Thụy My dịch
Thứ
hai, ngày 17 tháng chín năm 2012
"Bia mộ"
của Dương Kế Thằng vừa được phát hành tại Paris.
(AFP & Le Monde) Gần 40 triệu người Trung Quốc
đã bị chết đói, hậu quả của chiến dịch Đại nhảy vọt do Mao Trạch Đông đưa ra.
Nhà báo kiêm nhà sử học Dương Kế Thằng (Yang Jisheng) đã bỏ ra 15 năm trời thu
thập chứng cứ để viết ra tác phẩm « Bia mộ », tài liệu đầy đủ nhất từ trước đến
nay về nạn đói khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại. Sách đã được tái bản
đến lần thứ tư tại Hồng Kông.
« Cuốn sách này là bia mộ cho cha
tôi, bị chết đói vào năm 1959, bia mộ cho 36 triệu người dân Trung Quốc nạn
nhân của trận đói, bia mộ cho chế độ đã gây ra thảm kịch này ». Tác giả đã viết như trên trong lời nói đầu của bản dịch tiếng Pháp vừa
được nhà xuất bản Seuil phát hành tại Paris ngày 13/09/2012.
Sinh năm 1940, Dương Kế Thằng từng là phóng viên kỳ
cựu của Tân Hoa Xã, và hiện nay là Phó tổng biên tập tạp chí Viêm Hoàng Xuân
Thu (Yanhuang Chunqiu). Mười lăm năm điều tra trên thực địa, với hàng ngàn
trang tài liệu tìm được ở địa phương và rất nhiều nhân chứng, tác giả đã thuật
lại sự điên cuồng của việc cưỡng bức tập thể hóa.
Xã hội nông thôn bị phá hủy. Để nuôi sống thành
thị, người ta đã để cho nông dân phải chết đói. Những thông tin sai lạc (thổi
phồng sản lượng, che giấu những trường hợp chết vì đói) được báo cáo lên trên,
dẫn đến các chỉ thị mù quáng. Không ai dám cảnh báo với Mao Trạch Đông về nạn
đói, vì sợ bị quy là phản cách mạng.
Bắt đầu từ cuối năm 1958, đại họa đã lan tràn :
nhiều ngôi làng hoàn toàn bị xóa tên vì dân làng đã chết đói hết, những trường
hợp ăn thịt người nhân rộng, những người sống sót trở nên điên loạn. Bên cạnh
nạn đói, là hàng loạt các vụ bạo lực, tự tử, nhiều ngàn trẻ em bị bỏ rơi.
…Một số trang sách khiến người ta nghĩ đến sự thinh
lặng của một cái xác bị chết trôi. Tại nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, từ năm
1958 đến 1962, « vài chục triệu người đã biến khỏi
thế giới này, không một tiếng động, không một tiếng thở dài, trong sự thờ ơ
hoặc u mê ». Giống như là một cả một vùng đất lớn và dân cư trên đó
đã bị đổ sụp thành vực sâu.
Thế nhưng không phải thiên tai hay chiến tranh đã
gây ra cuộc thảm sát, để lại những người sống sót vật vờ, chỉ lo kéo dài sự
sống, mà là nạn đói, một nạn đói khủng khiếp do những quyết định ngu xuẩn của
lãnh đạo gây ra.
…Từ năm 1958 tất cả phải vào hợp tác xã. Xoong nồi,
bàn ghế đều bị trưng dụng, gà vịt cũng thế, không gia đình nào được tự sản
xuất. Các bữa ăn được phân phối miễn phí tại các căng-tin được gọi là « điểm
đấu tranh giai cấp ở nông thôn ». Chỉ trong vài tháng, sản lượng bị giảm
sút thấy rõ. Một « làn sóng phóng đại » lan tràn, đưa đất nước vào cái vòng lẩn
quẩn của dối trá. Sợ mất lòng cấp trên, mỗi cấp cơ sở lần lượt thổi phồng
sản lượng, còn báo chí thi nhau ca ngợi các phép lạ. Một địa phương vượt kế
hoạch ? Điển hình này luôn bị nơi khác vượt qua, một cuộc đua không có hồi kết.
Từ 1959, người ta tịch thu lúa má của nông dân, kể
cả lúa giống, khi họ không còn gì nữa thì bị lên án là đã che giấu. « Tại
một làng ở Hà Nam, không còn một hạt thóc nào, dân bắt đầu chết đói hàng loạt.
Làng có 26.691 dân, và từ tháng 9/1959 đến tháng 6/1960, đã có 12.314 người
chết, tức một phần ba dân số ». Tình trạng tương tự diễn ra ở khắp nơi và
trong vòng nhiều tháng trời. Trong khi đó Nhà nước vẫn còn hàng chục triệu tấn
ngũ cốc trong kho, và tiếp tục xuất khẩu ! Nhiều ngàn trường hợp ăn thịt người
đã được ghi nhận trong tài liệu lưu trữ của các địa phương.
Thế mà tháng 8/1958, Viện Hàn lâm Khoa học Trung
Quốc vẫn giao cho sáu cơ quan nghiên cứu giải quyết một đề tài - vô nghĩa một
cách bi kịch – do Mao nêu ra trong chuyến viếng thăm Hà Bắc : Làm gì đây khi
chúng ta có quá nhiều lúa mì ?
Trong vở hài kịch đáng xấu hổ này, Mao Trạch Đông
đóng vai chính. Bị ám ảnh bởi cuộc đấu tranh giành quyền lực trong nội bộ Đảng,
ông ta không hề quan tâm đến thực tế, nhất là khi nó chứng minh là Mao đã sai
lầm. Tại hội nghị Lư Sơn tháng 7/1959, tất cả những ai phản đối lại chính sách
của Mao đều bị bất ngờ tuyên bố là « phần tử cơ hội hữu khuynh » và bị
loại trừ. Sau đó, thảm họa đói kém đã mặc sức lan tràn, các cán bộ cao cấp của
Đảng đều phải im lặng.
