BS Trần Văn Tích
Sunday,
05.08.2012, 02:11pm (GMT)
Nguồn:
TTVH Nguyễn Trường Tộ, Paris
Karl Marx từng ghi danh học đại học theo khoa triết. Luận án tiến sĩ do Marx
trình ở Viện Đại học Jena năm 1841 so sánh sự khác biệt giữa triết học tự nhiên
của Épicure và của Démocrite. Marx quan niệm rằng nhiệm vụ của triết gia không
phải chỉ riêng qui vào chuyện giải thích thế giới, mà chủ yếu là cải tạo thế
giới. Trình bày các qui luật tiến hóa của lịch sử kinh tế, Marx chủ trương rằng
xã hội có những hình thái xã hội-kinh tế tùy thuộc vào giai đoạn phát triển :
thời cổ đại có chế độ nô lệ, thời phong kiến có chế độ nông nô, thời tiểu tư
sản tư bản có chế độ công nhân. Như thế, ứng dụng triết học vào thực tiễn, Marx
dần dà trở thành một chuyên gia kinh tế.
Friedrich Engels không tốt
nghiệp đại học, không trình luận án tiến sĩ, tuy có ghi danh theo học triết ở
bậc đại học nhưng rồi lại xoay sang nghiên cứu khoa học tự nhiên và toán học.
Thời gian ở Manchester, Engels chuyển qua viết sách về các vấn đề quân sự để
rồi sẽ được Lénine xem như một chuyên gia vĩ đại về chiến lược chiến thuật.
Ngoài ra, Engels còn là nhà doanh nghiệp, từng phải làm việc ” thương mại xấu
xa” để có phương tiện kinh tế giúp đỡ cá nhân và gia đình Marx về tài chánh.
Cả hai tích cực viết
báo, in sách. Nhưng cả hai không phát biểu trực tiếp và nhất là chuyên sâu về
văn học. Cuốn Marx Lexikon. Zentrale Begriffe der politischen Philosophie
von Karl Marx (Từ điển yếu lược về Marx. Các khái niệm căn bản về triết học
chính trị của Karl Marx), Hans Joachim Lieber và Gerd Helmer biên soạn, Nhà
xuất bản Wissenschaftliche Buchgesellschaft, Darmstadt, 1988, 715 trang, liệt
kê các mục từ liên quan đến phạm vi sáng tác của Marx, từ chữ Anarchismus (chủ
nghĩa vô chính phủ) qua Freiheit (tự do), Klasse (giai
cấp), Materialismus (chủ nghĩa duy vật), Philosophie (triết học),
Sklaverei (chế độ nô lệ) v.v..đến đơn vị từ chót là Zunftwesen (nghiệp
đoàn) mà không hề có mục từ Literatur (văn học). Tác phẩm để tên K. Marx
và F. Engels Ueber Kunst und Literatur (tiếng Đức), Sur la
littérature et l’art (tiếng Pháp), Bàn về văn học và nghệ thuật (tiếng
Việt) thật ra chỉ gồm những đoạn trích dẫn rời rạc từ các bài viết, thư tín
v.v..của hai ông tổ chủ thuyết cộng sản. Bài nói chuyện trong buổi tọa
đàm văn nghệ ở Diên an (Tại Diên an văn nghệ tọa đàm hội
thượng đích giảng thoại) của Mao Trạch Đông ngày 02.05.42 cũng khẳng định
rằng vấn đề ”văn học nghệ thuật phục vụ đối tượng nào” chủ yếu đã được Lénine
giải quyết bằng cách xuất phát từ nhu cầu mới của thời đại cách mạng vô sản để
phát triển tư tưởng Marx-Engels và đi đến tuyên bố dứt khoát văn học phải phục
vụ đường lối chính trị của giai cấp công nhân, phải phục vụ cách mạng vô
sản. ”Sự nghiệp văn học phải thành một bộ phận trong toàn bộ sự nghiệp
của giai cấp vô sản, phải thành ‘một bánh xe nhỏ và một đinh ốc‘ trong bộ máy
xã hội dân chủ vĩ đại, thống nhất do đội tiền phong hoàn toàn giác ngộ của toàn
bộ giai cấp công nhân mở máy”. (1)
Đến lượt mình, Mao Trạch Đông lại vận dụng tư tưởng Marx-Lénine vào thực tiễn
cách mạng Trung quốc để yêu cầu nhà văn ”làm cho văn nghệ trở thành một bộ phận
trong toàn bộ guồng máy cách mạng, một vũ khí sắc bén để đoàn kết nhân dân,
giáo dục nhân dân”.
Nhưng bất chấp sự kiện lịch sử là hai nhân vật khai sinh
ra nó chỉ chuyên tâm nghiên cứu về triết học, kinh tế, toán học, quân sự, người
cộng sản lại muốn học thuyết Marx-Engels phải là một học thuyết chính xác, cân
đối, hoàn bị và nhất là vạn năng. Họ mang nó áp dụng vào y học, từ đó đề
cao học thuyết Pavlov nhằm trình bày cơ chế hoạt động của hệ thần kinh trung
ương, với kết quả là một loạt những giả thiết sinh lý học mơ hồ, huyền hoặc,
không kiểm chứng được. Họ mang nó áp dụng vào sinh học, từ đó đề cao học thuyết
Lyssenko, nhằm giải thích các qui luật di truyền, với kết quả là sự ngu muội u
mê trong nghiên cứu cơ chế tiên thiên, đột biến. Họ mang nó áp dụng vào văn
học, từ đó đề cao phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa, nhằm giải
thích cho kỳ được động lực của sinh hoạt xã hội, tác dụng quyết định của quần
chúng nhân dân trong lịch sử, vai trò quan trọng của giai cấp vô sản trong lĩnh
vựïc văn chương chữ nghĩa. Từ đó có thành quả phê bình văn học bằng cái lưỡi
không xương.
