gổ với bất cứ ai nếu
có sự xích mích với anh ta. Người ta được biết sau khi được tha khỏi trại giam,
anh đã dùng súng gây với công an địa phương và bị bắn chết ngay tại chỗ trên
thành phố biển Nha Trang. Các bạn tù đã đoán trước được việc nầy và luôn khuyên
anh ta nên kiềm chế khi trở về nhưng đã không tránh khỏi: viên công an nầy đã
lấy vợ của anh trong lúc anh thụ án.
Cảm
xúc say đắm là một trạng thái tăng cảm xúc mạnh có tính chất nhất thời. Hứng
thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng vừa có ý nghĩa quan trọng
trong đời sống, vừa có khả năng đem lại cho cá nhân một sự hấp dẫn về mặt tình
cảm. Khi hứng thú con người có ý thức đầy đủ, có cảm xúc, cảm hứng đặc biệt với
đối tượng. Nhà giam, nơi con người bị cưỡng chế, trấn áp, nên các tù nhân không
còn hứng thú trong công việc bị áp đặt, hoặc có thái độ ngược lại và lấy đó làm
thích thú. Các hành động phá hoại ngầm trở thành yếu tính của các tù nhân.
Chính họ lấy làm hứng thú trong cuộc đấu tranh bất bạo động nầy để đối kháng
lại với các cai tù. Sự hứng thú giúp con người vượt qua những khó khăn trở
ngại, nó tăng sức đề kháng về nhiều mặt và kích thích con người hoạt động, hy
vọng. Các tù nhân trẻ trong sự bí mật đầy hứng thú, hồi họp cùng các thanh niên
ở các phòng khác đồng loạt tung bướm khắp toàn trại để phản kháng và đòi cải
thiện chế độ lao tù... Họ vui vẻ tình nguyện giả vờ đánh nhau, hái dừa trộm cốt
được kỷ luật để mang thuốc men, quần áo... cho các tù nhân bị kiên giam lâu
dài. Họ đều ở lứa tuổi hai mươi.
Câu
nói “nước sông công tù” là đặc trưng
tinh thần làm việc của hầu hết các tù nhân: động tác lập đi, lập lại lờ đờ chậm
chạp như đập xơ dừa đến tơi tả thành xơ... những nhác cuốc, đúng hơn là những
“nhát gừng” mỗi khi vắng bóng cán bộ... thậm chí quét cái sân cũng sợ tốn sức
lực. Thế nhưng, đào tường khoét vách để trốn trại thời rất nhanh nhẹn, thông minh,
ý thức trỗi lên một cách toàn diện vì có hứng thú nhất là đứng trước sự sống
còn. Cũng như những vụ đánh cắp hoa màu để mưu sinh thật là bén nhạy, các tù
nhân dù chân chất đến đâu, sau một thời gian ở tù vì lý do sinh tồn đều biết
đánh cắp hoa màu để tồn tại. Họ không còn mặc cảm tội lỗi vì như thế sẽ có thể
đánh mất bản thân mình trong một tình huống nếu không ăn cắp cũng phải biết che
giấu cho các tù nhân cùng cảnh ngộ, để cùng sống với nhau trong lúc đói khổ tột
cùng. Một trường hợp đặc thù, người nầy tuổi ba mươi, từ án thấp và mỗi lần
trốn trại bị tăng án đến chung thân. Bình thường trông rất lù đù, chậm chạp,
nhưng không ai ngờ lúc bạo động trốn trại diễn ra, anh là người la lớn nhất và
xông xáo vô cùng, mặc dù nhỏ con ốm yếu thật, song những tiếng hô hào vang dội,
cổ động nhất đều phát ra từ anh. Lần trốn trại đưa anh lên chung thân, khi bị
phát hiện và không thể chạy kịp, chính anh từng hô hào kích động trước đó thế
nào thì lúc nầy lại kêu lớn ngược lại: cứu tôi với cán bộ ơi, bọn chúng đang đào
thoát kia kìa... Cứu tôi với cán bộ ơi...
Hình
ảnh cán bộ quản giáo và quản chế trong vụ bạo loạn trốn trại có tù nhân dạng
đặc thù ở trên, tại Cổn Sơn, trước
đó quản giáo nầy rất hung dữ, khắc nghiệt vô cùng với tù, nhưng vào lúc bạo
loạn nổi lên y đã quá sợ hãi chạy tháo thân chui vào chuồng heo gần đó mà trốn,
các tù nhân tự giác cũng nhớn nhác chạy theo, cho đến khi tình hình bị đảo
ngược lại, người ta thấy cán bộ quản giáo nầy quần áo đầy phân heo và tiếp tục
quát tháo. Các tù nhân nghe rất rõ tiếng y trả lời viên trưởng trại về việc: “
tại sao mày nhơ bẩn đến thế...” - “Dạ thưa... em đang phục kích”.
**
Mời xem :
No comments:
Post a Comment