« Bia mộ » (Mộ Bi
trong nguyên tác tiếng Hoa) là công trình khảo cứu đầu tiên về đề tài này do
một người Trung Quốc tiến hành. Bị cấm ở đại lục, nhưng tác phẩm được xuất bản
ở Hồng Kông – chính quyền không cản trở cũng không trấn áp tác giả. Về mặt
chính thức, thì Bắc Kinh nói là nạn đói do hạn hán gây ra.
Trích đoạn :
« Trong khi nông dân chết đói, cơ quan công an cấm
lan truyền tin tức ra ngoài, cấm gởi thư bằng cách kiểm soát tất cả các bưu
cục. Đảng ủy Tín Dương đã buộc bưu điện phải ém lại mười hai ngàn lá thư cầu
xin giúp đỡ. Tại chi bộ đảng của một làng đã mất đi 20 đảng viên vì bị chết
đói, ba đảng viên sống sót đã gởi cho Tỉnh ủy một lá thư viết bằng máu yêu cầu
cứu giúp nông dân. Bức thư này bị bí thư Tỉnh ủy giữ lại, ra lệnh truy lùng các
tác giả và trừng trị họ. Tại quận Quang San, một bác sĩ đã bị bắt và trừng phạt
vì đã nói với một bệnh nhân, chỉ cần hai bát cháo là khỏi bệnh ».
Tuần báo
Marianne
Thụy My dịch
Thứ hai, ngày 17 tháng chín năm 2012
Tác giả Dương Kế
Thăng và tác phẩm "Bia mộ" bản tiếng Hoa.
(Marianne 8-14/09/2012) Trận đói khủng khiếp trong
chiến dịch Đại nhảy vọt đã làm cho 36 triệu người chết. Nhà sử học, nhà báo
Dương Kế Thằng (Yang Jisheng) đã dành 15 năm trời sưu tầm, nghiên cứu để viết
ra tác phẩm “Bia mộ” nói về thảm kịch này. Tuần báo Marianne đã tiếp xúc với
tác giả tại Bắc Kinh.
Năm 1960, Mao Trạch Đông rất được giới trí thức cấp
tiến phương Tây hâm mộ. Cùng thời gian đó, tại Trung Quốc đã diễn ra nạn đói
khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại. Khoảng 30 đến 40 triệu người Trung
Quốc, và cũng có thể lên đến trên 50 triệu người, đã chết đói mà thế giới hoàn
toàn không biết đến. Đó là hậu quả của chiến dịch công nghiệp hóa thô thiển và
cưỡng bức tập thể hóa ruộng đất được gọi là “Bước Đại nhảy vọt”.
Năm mươi năm đã trôi qua. Đảng Cộng sản Trung Quốc
luôn cố xóa đi trong hồi ức của đất nước thời kỳ mà Đảng phải cùng gánh trách
nhiệm với Mao. Nhưng một nhà sử học Trung Quốc đã chọn lựa tiến hành một cuộc
điều tra nghiêm túc về thảm kịch trên.
Dương Kế Thằng không phải là một nhà ly khai, cũng
không phải là một nhà hoạt động chính trị. Xuất thân từ một gia đình nông dân,
ông biết được những gì xảy ra xung quanh Đại nhảy vọt và nạn đói tiếp theo sau
đó. Năm 19 tuổi, khi cha mình bị chết đói, ông vẫn nhiệt tình phục vụ cho Đảng,
và còn sáng tác một bài thơ ca ngợi chiến dịch Đại nhảy vọt. Nhiều năm sau đó,
khi trở thành nhà báo, ông mới nghi ngờ, đặt ra những câu hỏi về nguyên nhân
thực sự đã gây ra cái chết của người cha.
Các tiểu tướng Hồng
vệ binh trong Cách mạng Văn hóa
Marianne : Ông sống ở Bắc Kinh. Ông có lo ngại sau khi cuốn sách của
ông được xuất bản tại Hồng Kông năm 2008 không ? Ông có thể ra nước ngoài để
nói chuyện về tác phẩm của mình ?
Dương Kế Thằng : Tôi không bị một áp lực nào hết, và tôi thường xuyên được mời nói
chuyện tại các trường đại học Hồng Kông và Mỹ
Marianne : Từ khi ra mắt đến nay, cuốn sách đã được đón nhận như thế
nào ?
Dương Kế Thằng : Bia mộ đã nhận được nhiều giải thưởng. Cuốn sách được ông Lưu Hiểu Ba
(Liu Xiaobo, nhà ly khai Trung Quốc được giải thưởng Nobel hòa bình năm
2010) khen ngợi và đã được hàng trăm bài báo trên báo chí quốc tế đề cập
đến. Chúng tôi đã tái bản đến lần thứ tư tại Hồng Kông.
Marianne : Ông nói về công chúng ở Hồng Kông, Đài Loan hoặc Hoa Kỳ,
nhưng còn công chúng Trung Quốc thì sao ? Cho dù bị kiểm duyệt, nhưng sách của
ông có đến được với độc giả ở Trung Quốc hay không ? Phản ứng của họ ra sao ?
Dương Kế Thằng : Đối với những độc giả đã tìm cách đọc được, thì 99% trong số họ cho
đây là một tác phẩm quan trọng. Chỉ có một thiểu số rất nhỏ người đọc không tin
vào những gì mình đã đọc được. Cuốn sách được tạp chí bán chính thức của cơ
quan nghiên cứu lịch sử hiện đại cởi mở đón nhận, so sánh với tác phẩm Đảo
gu-lắc của Soljenitsyne.
Dù bị cấm, sách vẫn được in lậu và bán lén lút,
hoặc là những người Trung Quốc khi đi Hồng Kông đã mua và mang về Hoa lục. Một
số khi về đến đại lục đã bị kiểm soát, nếu cuốn sách được tìm thấy trong hành
lý của họ thì sẽ bị tịch thu. Có thể tìm mua được ở Vân Nam, Tân Cương hay trên
đường phố, tại quầy của những người bán hàng lưu động. Internet cũng là một
kênh phân phối rất mạnh. Tôi ước lượng có khoảng 100.000 bản sách đang được lưu
hành tại Trung Quốc.
Marianne : Việc một cuốn sách như sách của ông lại được so sánh với Đảo
gu-lắc trên một tạp chí chính thức ở Bắc Kinh có vẻ khó tin…Trong trường hợp
này, vì sao tác phẩm lại bị cấm ?