*
Những công trình về xây dựng lý
luận văn học cũng như những công trình sáng tác văn học mới của giới văn học
Trung hoa được nhiều người biết đến là của Lỗ Tấn, Mao Thuẫn, Cù Thu-bạch,
Quách Mạt-nhược, Điền Gian, Tào Ngu, Triệu Thụ-lý, Lưu Bạch-vũ, Chu Lập-ba
v.v.. Trong số các nhân vật này, Quách Mạt-nhược đạt được danh vọng trên chính
trường và uy vọng trong văn giới.
Xuất thân từø một
gia đình quí tộc, từ những năm còn nhỏ tuổi đã đọc Thi phẩm của Tư
Không-đồ đời Đường bàn về thi ca, Quách Mạt-nhược thoạt tiên học y khoa ở Nhật
rồi về sau mới chuyển hẳn sang làm văn nghệ. Từ sau phong trào Ngũ tứ (3) , ấn hành tập thơ Nữ thần với nội dung phủ nhận cái cũ,
khát vọng sáng tạo cái mới, được xem như thi phẩm mở đầu, vạch đường chỉ lối
cho thi ca cách mạng Trung quốc. Cùng năm ấy (1921), thành lập Sáng tạo
xã, xuất bản tạp chí Sáng tạo quí san. Năm 1923 về nước, tham gia cuộc
biến động Vũ xương do cộng sản lãnh đạo; thất bại, phải lánh sang Nhật bản lần
nữa, ở lại đây mười năm nghiên cứu lịch sử cổõ đại, văn tự thượng cổ. Năm 1942
qui hương, từ đây chú tâm viết kịch lịch sử mà nổi danh nhất là kịch phẩm Khuất
Nguyên, mượn chuyện xưa ca ngợi tinh thần yêu nước chống xâm lăng, phê phán
chính sách đầu hàng thỏa hiệp. Nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa thành lập,
Quách trở thành Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật, Phó Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng rồi Chủ tịch Ủy ban Khoa học Nhà nước. Quách Mạt-nhược sinh năm
1892, mất năm 1978.
Là công thần của chế
độ độc đảng chủ trương văn nghệ phục vụ chính trị, Quách Mạt-nhược có phương
pháp phê bình văn học theo định hướng vạch sẵn. Chẳng hạn với một tấm
lòng ”lật đổ các thành án của lịch sử ”, Quách đã từng hết lời khen ngợï
ba người đàn bà độc đáo của văn học nòi Hán mà người đẹp Trác Văn-quân của
Tư-mã Tương-như là một. Nhưng ông đi quá đà khi tán tụng, đề cao. Nghiên cứu và
soạn kịch về Khuất Nguyên
(4), Quách lợi dụng thi tài của Khuất Nguyên cho nhu cầu tuyên truyền. Kiệt
tác cổ văn Trung quốc Ly tao do Khuất Nguyên sáng tác thực chất chỉ nhằm
ký thác tâm trạng u buồn vì bị ”lay ốp”, nói nôm na trắng trợn là vậy.
Chính Khuất Nguyên viết trong Ly tao qua lối ẩn dụ quen thuộc :
Khuê trung ký thúy viễn hề,
triết vương hựu bất ngộ;
Hoài trẫm tình nhi bất phát hề,
dư yên năng nhẫn nhi dữ thử chung cổ !
(Nàng ở nơi phòng khuê thăm thẳm hề,
mà đức minh quân lại không tỉnh ngộ;
Ôm nỗi lòng mà không bày tỏ ra được hề,
ta sao chịu được như vầy cho tới hết đời !)
Như vậy, nhà thơ cổ đại tuy không quá nghĩ đến quyền lợi
riêng tư nhưng cũng chỉ ước ao phục vụ quyền lợi vua chúa. Viết Bốc cư, Khuất
Nguyên cũng lại tự tình y như vậy :
Khuất Nguyên ký phóng, tam niên bất đắc phục kiến,
Kiệt trí tận trung, nhi tế chương ư sàm.
Tâm phiền ý loạn, bất tri sở tùng.
(Khuất Nguyên bị đuổi, ba năm không được thấy vua,
Hết sức trung thành nhưng bị kẻ sàm báng hại.
Lòng buồn ý loạn, không biết theo đâu).
