Tang lễ đại tướng quân. Tiền đường đông nghẹt. Hoa
nhiều quá, vô số các loài hoa từ khắp nơi về đây quần tụ. Hương hoa quyện với
hương trầm. Hoa quá nhiều, người quá đông. Nghẹt thở.
Quan thượng thư cũng có mặt trong đám đông. Sau khi
lạy ba lạy trước bài vị người quá cố, ngài định bước lùi năm bước theo đúng
nghi lễ, nhưng ngài giật mình. Ai kia? A, gã đầy tớ giữ vườn quái dị của ngài
đứng ngay sau quan tài. Không lẫn vào đâu được. Một gã thiếu niên bẩn thỉu rách
rưới lẫn vào trong các mệnh quan triều đình áo mão xênh xang. Vẫn bộ quần áo
nâu có những tua rách ở dưới gấu. Vẫn đôi mắt mở thao láo và cái mũi lớn kỳ dị
dưới mái tóc bù xù. Ngài nhìn gã, gã cũng ngó ngài, bình thản như hai người
tình cờ gặp nhau dưới bếp. Sao gã hiện diện nơi này? Điều lạ là hình như không
có ai để ý đến gã cả. Đúng hơn là không có ai nhìn thấy gã, gã vô hình.
Cách đây mấy tháng, quan bị chứng đau mũi hành hạ
khổ sở. Thuốc thang gì cũng không khỏi. Quan ngự y cho ngài một bài thuốc quí,
nhưng kẹt cái là còn thiếu một vị thuốc quan trọng không thể tìm ra bất cứ nơi
nào. Đó là vị Bạch Cốt Hoa. Loài hoa này vô cùng khó kiếm, vô cùng quý hiếm. Nó
có hình giống như một chiếc đầu lâu người và mùi nồng kinh dị. Gia nhân nhà
quan lặn lội khắp những cánh rừng cả nước nhưng vẫn không có kết quả gì. Quan
bèn treo biển thông báo, ai tìm được hoa này sẽ được trọng thưởng trăm lượng
vàng.
Vài ngày sau, một gã thiếu niên ăn mặc rách rưới,
đến xin yết kiến. Tướng mạo gã bình thường, chỉ đặc biệt là gã có cái mũi to
khủng khiếp, như một quả cà chua nằm ngay giữa mặt. Gã thưa với quan rằng hãy
cho gã vài hôm, chắc chắn gã sẽ tìm ra bông hoa đó. Không ai tin điều gã nói,
nhưng không còn cách nào khác. Vậy mà đúng ba ngày sau gã mang hoa về. Những
người quan sai đi theo kể lại rằng gã cứ đi thẳng vào núi, không tìm kiếm gì
cả, nhưng hai cánh mũi phập phồng như hai cánh chim đang vỗ, thì ra gã đánh
hơi. Bất ngờ, gã dừng lại, lật một tảng đá lên. Kia rồi, một đoá Bạch Cốt Hoa
ẩn mình sau khe đá như đã chờ đợi gã từ lâu lắm. Ba ngày sau khi uống thuốc,
quan khỏi bệnh. Quan cho gọi gã lên, ngỏ lời cảm ơn và trao cho gã số vàng như
lời hứa. Gã hờ hững nhận vàng bằng một tay, mân mê một lúc rồi để xuống trước
mặt quan. Gã nói rằng gã không cần vàng, niềm vui thú nhất đời của gã là chỉ
thích ngửi hoa. Nếu quan có lòng thương thì cho gã được làm người giữ vườn.
Quan cả mừng, ngài có vườn hoa đẹp nhất vùng nhưng người giữ vườn vừa xin nghỉ
việc. Quan đang tìm người thay thế.
Gã thanh niên kỳ dị ấy ăn rất ít, gã chỉ chăm sóc và
ngửi hoa. Từ khi có gã, khu vườn đẹp hẳn lên, và người ta cũng phát hiện ra là
gã có một khứu giác phi thường. Chỉ cần phập phồng hai cánh mũi mỏng dính, gã
có thể biết trong căn phòng đang đóng kín kia có những ai, hay trong bọng cây
này có con rắn đang nuốt con tắc kè, hay người này vừa mới giao hợp xong, mùi
tinh dịch còn vương trong quần lót...
Tang lễ đại tướng quân chấm dứt. Quan về dinh cho
gọi gã giữ vườn lên, hỏi gã đến tang lễ làm gì. Gã thưa đến để ngửi hoa. Gã rất
thích ngửi hoa mà tang lễ là nơi có nhiều hoa nhất. Vả lại, tang lễ của một vị
đại tướng quân với những chiến công hiển hách thì sẽ có không biết bao nhiêu là
hoa phúng điếu, nhưng gã đã thất vọng vì không ngửi được mùi hoa nào cả. Quan
hỏi vì sao, thì gã thưa rằng mùi thuốc súng, mùi da thịt bị đốt cháy, mùi tanh
của máu, mùi ẩm mốc của xương khô đã át hẳn mùi hoa thơm… Quan nghe lạnh cả
người, ngài định hỏi vì sao gã đứng ngay sau quan tài đại tướng mà có vẻ như là
không ai nhìn thấy, thì gã đã xin phép cáo lui. Hôm sau, gã biến mất, mang theo
những huyền thoại về một kẻ ngửi hoa. Không ai biết gã lưu lạc nơi đâu.