Dương Kế Thằng : Chính Đảng Cộng sản Trung Quốc phải chịu trách nhiệm về tình trạng
đáng buồn này. Trong khi đang nắm quyền, Đảng từ chối việc nghiên cứu cặn kẽ về
thời kỳ này của lịch sử. Vẫn có những công nhận về mặt chính thức, không hoàn
toàn chối bỏ, nhưng lại khác biệt hiển nhiên so với các nhà sử học, về hai điểm
quan trọng.
Trước hết là số người chết trong nạn đói khủng
khiếp đó. Theo con số chính thức thì đã có 20 triệu người Trung Quốc chết đói,
còn theo ước tính của các nhà nghiên cứu thì tối thiểu là 30 triệu cho đến trên
50 triệu. Tôi thì ước lượng số người chết đói là 36 triệu.
Điểm khác biệt thứ hai là về nguyên nhân của nạn
đói. Đối với chính quyền Bắc Kinh, nguyên nhân chính là do ba năm liên tiếp bị
thiên tai, tiếp theo là áp lực của Liên Xô lên Trung Quốc, và cuối cùng mới đến
một ít sai lầm chính trị.
Nhưng theo các nhà nghiên cứu thì thời tiết trong
ba năm xảy ra nạn đói đều bình thường. Nguyên nhân chủ yếu là từ chính trị, và
lý do của các quyết định tai hại này là tính độc tài của chế độ.
Nạn đói vĩ đại trong
lịch sử Trung Quốc, mà Đảng Cộng sản vẫn muốn chối bỏ trách nhiệm.
Marianne : Ông nói là Đảng phải nhìn thẳng vào lịch sử để trút bỏ gánh
nặng trên vai. Làm thế nào có thể như thế được ?
Dương Kế Thằng : Nếu Đảng đối mặt với lịch sử và trách nhiệm của mình trong trận đói
khủng khiếp, thì điều đó có thể giúp được Đảng trong việc cải cách và chấm dứt
hoàn toàn với chủ nghĩa độc đoán, để hướng về dân chủ.
Marianne : Các nhà lãnh đạo trong Ủy ban thường trực và Bộ Chính trị
Đảng Cộng sản Trung Quốc có đọc cuốn sách của ông chưa ? Liệu tác phẩm có gây
ảnh hưởng đối với Đảng, có nghĩa là đối với tương lai đất nước ?
Dương Kế Thằng : Tôi không biết các nhà lãnh đạo cấp cao nhất có được phản hồi về công
trình của tôi hay không. Nhưng ngoài kiểm duyệt ra, việc tôi không phải chịu
nhiều áp lực cho thấy ít nhiều về thái độ của nhà cầm quyền.
Marianne : Thái độ này có thể giải thích cho việc ông được hưởng ít
nhiều tự do ?
Dương Kế Thằng : Vâng, nhưng khoảng không gian tự do này có thể nhanh chóng biến mất,
vì không có quy định nào rõ ràng cả.
Marianne : Điều này tùy thuộc vào những diễn tiến và sự lựa chọn trong
tương lai của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Theo ông thì trong tương lai gần Trung
Quốc sẽ đi theo hướng nào ?
Dương Kế Thằng : Tôi khó thể hình dung ra được một sự tiến triển về mặt chính trị. Đặc
thù của hệ thống Trung Quốc là tình trạng ban phát ân huệ cho người thân. Trung
Quốc ngày nay là một sự kết hợp giữa quyền lực chính trị và chủ nghĩa tư bản,
hậu quả của cải cách kinh tế mà không có cải cách Nhà nước. Thế thì làm thế nào
có tiến triển được ? Khó lắm.
Rất khó thực hiện được một sự thay đổi về chính
trị, tuy nhiên điều này lại rất cần thiết. Tình hình xã hội hết sức căng thẳng.
Mỗi ngày tạp chí của chúng tôi đều nhận được nhiều thư khiếu kiện của những nạn
nhân bị xử sự bất công, và các vụ nổi dậy vẫn diễn ra thường xuyên trên đất
nước. Đối với chính quyền, giữ nguyên trạng không phải là một lựa chọn.
Trên cánh đồng tập
thể
Marianne : Ông từng là phóng viên của Tân Hoa Xã. Trong khi thu thập
tài liệu nghiên cứu, ông đã từng được sự hỗ trợ của các đồng nghiệp nhà báo
được quyền tham khảo các tài liệu lưu trữ. Báo chí Trung Quốc đã đón nhận tác
phẩm như thế nào ?
Dương Kế Thằng : Tân Hoa Xã không phải là một khối thống nhất. Một số tuân theo đường
hướng chính thức, ca ngợi vinh quang của Đảng. Số khác chỉ trích nhiều về những
vấn đề xã hội. Thế nhưng khả năng duy nhất họ có được để biểu lộ chính kiến, là
đưa được một tài liệu nội bộ đến cấp lãnh đạo, gợi được chú ý, mà điều này rất
đáng thất vọng. Một khi đã về hưu, như trường hợp của tôi, các nhà báo mới được
tự do hơn. Đó là những người đã giúp đỡ tôi.
Nhất là có một đồng nghiệp cũ đã giúp tôi rất nhiều
trong việc nghiên cứu. Ông ấy đã đọc cuốn sách khi xuất bản. Là một người liêm
chính, ông hỗ trợ tôi trong công việc ; nhưng do rất mao-ít, nên ông cho rằng
việc làm của tôi là có hại cho Đảng. Bị giằng xé giữa lương tâm về lịch sử và ý
thức hệ được giáo dục xưa nay, ông ấy rất đau khổ.
Marianne : Ông là đảng viên Cộng sản, vậy ông luôn là người mác-xít ?
Dương Kế Thằng : Không. Tôi đã ra khỏi Đảng, khi thấy rằng nếu có những yếu tố nhân
bản nơi Marx, thì trước hết đó là những ý tưởng được đánh dấu bởi tinh thần hệ
thống, với những yếu tố không tưởng. Marx cuốn hút vì ông đứng ngay về phía
giai cấp công nhân. Đó là một quan điểm đúng đắn về đạo đức. Người ta có thể
tiếp tục nghiên cứu Marx. Nhưng việc áp dụng chủ nghĩa Marx thì có vấn đề vì
các yếu tố nguy hiểm, như việc xóa bỏ sở hữu tư nhân. Cách áp dụng của Lênin đã
tạo ra một dạng chủ nghĩa chuyên chế, dẫn đến thất bại của nhiều nhà nước.