Thành ra tâm sự Khuất Nguyên chỉ là tâm sự
một quan lại viên chức không còn được tin dùng nên buồn rầu chán nản. Chứ
Khuất Nguyên không hề yêu nước, lại càng không thể là nhà đại ái quốc. Huống
chi ở thời đại Khuất Nguyên quan niệm về Tổ quốc chưa thành hình. Ai nghĩ là
mình có tài thì cứ đi từ địa phương này sang địa phương khác, nơi nào chịu dùng
thì tá túc nương thân. Người nào cung phụng tử tế thì phục vụ, ai cấp cho quan
tước thì tận trung. Đó là hạng thực khách ở những nhà Mạnh Thường-quân, Tín
Lăng-quân, Bình Nguyên-quân. Đó là những Yêu Ly, Kinh Kha, Dự Nhượng, Điền Vi
sẵn sàng chết cho một người nào đó để đền ơn tri ngộ. Ngũ Tử Tư sinh trưởng ở
Sở nhưng thề nguyền đạp đổ Sở, họ Ngu đã mang binh tướng Ngô về dẫm nát đất Sở,
đào mả Sở Bình vương đem thây lên đánh ba trăm roi và móc đôi nhãn cầu. Khổng
tử người đất Lỗ nhưng vì được phong chức thấp quá nên Ngài dấn bước chu du
truyền đạo khắp Vệ, Trần, Tề, Sái, Sở, Tống. Mạnh tử cũng vậy, đã bôn ba đi gặp
rất nhiều lãnh chúa mong được trọng dụng song không thành công nên cuối đời về
quê dạy học. Đặc biệt đối với những nhân vật gọi là nhà du thuyết như Tô Tần,
Trương Nghi thì nơi nào dùng họ là họ lấy nơi ấy làm quê hương. Họ chẳng có
trách nhiệm gì với dân chúng sinh quán, họ chẳng băn khoăn gì về tương lai bản
địa. Cho nên đời bây giờ mới có câu triêu Tần mộ Sở nghĩa là sáng thì
(thờ) Tần chiều thì (thờ) Sở. Không biết đâu là tổ quốc, thì làm thế nào mà ái quốc được?
Những nhà nghiên cứu khách quan – dù chỉ khách quan tương đối – đều thấy điều
này, ngay cả khi họ đứng cùng chiến tuyến với Quách Mạt-nhược. Ferenc Toekei,
người Hung gia lợi, trong Naissance de l’élégie chinoise, Gallimard (nrf
), Paris, 1967, trang 166, viết : ”Pourquoi K’iu Yuan n’a-t-il pas
émigré dans le Ts’in? On en chercherait volontiers la cause dans son
patriotisme. Kouo Mo-jo a trop insisté sur ce détail, en célébrant K’iu Yuan
comme le grand poète du patriotisme. Mais il ne faut pas attribuer d’importance
à ce sentiment chez le poète, d’autant qu’à ce degré de développement de la
société chinoise il n’y avait pas de nation ni même de peuple, au sens
historique de ces termes, et que le patriotisme n’avait pas alors le même sens
que plus tard (ce sens variera d’ailleurs selon les époques).” Nguyên tác
cuốn sách này xuất bản ở Budapest năm 1959. David Hawkes, trong The Songs of
the South, Penguin Books, Mid dlesex, 1985, trang 64, kể với giọng mỉa mai
rằng : ”A little book for high school students published in 1957 opens with
the words, ”Qu Yuan ist the first great patriotic poet in the history of our
country’s literature.” Có tác giả cộng sản lại phong chức cho Khuất
Nguyên làm nhà thơ nhân dân như Văn Nhất-đa. Là thành viên của Tân
cách luật thi phái, chấp bút thi phẩm Tử thủy (Nước đọng), tham gia Tân
nguyệt xã, biên tập viên Tân nguyệt nguyệt san, bình phẩm thơ Đường,
Kinh Thi, Sở từ; Văn Nhất-đa bị ám sát chính trị vì lập trường cực đoan. Theo
Văn, Khuất Nguyên dẫu không đề cập đến đời sống quần chúng, đến các nỗi bất
hạnh của họ, vẫn đáng được xem là một thủ lãnh phong trào cách mạng nhân dân,
đã vì nhân dân mà báo thù rửa nhục! Trong khi đó thì chính Khuất Nguyên mở đầu Ly
tao bằng cách ”thành khẩn khai báo lý lịch” rằng mình xuất thân từ một gia
đình quí tộc, có họ xa với vua nước Sở.
Bây giờ xin trở lại với điểm xuất
phát. Nhân dịp kỷ niệm 1250 năm sinh nhà thơ Đỗ Phủ, Quách Mạt-nhược viết
trên Quang minh nhật báo số ngày 09.06.62 rằng Đỗ Phủ là một thi sĩ rất
gần gụi nhân dân và là một nhà thơ mãi mãi được nhân dân Trung hoa yêu quí. (Trung
quốc nhân dân hướng lai tựu bảo quí tha, kim hậu giã vĩnh viễn yếu bảo quí tha).
Nhưng chưa đến một thập niên sau đó, Quách viết trong tác phẩm Lý Bạch dữ Đỗ
Phủ (Lý Bạch và Đỗ Phủ), Nhân dân văn học Xuất bản xã, Bắc kinh, 1971, rằng
Đỗ Phủ luôn luôn đứng về phe giai cấp thống trị và địa chủ, rằng ý thức hệ của
giai cấp thống trị là xương sống tư tưởng của nhà thơ (tư tưởng đích tích
lương, tr.195)! Dựa vào một bài biểu do chính Đỗ Phủ viết, theo đó vị Thi
thánh nói tổ tiên mình đời đời tôn thờ đạo nho và làm quan, chưa bao giờ rơi
xuống làm người dân thường, Quách châm biếm mỉa mai cung cách trình bày gia thế
của thi sĩ. Từ xưa tới nay, từ đông sang tây, giới thưởng ngoạn và bình phẩm
vẫn nhận rằng thi ca Đỗ Phủ có nhiều bài phản ảnh một cách sâu sắc, cay đắng,
đồng cảm, trung thực đời sống khổ cực của dân chúng, khác với Lý Bạch. Người
lính, người vợ lính, lão nông, ông lái đò, người vác củi, người bố mất con,
người đàn bà đơn côi ăn trộm táo v.v..là những nhân vật hình tượng mỹ học từng
xuất hiện trong thơ Đỗ Phủ. Từ kinh đô qua huyện Phụng tiên, nhà thơ tâm niệm :
Cùng niên ưu lê nguyên,
Thán tức trường nội nhiệt.