*
Đêm đã khuya mà đèn vẫn sáng trong thư phòng của
quan Đại học sĩ. Ngài đang có chuyện buồn bực lắm. Trong triều đình, từ Hoàng
Thượng cho đến bá quan đều kính nể quan là người học nhiều, hiểu rộng, kiến văn
uyên bác. Sách vở khắp thiên hạ ngài đều đọc qua.
Thế mà lại có tin đồn rằng ở trên đỉnh núi Hoa Sơn
mây khói mịt mù kia có một bậc kỳ tài. Vị này ăn rau, uống nước suối, nhưng chỉ
cần ngửi qua một quyển sách là biết rõ nội dung, không cần đọc. Và trong buổi
thiết triều vừa qua, Hoàng Thượng đã có ý muốn cho người lên núi vời ẩn sĩ này
đến yết kiến. Nếu đúng thế, thì uy tín của quan Đại học sĩ sẽ bị mờ nhạt trước
mặt Hoàng Thượng và triều đình. Điều này không có lợi cho sự tiến thân sau này
của quan.
Suy đi nghĩ lại, quan quyết định lên đường đến đỉnh
Hoa Sơn xem thực hư thế nào. Trước khi đi, quan lấy một quyển sách, bọc kín
bằng mấy lớp vải, lựa trong đám hầu cận vài người khoẻ mạnh thông thuộc đường
lối, nai nịt gọn ghẽ rồi lên đường. Đường lên Hoa Sơn phải trèo đèo, vượt suối,
quá đỗi gian nan.
Nơi ở của ẩn sĩ là một túp lều cỏ. Trong lều chỉ có
một cái bàn bằng đá, trên vách treo một cái đàn. Chung quanh nhà là chim hót,
thông reo vi vu. Ẩn sĩ đang ngồi ngủ gật, thấy quan đến, vội đứng lên chào hỏi.
Quan nói: “Tôi là hạ quan đương triều, bản chất ngu si nhưng cũng học đòi văn
chương chữ nghĩa, trộm nghe danh ngài không cần đọc sách, chỉ cần ngửi cũng
biết rõ nội dung. Vậy xin ngài hãy thi triển tài năng cho tôi được một phen mở
rộng tầm nhìn.”
Ẩn sĩ khiêm tốn: “Sá gì một chút nghề mọn mà đại
quan phải lặn lội lên đây. Chỉ sợ không bõ làm trò cười cho đại quan mà thôi.
Vậy đại quan có sách gì xin cho ngửi.”
Quan đưa quyển sách được bọc kín ra. Ẩn sĩ ngửi qua
loa rồi nói: “Đây là quyển Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần.”
Quan khiếp hãi quá, nói: “Xin bái phục. Chẳng hay
ngài ngửi thấy mùi gì mà biết được?”
Ẩn sĩ trả lời: “Tôi ngửi thấy mùi xiêm y son phấn.”
Quan xuống núi, nhưng vẫn còn ngờ, cho là may rủi.
Lần sau, quan mang lên một quyển sách khác cũng bọc mấy lần vải. Ẩn sĩ ngửi qua
loa rồi nói: “Đây là quyển Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung.”
Lần này quan còn khiếp hãi hơn nữa. Vội hỏi: “Ngài
ngửi thấy mùi gì vậy?”
Ẩn sĩ trả lời: “Tôi ngửi thấy mùi đao binh xương
máu.”
Quan tâm phục, khẩu phục, nhưng lại nghĩ Hồng Lâu
Mộng và Tam Quốc là những tác phẩm lừng danh thiên hạ, nếu quan muốn
thắng được ẩn sĩ, thì phải có một quyển thế gian chưa ai biết. Quay về, quan bí
mật tự sáng tác ra một quyển, mang lên Hoa Sơn. Lần này, ẩn sĩ ngửi mãi cũng
không đoán được sách gì, chỉ thấy mặt mày nhăn nhó. Quan thích chí quá, hỏi:
“Ngài ngửi thấy mùi gì?”
Ẩn sĩ trả lời: “Tôi ngửi thấy mùi chuột chết.”
*
Đó là hai chuyện cổ tích ngày xưa. Một tuần trước
đây là quốc tang Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Như mọi khi có lãnh tụ qua đời, thì
vô số thi nhân khắp nước Nam làm thơ xiển dương công trạng và tỏ lòng thương
tiếc. Một trong những nhà thơ ấy là thi sĩ Nguyễn Trọng Tạo, ông có thơ rằng:
“Nghe trái đất rùng mình thương nhớ
Hướng về Người lấp lánh giữa trời sao…”
Trong buổi lễ tang, trước khi hạ huyệt, một nhà thơ
khác là Hoàng Quang Thuận được vời đến đọc một bài thơ, truyền hình quay phim
phát cho cả nước xem. Bài thơ có tựa là Nhớ mãi chiều xuân có những câu
như thế này:
“Một người con huyền thoại
Đã đi vào lịch sử hành tinh”
Quả là bên tám lạng bên nửa cân. Hậu quả là có vô số
người bịt mũi, họ cho là thơ này sặc mùi “cúng cụ”, dù không cần có khả năng kì
dị như gã thanh niên làm vườn cũng như vị ẩn sĩ kể trên. Tội nghiệp địa cầu,
không dưng mang họa!
Quỡn, mình cũng mần thơ, rị mọ mãi được hai câu:
“Bỗng nghe thơ rơi cái ịch
Địa cầu nồng nặc xú thi ...”
------------------
Bài
liên quan:
18.10.2013
14.10.2013
13.10.2013
Khúc
cuồng tưởng – Rhapsody [2] (truyện / tuỳ bút) - Thu
Shang
No comments:
Post a Comment