Nhân viên một khách
sạn ở Bắc Kinh xây dựng lò nấu sắt trong Đại nhảy vọt.
Marianne : Ở Trung Quốc đã áp dụng thế nào ?
Dương Kế Thằng : Tại Trung Quốc người ta thường tự hỏi đâu là ranh giới giữa Đảng và
nhân dân, cứ như là có một cuộc chiến giữa chính quyền và xã hội, trong đó
chính quyền là người tấn công còn nhân dân thì tự vệ. Vấn đề là ở Trung Quốc
trận tuyến phòng vệ của người dân không hề hiện hữu. Chính quyền xuyên thấu
toàn bộ xã hội. Về lịch sử thì độc tài là đặc trưng của hệ thống đế quốc, còn
với Đảng, cái cách ý thức hệ được ghép với quyền lực đã cho phép với tay ra
không hạn định.
Dưới thời Mao Trạch Đông, có Nhà nước nhưng không
có xã hội, có tập thể nhưng không có cá nhân. Ví dụ cụ thể là tình trạng người
nông dân dưới chế độ Mao. Họ phải chịu vô số kiểm soát, từ chế độ tem phiếu cho
đến việc đi đâu cũng phải xin giấy phép, khiến cho suốt cả đời mình, người nông
dân không thể đi xa khỏi cánh đồng hơn 50 km. Họ bị đóng đinh trên mảnh đất.
Hậu quả của sự cô lập này trong chiến dịch Đại nhảy
vọt hết sức bi đát. Thông tin không hề đến tai, cực ít người biết được những gì
đang diễn ra trên toàn quốc. Bản thân nông dân là những nạn nhân đầu tiên, cũng
không ý thức được tầm cỡ của nạn đói. Khi cha tôi qua đời trong trận đói lịch
sử ấy, chúng tôi vẫn coi đây là chuyện buồn riêng của gia đình. Chúng tôi không
biết thảm kịch này có liên quan đến sai lầm của chế độ và các chính sách của
lãnh đạo.
Marianne : Khi cha ông mất đi, ông đang là cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng
sản. Ông tin vào chủ nghĩa cộng sản và tham gia tích cực vào chiến dịch Đại
nhảy vọt. Ông đã mở được mắt về thực chất của chế độ vào lúc nào ?
Dương Kế Thằng : Đó là cả một quá trình lâu dài. Tôi nghĩ rằng yếu tố quyết định là
ngày 4 tháng Sáu năm 1989 (1). Nhưng việc này
bắt đầu từ trước, trong cuộc Cách mạng Văn hóa (2)
mà theo tôi, đã vạch trần các cán bộ Đảng. Những lá thư tố cáo đã đập tan sự
sùng bái tôi vẫn có đối với các lãnh tụ. Đó là một sự giải thoát. Cách mạng Văn
hóa đã làm rung chuyển mạnh mẽ Trung Quốc và quyền lực của Đảng.
Chính Đảng đã nhìn nhận điều trên, vì sau này đã
nêu ra ba cuộc khủng hoảng do thời kỳ đó gây ra. Trước hết là khủng hoảng niềm
tin đối với Đảng, thứ hai là khủng hoảng niềm tin cách mạng, và thứ ba là khủng
hoảng hy vọng vào tương lai. Đối với tôi, về ngắn hạn thì Cách mạng Văn hóa là
một thời kỳ khủng hoảng, nhưng về lâu về dài là một sự giải phóng.
Phiên tòa xử
"Bè lũ bốn tên"
Marianne : Còn Mao, ông đã ngưng coi ông ta là một vị thánh từ bao giờ
?
Dương Kế Thằng : Dần dần từng bước một, sau khi Mao chết. Nhưng Mao Trạch Đông vẫn là
nhân vật trung tâm của chế độ. Những bài diễn văn chính thức luôn cho là Mao đã
phạm một số sai lầm nhưng không ảnh hưởng đến công trạng của ông ta. Còn về
Cách mạng Văn hóa chẳng hạn, thì chính « Bè lũ bốn tên » (3) đã lợi dụng những sai lầm cá nhân của Mao để đưa
xã hội đến tình trạng hỗn loạn, chứ Mao Trạch Đông không trực tiếp liên can. Có
một sự gắn kết tư duy tập thể nhằm duy trì hình ảnh của Mao, chủ nghĩa Mao vẫn
là cột trụ của chính quyền Trung Quốc.
(1) Thời điểm đàn áp đẫm máu sinh viên biểu tình ở
Thiên An Môn.
(2) « Đại Cách mạng Văn hóa giai cấp vô sản » đã
tàn phá Trung Quốc từ 1966 đến 1976.
(3) « Bè lũ bốn tên » tức Tứ nhân bang, gồm : Giang
Thanh (vợ thứ tư của Mao, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên và Vương Hồng Văn,
bị bắt và đưa ra xét xử sau khi Mao chết.
----------------------------------------
XEM THÊM :
NỀN CHÍNH TRỊ HẠI DÂN của MAO trong THỜI KỲ
ĐẠI NHẢY VỌT Ở TRUNG QUỐC : LỜI NÓI ĐẦU CHO CUỐN "BIA MỘ" [1] (Dương
Kế Thằng) Friday, 24 August 2012
NỀN CHÍNH TRỊ HẠI DÂN của MAO trong THỜI KỲ
ĐẠI NHẢY VỌT Ở TRUNG QUỐC : LỜI NÓI ĐẦU CHO CUỐN "BIA MỘ" [2] (Dương
Kế Thằng) Friday, 24 August 2012
NỀN CHÍNH TRỊ HẠI DÂN của MAO trong THỜI KỲ
ĐẠI NHẢY VỌT Ở TRUNG QUỐC : LỜI NÓI ĐẦU CHO CUỐN "BIA MỘ" [3] (Dương
Kế Thằng) Friday, 24 August 2012
Thụy My dịch
Thứ
hai, ngày 17 tháng chín năm 2012
"Bia mộ"
của Dương Kế Thằng vừa được phát hành tại Paris.