(Suốt năm lo lắng cho dân đen,
Lòng bồn chồn, ruột nóng bỏng).
Tâm tình nhà thơ là như vậy. Thế nhưng Quách Mạt-nhược
lại cho rằng lòng lân tuất đó chẳng qua chỉ là thứ tình trắc ẩn rẻ tiền (liêm
giá đích đồng tình, tr.206) vì Đỗ Tử Mỹ không đề ra biện pháp nào nhằm chấm
dứt nỗi thống khổ của nhân dân! Cùng trang 206, Quách nói giọng chì chiết : hai
câu thơ trong bài Tân an lại nổi tiếng
Nhãn khô tức kiến cốt,
Thiên địa chung vô tình.
(Mắt khô đến trơ xương,
Trời đất luôn luôn dửng
dưng)
chỉ hàm chứa hậu ý chạy tội cho tập đoàn cầm quyền bằng
cách đổ thừa cho trời với đất! Một độc giả công bình phải hiểu rằng viết thiên
phóng sự về cảnh đời loạn lạc thảm khốc của dân chúng, nhà thơ lớn đời Đường
nhìn đám người nghèo khó qua những cặp mắt khô lệ của họ để ghi nhận rằng họ
chỉ còn là những bộ xương; hoặc chính những cặp mắt của đám người khốn khổ đã
nhận ra chân lý thời đại là trời đất chẳng hề có chút tình thương nào đối với
những kẻ bị bán khoán cho thần chết. Trong thơ Đỗ Phủ thường xuất hiện
những hoài bão, những uớc mơ mãnh liệt về một cuộc sống hoà bình hạnh phúc, áo
ấm cơm no. Nhà thơ ưa dùng hai từ an đắc (ước sao được, đâu được, làm
sao được). Bài Mao ốc vi thu phong sở phá ca (Bài ca mái tranh bị gió
thu thổi tốc) xuất phát từ hoàn cảnh cá nhân với ngôi nhà bị gió thổi bay nóc
của mình mà nêu ra giấc mơ ước gì có được toà nhà vạn gian che chở cho khắp
thiên hạ :
An đắc quảng hạ thiên vạn gian,
Đại tế thiên hạ hàn sĩ câu hoan nhan,
Phong vũ bất động an như san.
(Ước gì có được toà nhà rộng nghìn vạn gian,
Che chở hàn sĩ khắp thiên hạ khiến mặt ai cũng vui tươi,
Vững như núi chẳng sợ mưa gió lay chuyển).
Nhà thơ quên mình để chỉ nghĩ đến người. Đối với những
dòng thơ này, Quách Mạt-nhược đay nghiến thi nhân không nhận thức được rằng một
chương trình kiến thiết gia cư như thế đòi hỏi biết bao công sức lao động (na
dạng đích “quảng hạ“ yếu hữu “ thiên hạ gian“ , bất tri đạo yếu phí đa đại đích
lao dịch, tr. 215)!!
*
Người phê bình văn học giống nhà
chính trị ở điểm cả hai cùng có mục đích thuyết phục, một bên thuyết phục độc
giả, một bên thuyết phục cử tri. Nhưng chính trị gia có xu hướng tạo cho mình
tính tự miễn nhằm chống lại sự phê phán qua cung cách tự liệm mình trong áo
quan mơ hồ và bằng hứa hẹn bất nhất. Làm công tác khoa học, đi tầm cứu chân lý,
phê bình gia tránh không để mình dính dáng trực tiếp, gắn bó với đối tượng
nghiên cứu; giữa chủ thể phê bình và khách thể tác phẩm luôn luôn có một khoảng
cách. Bình khác đọc, dẫu rằng tất nhiên muốn bình thì trước hết
phải đọc. Nhưng cách đọc của người phê bình hướng vào mục đích tìm kiếm chân
lý, phát hiện giá trị, ước định tác động. Nếu chính trị gia lo tự chủng nhằm
phòng ngừa đả kích của đối phương thì phê bình gia tìm ý nghĩa việc làm của
mình trong dư luận phán xét, và nếu thấy dư luận hợp lý, chính đính, đúng sự
thật thì sẵn sàng đổi thay ý kiến. Hơn thế nữa, phê bình gia còn tựï phê phán
mình, tự nhận định về mình để khi cần, nếu cần thì cách tân quan niệm, sửa lại
lập trường. Chính trị gia chỉ là một độc giả sử dụng ngôn ngữ. Người làm văn
học vận dụng nghệ thuật ngôn ngữ. Phê bình gia cũng dùng ngôn ngữ nhưng là dùng
ngôn ngữ để phân tích ngôn ngữ, cho nên phê bình gia dùng siêu ngữ, phiên ngữ, metalanguage.