(AFP & Le Monde) Gần 40 triệu người Trung Quốc
đã bị chết đói, hậu quả của chiến dịch Đại nhảy vọt do Mao Trạch Đông đưa ra.
Nhà báo kiêm nhà sử học Dương Kế Thằng (Yang Jisheng) đã bỏ ra 15 năm trời thu
thập chứng cứ để viết ra tác phẩm « Bia mộ », tài liệu đầy đủ nhất từ trước đến
nay về nạn đói khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại. Sách đã được tái bản
đến lần thứ tư tại Hồng Kông.
« Cuốn sách này là bia mộ cho cha
tôi, bị chết đói vào năm 1959, bia mộ cho 36 triệu người dân Trung Quốc nạn
nhân của trận đói, bia mộ cho chế độ đã gây ra thảm kịch này ». Tác giả đã viết như trên trong lời nói đầu của bản dịch tiếng Pháp vừa
được nhà xuất bản Seuil phát hành tại Paris ngày 13/09/2012.
Sinh năm 1940, Dương Kế Thằng từng là phóng viên kỳ
cựu của Tân Hoa Xã, và hiện nay là Phó tổng biên tập tạp chí Viêm Hoàng Xuân
Thu (Yanhuang Chunqiu). Mười lăm năm điều tra trên thực địa, với hàng ngàn
trang tài liệu tìm được ở địa phương và rất nhiều nhân chứng, tác giả đã thuật
lại sự điên cuồng của việc cưỡng bức tập thể hóa.
Xã hội nông thôn bị phá hủy. Để nuôi sống thành
thị, người ta đã để cho nông dân phải chết đói. Những thông tin sai lạc (thổi
phồng sản lượng, che giấu những trường hợp chết vì đói) được báo cáo lên trên,
dẫn đến các chỉ thị mù quáng. Không ai dám cảnh báo với Mao Trạch Đông về nạn
đói, vì sợ bị quy là phản cách mạng.
Bắt đầu từ cuối năm 1958, đại họa đã lan tràn :
nhiều ngôi làng hoàn toàn bị xóa tên vì dân làng đã chết đói hết, những trường
hợp ăn thịt người nhân rộng, những người sống sót trở nên điên loạn. Bên cạnh
nạn đói, là hàng loạt các vụ bạo lực, tự tử, nhiều ngàn trẻ em bị bỏ rơi.
…Một số trang sách khiến người ta nghĩ đến sự thinh
lặng của một cái xác bị chết trôi. Tại nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, từ năm
1958 đến 1962, « vài chục triệu người đã biến khỏi
thế giới này, không một tiếng động, không một tiếng thở dài, trong sự thờ ơ
hoặc u mê ». Giống như là một cả một vùng đất lớn và dân cư trên đó
đã bị đổ sụp thành vực sâu.
Thế nhưng không phải thiên tai hay chiến tranh đã
gây ra cuộc thảm sát, để lại những người sống sót vật vờ, chỉ lo kéo dài sự
sống, mà là nạn đói, một nạn đói khủng khiếp do những quyết định ngu xuẩn của
lãnh đạo gây ra.
…Từ năm 1958 tất cả phải vào hợp tác xã. Xoong nồi,
bàn ghế đều bị trưng dụng, gà vịt cũng thế, không gia đình nào được tự sản
xuất. Các bữa ăn được phân phối miễn phí tại các căng-tin được gọi là « điểm
đấu tranh giai cấp ở nông thôn ». Chỉ trong vài tháng, sản lượng bị giảm
sút thấy rõ. Một « làn sóng phóng đại » lan tràn, đưa đất nước vào cái vòng lẩn
quẩn của dối trá. Sợ mất lòng cấp trên, mỗi cấp cơ sở lần lượt thổi phồng
sản lượng, còn báo chí thi nhau ca ngợi các phép lạ. Một địa phương vượt kế
hoạch ? Điển hình này luôn bị nơi khác vượt qua, một cuộc đua không có hồi kết.
Từ 1959, người ta tịch thu lúa má của nông dân, kể
cả lúa giống, khi họ không còn gì nữa thì bị lên án là đã che giấu. « Tại
một làng ở Hà Nam, không còn một hạt thóc nào, dân bắt đầu chết đói hàng loạt.
Làng có 26.691 dân, và từ tháng 9/1959 đến tháng 6/1960, đã có 12.314 người
chết, tức một phần ba dân số ». Tình trạng tương tự diễn ra ở khắp nơi và
trong vòng nhiều tháng trời. Trong khi đó Nhà nước vẫn còn hàng chục triệu tấn
ngũ cốc trong kho, và tiếp tục xuất khẩu ! Nhiều ngàn trường hợp ăn thịt người
đã được ghi nhận trong tài liệu lưu trữ của các địa phương.
Thế mà tháng 8/1958, Viện Hàn lâm Khoa học Trung
Quốc vẫn giao cho sáu cơ quan nghiên cứu giải quyết một đề tài - vô nghĩa một
cách bi kịch – do Mao nêu ra trong chuyến viếng thăm Hà Bắc : Làm gì đây khi
chúng ta có quá nhiều lúa mì ?
Trong vở hài kịch đáng xấu hổ này, Mao Trạch Đông
đóng vai chính. Bị ám ảnh bởi cuộc đấu tranh giành quyền lực trong nội bộ Đảng,
ông ta không hề quan tâm đến thực tế, nhất là khi nó chứng minh là Mao đã sai
lầm. Tại hội nghị Lư Sơn tháng 7/1959, tất cả những ai phản đối lại chính sách
của Mao đều bị bất ngờ tuyên bố là « phần tử cơ hội hữu khuynh » và bị
loại trừ. Sau đó, thảm họa đói kém đã mặc sức lan tràn, các cán bộ cao cấp của
Đảng đều phải im lặng.
« Bia mộ » (Mộ Bi
trong nguyên tác tiếng Hoa) là công trình khảo cứu đầu tiên về đề tài này do
một người Trung Quốc tiến hành. Bị cấm ở đại lục, nhưng tác phẩm được xuất bản
ở Hồng Kông – chính quyền không cản trở cũng không trấn áp tác giả. Về mặt
chính thức, thì Bắc Kinh nói là nạn đói do hạn hán gây ra.
Trích đoạn :
« Trong khi nông dân chết đói, cơ quan công an cấm
lan truyền tin tức ra ngoài, cấm gởi thư bằng cách kiểm soát tất cả các bưu
cục. Đảng ủy Tín Dương đã buộc bưu điện phải ém lại mười hai ngàn lá thư cầu
xin giúp đỡ. Tại chi bộ đảng của một làng đã mất đi 20 đảng viên vì bị chết
đói, ba đảng viên sống sót đã gởi cho Tỉnh ủy một lá thư viết bằng máu yêu cầu
cứu giúp nông dân. Bức thư này bị bí thư Tỉnh ủy giữ lại, ra lệnh truy lùng các
tác giả và trừng trị họ. Tại quận Quang San, một bác sĩ đã bị bắt và trừng phạt
vì đã nói với một bệnh nhân, chỉ cần hai bát cháo là khỏi bệnh ».
Tuần báo
Marianne
Thụy My dịch
Thứ hai, ngày 17 tháng chín năm 2012
Tác giả Dương Kế
Thăng và tác phẩm "Bia mộ" bản tiếng Hoa.
(Marianne 8-14/09/2012) Trận đói khủng khiếp trong
chiến dịch Đại nhảy vọt đã làm cho 36 triệu người chết. Nhà sử học, nhà báo
Dương Kế Thằng (Yang Jisheng) đã dành 15 năm trời sưu tầm, nghiên cứu để viết
ra tác phẩm “Bia mộ” nói về thảm kịch này. Tuần báo Marianne đã tiếp xúc với
tác giả tại Bắc Kinh.
Năm 1960, Mao Trạch Đông rất được giới trí thức cấp
tiến phương Tây hâm mộ. Cùng thời gian đó, tại Trung Quốc đã diễn ra nạn đói
khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại. Khoảng 30 đến 40 triệu người Trung
Quốc, và cũng có thể lên đến trên 50 triệu người, đã chết đói mà thế giới hoàn
toàn không biết đến. Đó là hậu quả của chiến dịch công nghiệp hóa thô thiển và
cưỡng bức tập thể hóa ruộng đất được gọi là “Bước Đại nhảy vọt”.
Năm mươi năm đã trôi qua. Đảng Cộng sản Trung Quốc
luôn cố xóa đi trong hồi ức của đất nước thời kỳ mà Đảng phải cùng gánh trách
nhiệm với Mao. Nhưng một nhà sử học Trung Quốc đã chọn lựa tiến hành một cuộc
điều tra nghiêm túc về thảm kịch trên.
Dương Kế Thằng không phải là một nhà ly khai, cũng
không phải là một nhà hoạt động chính trị. Xuất thân từ một gia đình nông dân,
ông biết được những gì xảy ra xung quanh Đại nhảy vọt và nạn đói tiếp theo sau
đó. Năm 19 tuổi, khi cha mình bị chết đói, ông vẫn nhiệt tình phục vụ cho Đảng,
và còn sáng tác một bài thơ ca ngợi chiến dịch Đại nhảy vọt. Nhiều năm sau đó,
khi trở thành nhà báo, ông mới nghi ngờ, đặt ra những câu hỏi về nguyên nhân
thực sự đã gây ra cái chết của người cha.
Các tiểu tướng Hồng
vệ binh trong Cách mạng Văn hóa
Marianne : Ông sống ở Bắc Kinh. Ông có lo ngại sau khi cuốn sách của
ông được xuất bản tại Hồng Kông năm 2008 không ? Ông có thể ra nước ngoài để
nói chuyện về tác phẩm của mình ?
Dương Kế Thằng : Tôi không bị một áp lực nào hết, và tôi thường xuyên được mời nói
chuyện tại các trường đại học Hồng Kông và Mỹ
Marianne : Từ khi ra mắt đến nay, cuốn sách đã được đón nhận như thế
nào ?
Dương Kế Thằng : Bia mộ đã nhận được nhiều giải thưởng. Cuốn sách được ông Lưu Hiểu Ba
(Liu Xiaobo, nhà ly khai Trung Quốc được giải thưởng Nobel hòa bình năm
2010) khen ngợi và đã được hàng trăm bài báo trên báo chí quốc tế đề cập
đến. Chúng tôi đã tái bản đến lần thứ tư tại Hồng Kông.
Marianne : Ông nói về công chúng ở Hồng Kông, Đài Loan hoặc Hoa Kỳ,
nhưng còn công chúng Trung Quốc thì sao ? Cho dù bị kiểm duyệt, nhưng sách của
ông có đến được với độc giả ở Trung Quốc hay không ? Phản ứng của họ ra sao ?
Dương Kế Thằng : Đối với những độc giả đã tìm cách đọc được, thì 99% trong số họ cho
đây là một tác phẩm quan trọng. Chỉ có một thiểu số rất nhỏ người đọc không tin
vào những gì mình đã đọc được. Cuốn sách được tạp chí bán chính thức của cơ
quan nghiên cứu lịch sử hiện đại cởi mở đón nhận, so sánh với tác phẩm Đảo
gu-lắc của Soljenitsyne.
Dù bị cấm, sách vẫn được in lậu và bán lén lút,
hoặc là những người Trung Quốc khi đi Hồng Kông đã mua và mang về Hoa lục. Một
số khi về đến đại lục đã bị kiểm soát, nếu cuốn sách được tìm thấy trong hành
lý của họ thì sẽ bị tịch thu. Có thể tìm mua được ở Vân Nam, Tân Cương hay trên
đường phố, tại quầy của những người bán hàng lưu động. Internet cũng là một
kênh phân phối rất mạnh. Tôi ước lượng có khoảng 100.000 bản sách đang được lưu
hành tại Trung Quốc.
Marianne : Việc một cuốn sách như sách của ông lại được so sánh với Đảo
gu-lắc trên một tạp chí chính thức ở Bắc Kinh có vẻ khó tin…Trong trường hợp
này, vì sao tác phẩm lại bị cấm ?