Siêu ngữ là công cụ để phê bình, ngôn ngữ văn bản (hay thi phẩm) là
ngôn ngữ chủ đích của siêu ngữ.
Học giả không đi tìm thế lực,
quyền lực như chính trị gia. Làm chính trị là để nắm chính quyền, lập chính
phủ. Làm nghiên cứu là để tìm hiểu, phân tích và riêng trong văn học, là để phê
bình, bình phẩm. Hoạt động giữa môi trường khoa học, nhà phê bình sử dụng ngôn
ngữ khoa học đòi hỏi tính đơn nghĩa, minh bạch. Không có lối nói đa nghĩa,
ngoắt ngoéo, càng không có phong cách tiểu xảo, mạo hoá. Hơn nữa, trình bày ý
kiến của mình xong, phê bình gia sẵn sàng lắng nghe ý kiến người khác, hân hoan
chấp nhận phê bình từ tha nhân. Giới phê bình thừa khiêm cung để chẳng bao giờ
ngông cuồng hợm hĩnh tự nhận mình là đỉnh cao trí tuệ. Cho nên tiến bộ của phê
bình đặt trên giàn phóng tư duy dân chủ, nó đòi hỏi cơ chế cạnh tranh giữa các
trường phái khác nhau, nó tôn trọng dị biệt quan điểm, và tất nhiên, nó có khát
vọng tựï do tư tưởng, nó không chấp nhận kiểm duyệt.
Văn học là văn học nhưng phê bình văn học lại là khoa
học. Nhiệm vụ của nó, của phê bình với tư cách một khoa học, là thông
qua những hiện tượng – nhiều khi dường như có vẻ ngẫu nhiên, dĩ chí lộn xộn –
mà phát hiện, minh định các qui luật khách quan, lúc đầu tựa hồ nhìn không ra.
Bước thêm bước nữa, phê bình văn học vũ trang cho giới nghiên cứu văn chương sự
hiểu biết về những qui luật liên hệ để giới này sử dụng, áp dụng, vận dụng
trong hoạt động chuyên môn thực tiễn. Sức mạnh của khoa phê bình văn học là ở
những điều khái quát của nó bởi trong mọi lĩnh vực sinh hoạt chữ nghĩa, phê
bình văn học chỉ ra tác dụng của các qui luật cơ bản thuộc đám hiện tượng bề
ngoài xem như hỗn mang. Tại sao chư vị thiền sư đời Lý Trần khi sáng tác kệ lại
hầu như chỉ sử dụng thể thơ bốn câu bảy chữ và nhất là năm chữ? Tại sao khi Mộ
Dung Bác đốn ngộ trong Lục mạch thần kiếm để chợt nhận ra rằng thứ
dân, đế vương cũng đều là cát bụi, nước Đại Yên khôi phục được cũng là không mà
chẳng khôi phục được cũng là không thì nhà sư già trong chùa Thiếu lâm liền đọc
lên mấy câu thơ ngắn gọn để khai ngộ cho họ Mộ Dung và Tiêu Viễn Sơn? Tại sao
trong Thiên long bát bộ, Đại Luân Minh Vương Cưu Ma Trí lại đọc tại chùa
Thiên long nước Đại lý một bài tứ cú (thơ bốn câu) nói lên lẽ hữu thường mà hoá
vô thường, đã hình như giả lại hình như không? v.v.. Mới thoạt nhìn, hoàn
cảnh xuất hiện các bài thơ lịch sử có tác giả hiển danh đời Lý Trần ở Việt Nam
và sự ngẫu tác các bài thơ khai tâm đệ tử có tác giả hư cấu trong truyện chưởng
Kim Dung, hoàn cảnh xuất hiện đó có vẻ như tình cờ, đột phát. Nhưng nhà phê
bình am hiểu chứùc năng, mục đích của kệ có khả năng khái quát hoá lý do
đích thực của sự vận dụng thể loại liên hệ (kệ là thơ suy lý, kệ
ghi nhận thời điểm xuất thần của nhà tu hành, kệ nói lên trong một tích
tắc và vào một đỉnh điểm tư tưởng Phật học v.v..) Đọc kệ để thị đệ tử
là văn học, phát hiện nguyên nhân đọc kệ là khoa học. Là khoa học
nên phê bình văn học sử dụng thuật ngữ chính xác : thể (genre), phân thể
(subgenre), vận luật (rhyme), âm luật (metre), văn phong (stylistic
devices), cách thế trần thuật (narratological modes) v.v.. Cho dẫu
không đạt được đến mức độ chính xác của phân loại khoa học theo nomenclature
binominale, theo danh pháp nhị nguyên, nhưng phê bình nghiên cứu văn học
cũng đã biết đến genre, đến subgenre.