Dương Kế Thằng : Chính Đảng Cộng sản Trung Quốc phải chịu trách nhiệm về tình trạng
đáng buồn này. Trong khi đang nắm quyền, Đảng từ chối việc nghiên cứu cặn kẽ về
thời kỳ này của lịch sử. Vẫn có những công nhận về mặt chính thức, không hoàn
toàn chối bỏ, nhưng lại khác biệt hiển nhiên so với các nhà sử học, về hai điểm
quan trọng.
Trước hết là số người chết trong nạn đói khủng
khiếp đó. Theo con số chính thức thì đã có 20 triệu người Trung Quốc chết đói,
còn theo ước tính của các nhà nghiên cứu thì tối thiểu là 30 triệu cho đến trên
50 triệu. Tôi thì ước lượng số người chết đói là 36 triệu.
Điểm khác biệt thứ hai là về nguyên nhân của nạn
đói. Đối với chính quyền Bắc Kinh, nguyên nhân chính là do ba năm liên tiếp bị
thiên tai, tiếp theo là áp lực của Liên Xô lên Trung Quốc, và cuối cùng mới đến
một ít sai lầm chính trị.
Nhưng theo các nhà nghiên cứu thì thời tiết trong
ba năm xảy ra nạn đói đều bình thường. Nguyên nhân chủ yếu là từ chính trị, và
lý do của các quyết định tai hại này là tính độc tài của chế độ.
Nạn đói vĩ đại trong
lịch sử Trung Quốc, mà Đảng Cộng sản vẫn muốn chối bỏ trách nhiệm.
Marianne : Ông nói là Đảng phải nhìn thẳng vào lịch sử để trút bỏ gánh
nặng trên vai. Làm thế nào có thể như thế được ?
Dương Kế Thằng : Nếu Đảng đối mặt với lịch sử và trách nhiệm của mình trong trận đói
khủng khiếp, thì điều đó có thể giúp được Đảng trong việc cải cách và chấm dứt
hoàn toàn với chủ nghĩa độc đoán, để hướng về dân chủ.
Marianne : Các nhà lãnh đạo trong Ủy ban thường trực và Bộ Chính trị
Đảng Cộng sản Trung Quốc có đọc cuốn sách của ông chưa ? Liệu tác phẩm có gây
ảnh hưởng đối với Đảng, có nghĩa là đối với tương lai đất nước ?
Dương Kế Thằng : Tôi không biết các nhà lãnh đạo cấp cao nhất có được phản hồi về công
trình của tôi hay không. Nhưng ngoài kiểm duyệt ra, việc tôi không phải chịu
nhiều áp lực cho thấy ít nhiều về thái độ của nhà cầm quyền.
Marianne : Thái độ này có thể giải thích cho việc ông được hưởng ít
nhiều tự do ?
Dương Kế Thằng : Vâng, nhưng khoảng không gian tự do này có thể nhanh chóng biến mất,
vì không có quy định nào rõ ràng cả.
Marianne : Điều này tùy thuộc vào những diễn tiến và sự lựa chọn trong
tương lai của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Theo ông thì trong tương lai gần Trung
Quốc sẽ đi theo hướng nào ?
Dương Kế Thằng : Tôi khó thể hình dung ra được một sự tiến triển về mặt chính trị. Đặc
thù của hệ thống Trung Quốc là tình trạng ban phát ân huệ cho người thân. Trung
Quốc ngày nay là một sự kết hợp giữa quyền lực chính trị và chủ nghĩa tư bản,
hậu quả của cải cách kinh tế mà không có cải cách Nhà nước. Thế thì làm thế nào
có tiến triển được ? Khó lắm.
Rất khó thực hiện được một sự thay đổi về chính
trị, tuy nhiên điều này lại rất cần thiết. Tình hình xã hội hết sức căng thẳng.
Mỗi ngày tạp chí của chúng tôi đều nhận được nhiều thư khiếu kiện của những nạn
nhân bị xử sự bất công, và các vụ nổi dậy vẫn diễn ra thường xuyên trên đất
nước. Đối với chính quyền, giữ nguyên trạng không phải là một lựa chọn.
Trên cánh đồng tập
thể
Marianne : Ông từng là phóng viên của Tân Hoa Xã. Trong khi thu thập
tài liệu nghiên cứu, ông đã từng được sự hỗ trợ của các đồng nghiệp nhà báo
được quyền tham khảo các tài liệu lưu trữ. Báo chí Trung Quốc đã đón nhận tác
phẩm như thế nào ?
Dương Kế Thằng : Tân Hoa Xã không phải là một khối thống nhất. Một số tuân theo đường
hướng chính thức, ca ngợi vinh quang của Đảng. Số khác chỉ trích nhiều về những
vấn đề xã hội. Thế nhưng khả năng duy nhất họ có được để biểu lộ chính kiến, là
đưa được một tài liệu nội bộ đến cấp lãnh đạo, gợi được chú ý, mà điều này rất
đáng thất vọng. Một khi đã về hưu, như trường hợp của tôi, các nhà báo mới được
tự do hơn. Đó là những người đã giúp đỡ tôi.
Nhất là có một đồng nghiệp cũ đã giúp tôi rất nhiều
trong việc nghiên cứu. Ông ấy đã đọc cuốn sách khi xuất bản. Là một người liêm
chính, ông hỗ trợ tôi trong công việc ; nhưng do rất mao-ít, nên ông cho rằng
việc làm của tôi là có hại cho Đảng. Bị giằng xé giữa lương tâm về lịch sử và ý
thức hệ được giáo dục xưa nay, ông ấy rất đau khổ.
Marianne : Ông là đảng viên Cộng sản, vậy ông luôn là người mác-xít ?
Dương Kế Thằng : Không. Tôi đã ra khỏi Đảng, khi thấy rằng nếu có những yếu tố nhân
bản nơi Marx, thì trước hết đó là những ý tưởng được đánh dấu bởi tinh thần hệ
thống, với những yếu tố không tưởng. Marx cuốn hút vì ông đứng ngay về phía
giai cấp công nhân. Đó là một quan điểm đúng đắn về đạo đức. Người ta có thể
tiếp tục nghiên cứu Marx. Nhưng việc áp dụng chủ nghĩa Marx thì có vấn đề vì
các yếu tố nguy hiểm, như việc xóa bỏ sở hữu tư nhân. Cách áp dụng của Lênin đã
tạo ra một dạng chủ nghĩa chuyên chế, dẫn đến thất bại của nhiều nhà nước.