Phần mình, người cộng sản phê bình văn học theo phương
pháp mệnh danh là Marx-Lénine, vì thiếu những điều kiện làm việc khoa học chính
thống, nên ngay tự bước đầu đã không thuyết phục được đối tượng tiếp thu. Trong
thư gửi W. Borgius đề ngày 25.01.1894, Engels chủ trương sự phát triển chính
trị, luật pháp, triết học, tôn giáo, đạo đức, luân lý, văn học, nghệ thuật
v.v..là dựa vào sự phát triển kinh tế; nhưng các lĩnh vực này tác động lẫn nhau
và cũng tác động lên kinh tế. Cũng theo Engels, điều kiệân kinh tế không phải
là nguyên nhân, nguyên nhân chủ động duy nhất trong khi các lĩnh vực khác chỉ
có vai trò bị động, tuy nhiên tác động của kinh tế là tác động chung thẩm.(5)
Nói cách khác và nói cách quen thuộc, giáo điều lý thuyết cộng sản cho rằng văn
học là hình thái ý thức thượng tầng kiến trúc, nó tùy thuộc vào hình thái hạ
tầng kiến trúc là kinh tế, tùy thuộc trong một mối tương quan qua lại chặt chẽ,
chung thẩm, in the last instance; và các thay đổi hình thái kinh tế
không sớm thì muộn cũng sẽ tác động lên hình thái văn học. Khai thác luận điểm
này, Đặng Thai Mai, tác giả Văn học khái luận, trình bày rằng văn học có
chung một bản chất và mục đích với các hình thái ý thức khác, vì “đều gây dựng
trên nền tảng sinh hoạt kinh tế của xã hội“ (theo Từ điển văn học, Tập
II, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà nội, 1984, tr.517). Nguyên lý này
không hề được chứng nghiệm trong thực tế. Không thấy nhà phê bình lý luận văn
học xã hội chủ nghĩa nào minh định được biến thiên kinh tế nào đã tác động lên
vần, luật trong thi ca. Phương pháp trần thuật với ngôi thứ nhất và phương pháp
trần thuật với ngôi thứ ba, phương pháp nào chịu ảnh hưởng trạng thái kinh tế
nào? Hán có phú, Đường có thi, Tống có từ, Minh Thanh có khúc;
điều kiện kinh tế hạ tầng cơ sở nào đã khai sinh ra các thể loại văn học đó của
tiền nhân “Mao Chủ tịch“? Đào đâu ra khúc nôi kinh tế để biện minh sự kiện ngâm
chỉ có mặt ở bên này rặng Ngũ lĩnh mà không có ở bên kia, mặc dầu cả hai
bên vốn là“đồng văn “? Thể loại ca trù, hát nói độc đáo, riêng tây
của nòi Việt có nguyên uỷ hình thái kinh tế nào? Lucien Goldmann, trong Pour
une sociologie du roman, Gallimard (nrf), Paris, 1964, gượng
gạo cố tìm cho ra mối liên hệ giữa thể tài nouveau roman của nền văn học
Pháp với biến đổi cơ chế trên kinh tế thị trường tự do. Cung cách trần thuật
của tiểu thuyết mới là không có nhân vật, hoặc chỉ có nhân vật với lý lịch cá
nhân rất sơ sài, với ngoại hình và tư cách chỉ được vẽ phác chấm phá, trong khi
các biến cố, các sự kiệïn lại được tường thuật với tối đa chi tiết, và lắm khi
chi tiết tỏ ra không cần thiết cho kỹ thuật tự sự; còn tác giả thì mất đặc
quyền chi phối độc giả, không còn khả năng dẫn dắt lèo lái người đọc. Theo
Goldmann, tình trạng giải thể nhân vật trong nouveau roman là điểm hẹn
của tiến trình réification, bản thể hoá(6), nó là hậu quả khả năng phát triển không hạn chế của nền kinh tế thị
trường tự do, của các hình thức độc quyền và tổ chứùc tờ-rớt, của đầu tư tư bản
và lũng đoạn chính quyền. Nhưng lập luận của Goldmann, nếu chỉ đi thêm nửa bước
nữa, là đã chập chững : làm sao nhà phê bình văn học mác-xít người Pháp giải
thích được đường lối dựng truyện của Cortázar, Borges hay Malamud, Sauel
Bellow? Jorge Luis Borges và Julio Cortázar đều là nhà văn hiện đại người
Argentine. Borges xuất thân từ một gia đình giàu có, học ở trong nước và châu
Âu, Giám đốc Thư viện Quốc gia, giáo sư văn học Anh. Sử dụng cả hai ngôn ngữ
Anh và Tây ban nha. Mở đường cho trào lưu siêu thực ở trong nước, đóng góp vào
việc phát triển văn học Argentine hiện đại. Làm thơ, viết luận văn, truyện
ngắn. Tác phẩm pha lẫn hiện thực và mộng ảo, hiện thực và dĩ vãng, thời gian và
không gian xa xôi, không rõ rệt, hài hước hỗn hợp với siêu hình, hợp lý đấu
tranh với phi lý. Gia đình Julio Cortázar thuộc thành phần tư sản. Khi
Perón lên cầm quyền, sống lưu vong ở Paris. Viết tiểu thuyết và truyện ngắn, có
lập trường ủng hộ chế độ Fidel Castro. Chịu ảnh hưởng chủ nghĩa hiện sinh. Cuốn
tiểu thuyết Los reyes (Những ông vua) phê phán chế độ Perón. Quan niệm
con người bị chi phối bởi những động cơ bản năng như loài vật, Cortázar viết Bestiaro
(Sách loài vật) phê phán giai cấp tư sản. Trong cuốn tiểu thuyết Rayuela
(Trò chơi nhảy ô), nhân vật chính luôn luôn bất mãn với thực tế xã hội
Argentine nên ẩn thân ở một hòn đảo hẻo lánh. Sauel Bellow và Bernard
Malamud đều là nhà văn Mỹ gốc Do thái. Sauel Bellow, giải thưởng Nobel
1976, là con của một nhà buôn Nga Do thái di cư sang Canada. Học nhân chủng
học, xã hội học và văn học ở Mỹ. Viết truyệïn ngắn, kịch, tiểu luận, tiểu
thuyết. Miêu tả xã hội người Do thái lưu vong và các tranh chấp trong cộng đồng
di dân nơi các thành phố lớn. Các nhân vật của Bellow thường mang tâm hồn cô
quạnh, khắc khoải, không thông cảm được với xã hội. Tiểu thuyết đầu tay The
dangling man (Con người toòng teng) mô tả chân dung con người hóa đá, không
hội nhập được, thoát ly trong các cuộc đấu bò mộng và săn dã thú. Ba cuốn tiểu
thuyết nổi tiếng thế giới là The adventures of Augie March (Những cuộc
phiêu lưu của Ô-gi Mác), Henderson, the rain king (Hen-đơ-sơn, vua mưa)
và Herzog (Hơ-xôốc). Cuốn thứ ba có nhiều nét tự truyện, trình bày đời
sống nội tâm của một trí thức Mỹ. Bernard Malamud thuộc gia đình di
dân Do thái lập nghiệp ở Brooklyn, tốt nghiệp Đại học Columbia. Làm việc ở nhà
máy và công sở, dạy tiếng Anh ở Đại học. Chủ yếu viết tiểu thuyết và truyện
ngắn. Tác phẩm có The assistant (Người phụ tá), A new life (Cuộc
sống mới). Tập truyện ngắn The magic barrel (Chiếc thùng mầu nhiệm) viết
về niềm vui và nỗi khổ của thị dân Do thái, vận dụng tài tình đặc ngữ yiddish
pha tiếng Do thái với tiếng Đức. Các nhà viết tiểu thuyết này đều tôn trọng cả
hai thực thể là cá nhân trần thuật và nhân vật hư cấu, chứ không hề xóa nhòa
nhân vật. Vả lại thị trường tự do đâu chỉ có “sản xuất“ ra mỗi một thể loại nouveau
roman?
Phê bình văn học chính thống chủ yếu nhằm phân tích văn
học, analyse littéraire. Phê
bình văn học cộng sản chủ yếu nhằm đánh giá văn bản. Khái niệm critique
littéraire trong thuật ngữ Tây phương thường được giới nghiên cứu xã hội
chủ nghĩa hiểu theo nghĩa chỉ trích, phê phán, dĩ chí chê bai, trách cứ, thậm
chí chê ỏng chê eo, đay nghiến dằn vặt. Đó là cung cách phê bình văn học của
Quách Mạt-nhược. Đó cũng là cung cách phê bình văn học của Như Phong trong Bình
luận văn học, Nhà Xuất bản Văn học, Hà nội, 1977; dùng toàn một giọng tiếng
bấc tiếng chì đối với Phở của Nguyễn Tuân, hoặc một giọng quan toà kết
án đối với “nhóm phá hoại Nhân văn giai phẩm“. Đừng nghĩ rằng đây
chỉ là “thời kỳ quá độ“, rằng đây vốn là thuở trước “đổi mới “. Trong cái lưới khôi khôi của
phê bình văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa có nhị vị Hoàng Ngọc Hiến và Nguyễn
Huệ Chi, được Trung tâm William Joint Center mới đây tuyển chọn phụ trách
một phần công trình nghiên cứu mệnh danh (theo tiếng Việt made in USA)
là Đề Án Về Cộng Đồng Người Việt ở Nước
Ngoài Nghiên Cứu Gia Khoa Học Nhân Văn Quỹ Rockefeller 2001-2002.
Viết Văn học và học văn, Nhà Xuất bản Văn học, Hà nội, 1999, ở phần I, Lý
luận văn học, từ trang 5 đến trang 13, dưới tiểu đề Quan điểm tiếp cận
văn học và quan điểm tiếp cận thực tế của Hồ Chủ Tịch, ông Hoàng Ngọc Hiến
nêu lên “một vấn đề quan trọng bậc nhất“ trong “tiếp cận văn
học từ quan điểm phản ánh“ là“tính chân thật của tác phẩm văn học“.
Rồi ông chăm chỉ trích dẫn lời lãnh tụ để nói về...tính chân thật. Ông bất
chấp sự thật là hai cuốn sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ
Tịch (Trần Dân Tiên) và Vừa đi đường vừa kể chuyện (T.Lan) đều là
những tập tự truyện do chính Hồ Chí Minh viết để tự mình đề cao mình. Ở chương
sách kế tiếp, ông biện minh dài dòng cho tính nhân đạo của chủ nghĩa cộng sản,
từ trang 14 đến trang 61. Đọc ông lập luận cứ như nghe cô Kiều cam đoan với bác
sĩ pháp y là màng trinh của mình vẫn còn nguyên vẹn sau mười lăm năm lưu lạc vì
mình xuất thân từ nguồn gốc có gia giáo, có nho phong. Ông Nguyễn Huệ Chi cũng dùng cùng thủ thuật và thủ đoạn trong bài viết Vài
cảm nhận văn học Việt nam hải ngoại đăng tải trên Văn Học (California)
số 99. Ông Nguyễn cho rằng không phải chỉ có văn học trong nước mới thức
tỉnh trong công cuộc đổi mới diễn ra chừng năm, sáu năm nay mà văn học người Việt
ở ngoài nước cũng đúng là đang thức tỉnh. Táo tợn hơn, tác giả còn khoe mẽ rằng chính công cuộc
đổi mới của đất nước mà bộ phận nhạy cảm là văn học đã trực tiếp tác động, góp
phần dẫn đến xu thế thức tỉnh, hoà nhập của văn học người Việt ở nước ngoài.