Nhân viên một khách
sạn ở Bắc Kinh xây dựng lò nấu sắt trong Đại nhảy vọt.
Marianne : Ở Trung Quốc đã áp dụng thế nào ?
Dương Kế Thằng : Tại Trung Quốc người ta thường tự hỏi đâu là ranh giới giữa Đảng và
nhân dân, cứ như là có một cuộc chiến giữa chính quyền và xã hội, trong đó
chính quyền là người tấn công còn nhân dân thì tự vệ. Vấn đề là ở Trung Quốc
trận tuyến phòng vệ của người dân không hề hiện hữu. Chính quyền xuyên thấu
toàn bộ xã hội. Về lịch sử thì độc tài là đặc trưng của hệ thống đế quốc, còn
với Đảng, cái cách ý thức hệ được ghép với quyền lực đã cho phép với tay ra
không hạn định.
Dưới thời Mao Trạch Đông, có Nhà nước nhưng không
có xã hội, có tập thể nhưng không có cá nhân. Ví dụ cụ thể là tình trạng người
nông dân dưới chế độ Mao. Họ phải chịu vô số kiểm soát, từ chế độ tem phiếu cho
đến việc đi đâu cũng phải xin giấy phép, khiến cho suốt cả đời mình, người nông
dân không thể đi xa khỏi cánh đồng hơn 50 km. Họ bị đóng đinh trên mảnh đất.
Hậu quả của sự cô lập này trong chiến dịch Đại nhảy
vọt hết sức bi đát. Thông tin không hề đến tai, cực ít người biết được những gì
đang diễn ra trên toàn quốc. Bản thân nông dân là những nạn nhân đầu tiên, cũng
không ý thức được tầm cỡ của nạn đói. Khi cha tôi qua đời trong trận đói lịch
sử ấy, chúng tôi vẫn coi đây là chuyện buồn riêng của gia đình. Chúng tôi không
biết thảm kịch này có liên quan đến sai lầm của chế độ và các chính sách của
lãnh đạo.
Marianne : Khi cha ông mất đi, ông đang là cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng
sản. Ông tin vào chủ nghĩa cộng sản và tham gia tích cực vào chiến dịch Đại
nhảy vọt. Ông đã mở được mắt về thực chất của chế độ vào lúc nào ?
Dương Kế Thằng : Đó là cả một quá trình lâu dài. Tôi nghĩ rằng yếu tố quyết định là
ngày 4 tháng Sáu năm 1989 (1). Nhưng việc này
bắt đầu từ trước, trong cuộc Cách mạng Văn hóa (2)
mà theo tôi, đã vạch trần các cán bộ Đảng. Những lá thư tố cáo đã đập tan sự
sùng bái tôi vẫn có đối với các lãnh tụ. Đó là một sự giải thoát. Cách mạng Văn
hóa đã làm rung chuyển mạnh mẽ Trung Quốc và quyền lực của Đảng.
Chính Đảng đã nhìn nhận điều trên, vì sau này đã
nêu ra ba cuộc khủng hoảng do thời kỳ đó gây ra. Trước hết là khủng hoảng niềm
tin đối với Đảng, thứ hai là khủng hoảng niềm tin cách mạng, và thứ ba là khủng
hoảng hy vọng vào tương lai. Đối với tôi, về ngắn hạn thì Cách mạng Văn hóa là
một thời kỳ khủng hoảng, nhưng về lâu về dài là một sự giải phóng.
Phiên tòa xử
"Bè lũ bốn tên"
Marianne : Còn Mao, ông đã ngưng coi ông ta là một vị thánh từ bao giờ
?
Dương Kế Thằng : Dần dần từng bước một, sau khi Mao chết. Nhưng Mao Trạch Đông vẫn là
nhân vật trung tâm của chế độ. Những bài diễn văn chính thức luôn cho là Mao đã
phạm một số sai lầm nhưng không ảnh hưởng đến công trạng của ông ta. Còn về
Cách mạng Văn hóa chẳng hạn, thì chính « Bè lũ bốn tên » (3) đã lợi dụng những sai lầm cá nhân của Mao để đưa
xã hội đến tình trạng hỗn loạn, chứ Mao Trạch Đông không trực tiếp liên can. Có
một sự gắn kết tư duy tập thể nhằm duy trì hình ảnh của Mao, chủ nghĩa Mao vẫn
là cột trụ của chính quyền Trung Quốc.
(1) Thời điểm đàn áp đẫm máu sinh viên biểu tình ở
Thiên An Môn.
(2) « Đại Cách mạng Văn hóa giai cấp vô sản » đã
tàn phá Trung Quốc từ 1966 đến 1976.
(3) « Bè lũ bốn tên » tức Tứ nhân bang, gồm : Giang
Thanh (vợ thứ tư của Mao, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên và Vương Hồng Văn,
bị bắt và đưa ra xét xử sau khi Mao chết.
----------------------------------------
XEM THÊM :
NỀN CHÍNH TRỊ HẠI DÂN của MAO trong THỜI KỲ
ĐẠI NHẢY VỌT Ở TRUNG QUỐC : LỜI NÓI ĐẦU CHO CUỐN "BIA MỘ" [1] (Dương
Kế Thằng) Friday, 24 August 2012
NỀN CHÍNH TRỊ HẠI DÂN của MAO trong THỜI KỲ
ĐẠI NHẢY VỌT Ở TRUNG QUỐC : LỜI NÓI ĐẦU CHO CUỐN "BIA MỘ" [2] (Dương
Kế Thằng) Friday, 24 August 2012
NỀN CHÍNH TRỊ HẠI DÂN của MAO trong THỜI KỲ
ĐẠI NHẢY VỌT Ở TRUNG QUỐC : LỜI NÓI ĐẦU CHO CUỐN "BIA MỘ" [3] (Dương
Kế Thằng) Friday, 24 August 2012
No comments:
Post a Comment