Bằng cớ? Thì chẳng đang có một “mảng“ văn học lưu vong chủ trương giao lưu, hoà
giải đấy ư ? Ông Nguyễn
Huệ Chi phê bình văn học hải ngoại y như một chú bé học sinh tiểu học làm luận
hồn nhiên ghi nhận rằng nét tiêu biểu đáng để ý trong sinh hoạt cộng đồng người
Việt ở Hoa Kỳ là thái độ vợ chồng Trần Trường!
Chủ nghĩa Marx-Engels có
vẻ cung cấp được một lý thuyết hàm súc, bao quát về văn học,
nhưng thật ra lại không phải vậy. Nó khả nghi. Các tín điều của nó thoạt nhìn có
vẻ tầm cứu nhưng nhìn kỹ thì lại hoá ra mâu thuẫn. Người phê bình văn
học trí thức đứng đắn phải biết nghi ngờ khoa học. Và khoa học đòi hỏi phải
loại bỏ những nguyên lý, những định lý, những lý thuyết, những giải pháp không
kiểm chứng được; chúng chỉ đóng gông tư duy, cầm tù phê phán.
(1) V.Lênin.- Tổ chức Đảng và văn học Đảng. Nhà
Xuất bản Sự Thật. Hà nội. 1957. :13.
(2) Mao Trạch Đông.- Bàn về văn nghệ. Nhà Xuất
bản Văn học. Hà nội. 1959. :87-88.
(3) Phong trào Ngũ tứ (cũng gọi là Ngũ tứ vận động)
là một phong trào văn hoá ái quốc diễn ra những năm từ 1917 đến 1924. Ngũ tứ là
ngày 04.05.19, ngày hiệp ước Versailles được công bố khi thế chiến thứ nhất
chấm dứt và trao Sơn đông trước đó vốn do Đức chiếm đóng cho Nhật, gây thành
một làn sóng công phẫn trong dân chúng. Phong trào chủ xướng lấy tư tưỏng canh
tân thay cho tư tưởng truyền thống, dùng bạch thoại thay thế văn ngôn. Trên tạp
chí Tân thanh niên, Trần Độc-tú đề xướng tinh thần khoa học và dân chủ,
nêu khẩu hiệu Ủng hộ tiên sinh Đêmôcraxi (Dân chủ), Ủng hộ tiên sinh
Xiêngxơ (Khoa học). Lý Đại-chiêu, được xem là nhân vật mácxít đầu tiên của
Trung quốc, khẳng định văn học là hình thái ý thức thuộc thượng tầng kiến trúc,
chỉ rõ văn học mới phải là một nền văn học tả thực xã hội, nó phải chịu sự chỉ
đạo của chủ nghĩa kiên tín (tức chủ nghĩa Marx-Lénine). Ngũ tứ vận động đưọc
nhiều nhân vật văn học tên tuổi ủng hộ như Lỗ Tấn, Lâm Ngư-õ đường, Hồ Thích,
Chu Tác-nhân, Tạ Băng-tâm, Cao Nhất-hàm, Ngô Ngu, Dị Bạch-sa v.v..Nhưng rồi
hàng ngũ phong trào phân hoá vì bất đồng chính kiến. Hồ Thích, Lâm Ngữ-đường
chống lại văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa; Cao Nhất-hàm chủ trương Nỗ lực
chu báo tách rời cánh tả; Chu Tác-nhân, Tạ Băng-tâm rút lui ẩn dật, gấp
sách gác bút; Trần Độc-tú theo đường lối Trotsky nên bị thất sủng; Dị Bạch-sa
tự tử vì thất vọng chính trị.
Khuất Nguyên nghiên cứu. Tân Văn nghệ Xuất bản xã. Thượng Hải.
1951.
Khuất Nguyên phú kim dịch. Nhân dân Văn học Xuất bản xã. Bắc
kinh. 1955.
(5) Karl Marx, Friedrich Engels.- Werke (Tác
phẩm). XXXIX. Dietz Verlag. Berlin. 1968. :206. Lối nhậïn thức này của Engels
đã được Marx trình bày sơ bộ và cơ bản trong bài Tựa nổi tiếng (1859)
viết cho tác phẩm Zur Kritik der Politischen Oekonomie (Góp phần phê
phán chính trị kinh tế học). Xem Ueber Kunst und Literatur, I. Dietz
Verlag. Berlin. 1967. :74-75.
(6) Réification : danh từ triết học rất khó dịch. Tiếng Đức gọi
là Verdinglichung, do động từ verdinglichen đồng nghĩa với hypostasieren,
nên xin tạm dịch là bản thể hoá. Trong cả hai từ réifier, verdinglichen đều
có ngữ căn res, Ding nghĩa là chose, tiếng Pháp.
Trần Văn Tích
No comments:
Post a Comment